Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2013

Hà Sĩ Phu: Chia tay ý thức hệ - Phần 2

Hà Sĩ Phu 


HỎI: Vì sao trong bài "Đôi điều suy nghĩ..." (ĐĐSN...) anh luôn đối chiếu Mác-Lê với Khổng-Mạnh? 

ĐÁP: Theo nhận thức của tôi thì tư duy chính trị Mác-xít chỉ là tư duy Đức trị phong kiến mang màu sắc công nghiệp. Trước đây, bản chất phong kiến của hệ thống chính trị Mác-Lê bị che mờ đi là do mấy nguyên nhân sau:

- Về nội dung: Người ta thấy lý thuyết Mác-Lê có nhân tố mà lý thuyết Đức trị phong kiến không có như Giai cấp công nhân và Đảng tiền phong, tính quốc tế, tính tập thể, tính công nghiệp, tính Duy vật biện chứng.... Hơn thế, lý thuyết Mác-Lê luôn nói về ý thức hệ phong kiến như ý thức hệ phản động cần phải tiêu diệt. 

- Về vai trò lịch sử: Có sự ngộ nhận rằng chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản sắp cáo chung thì phải có cái gì thay thế nó chứ? Trong cơn khủng hoảng của thế giới ở thế kỷ đầu của văn minh công nghiệp thì sự phê phán đối với xã hội Tư bản đương thời và khát vọng về một thế giới khác đã trở nên mảnh đất tuyệt vời để nảy mầm hạt giống Cộng sản, người ta ngưỡng vọng nó như một cái gì hoàn toàn mới mẻ.... Sau thắng lợi huy hoàng ở giai đoạn đầu của trào lưu Cộng sản: chiến thắng phát-xít, sự xuất hiện một siêu cường Cộng sản với nền công nghiệp nặng, vũ khí hạt nhân, thám hiểm vụ trụ... thì ngưỡng vọng ấy càng trở thành niềm tin thực sự. Thực tế ấy khiến cho cả người dù có nhìn thấy điều không ổn trong tư duy Mác xít cũng không dám nghĩ rằng tư tưởng Mác xít chỉ là bản sao mang màu sắc Công nghiệp của tư tưởng phong kiến lỗi thời. Nhưng nếu xem xét vấn đề từ sự tiến hóa đức trị sang pháp trị sẽ thấy bản chất này hiện ra rất rõ.

HỎI: Đức trị và pháp trị khác nhau thế nào? Chuyên chính vô sản là đức trị hay pháp trị?
 
ĐÁP: So sánh đầy đủ ắt phải viết nhiều pho sách, vì trong lịch sử từ Đông sang Tây đã có nhiều biến thể phức tạp. Ở đây chỉ có thể rút ngắn chuyện nghìn năm vào một vài hàng, với một vài điều cốt lõi. Trên đường tìm kiếm phương pháp để tổ chức, duy trì và điều hành xã hội, các nhà tư tưởng phương Tây cũng như phương Đông rút cuộc đều phát hiện các nhu cầu đức trị, pháp trị và nhu cầu phối hợp cả hai yếu tố đó. Ba xu hướng này với vô số biến thể của chúng đã tồn tại và đấu tranh với nhau từ trước Công nguyên cho tới hôm nay, và cùng với chúng là cách nhìn khác nhau về bản chất cao quý hoặc tàn bạo của chính trị và của Nhà nước, cùng với chúng là cẩm nang khác nhau để dạy thủ đoạn chính trị cho nội bộ giới cầm quyền mỗi nước mỗi thời. chuyện "bếp núc" tàn bạo và dối trá của chính trị ta tạm gác sang một bên.

Về triết học mà nói bao quát hết thảy chỉ có hai phạm trù tư tưởng về tổ chức xã hội, xây dựng trên hai nền nhân văn khác nhau: chủ nghĩa nhân văn cổ điển và chủ nghĩa nhân văn mới. Đạo trị nước của Nhân văn cổ điển là Đức trị, đạo trị nước của nhân văn mới là pháp trị. Đức trị cực thịnh ở chế độ phong kiến, ứng với Văn minh Nông nghiệp. Quản Trọng, Hàn Phi, Vệ Ưởng, Machiavel... tuy đã đụng chạm đến pháp trị nhưng về toàn cục thì vẫn nằm trong quỹ đạo đức trị. Pháp trị ra đời cùng với văn minh công nghiệp mở đầu bằng "Dân chủ tư sản" và phát triển thành nền Dân chủ đa nguyên ngày nay. Pháp trị ngày nay cũng có yếu tố đạo đùc, song về tư duy có khác với Đức trị về "chất" không thể lẫn lộn với đức trị được nữa. Chúng ta hãy xem nền chính trị "Chuyên chính Vô sản" nằm ở chỗ nào trong bậc thang tiến hóa ấy? 

Trước hết phải hiểu cơ sở triết học của nhân văn cổ điển và nhân văn mới. Cả hai nền nhân văn đều muốn hướng xã hội và con người đến Chân Thiện Mỹ, cho con người được hạnh phúc trong sự "hòa" với nhau và "thuận" với quy luật. Song mỗi bên nhận thức về Con người một khác và từ đó đưa ra tiền đề khác hẳn.Tư duy nhân văn cổ điển dựa trên tiền đề: Con người bản chất là thiện và giống nhau nhưng trong quá trình sống bị cái ác làm cho "tha hóa" đi và phân ly ra (Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn). Vậy phải chống cái ác và chống sự phân ly, chống sự tha hóa thu về một mối! Tư duy chiến lược của đức trị là nhất thể hóa xã hội, mà đỉnh cao của nó thể hiện ở tính tập thể quốc tế, đại đồng... của thuyết Mác-Lênin.

Tư duy "nhất thể hóa" ấy đương nhiên dẫn đến chỗ phải tìm kiếm và khẳng định xem cái khuôn mẫu "thiện" duy nhất ấy là cái gì. Phong kiến khi xưa thì khẳng định đó là "đạo vua...) mà Thiên tử được ủy nhiệm, Mác-Lênin thì khẳng định đó là "hệ tư tưởng của giai cấp công nhân tiêu biểu cho Thời đại", mà Đảng Cộng sản là đội tiên phong được Lịch sư giao phó, khẳng định ấy đều mang tính "tiền đề", nghĩa là chỉ được giải thích chứ không được chứng minh, hoặc đã chứng minh một lần rồi là không bao giờ được xét lại nữa. Bởi tất cả chân lý ấy đều là do đại biểu của họ viết ra chứ có ai biết mặt mũi ông Trời và ông Lịch sử ra sao đâu. Điều này giải thích tại sao tất cả các chính thể đức trị đều không thoát khỏi màu sắcTôn giáo.

Về biện pháp, lúc đầu nặng về khuyên răn giáo dục (cầu bất giáo, tính hãi chuyên: nếu không giáo dục thì cái tính tha hóa phân ly ấy sẽ quen đi), nhưng biện pháp "thiện" này bất lực trước thực tiễn, và các nhà đức trị đã buộc phải cầu viện đến cái "ác" trong biện pháp. Machiavel khuyên quân vương phải biết lừa đảo và tàn nhẫn, (vừa như con vật vừa như thằng người). Thế mà theo Creel thì Machiavel so với Hàn Phi vẫn chưa thấm vào đâu; Hàn phi, Thần Bất Hại... đề cao cái "Thuật" trong phép trị nước. Đến Mác-Lê thì sự quyết liệt này lại lên cao thêm một cấp độ nữa, không ngần ngại nói thẳng ra rằng người Cộng sản mà không dám đẩy cái đấu tranh giai cấp tới cấp độ chuyên chính vô sản thì cũng chưa xứng với tầm Cộng sản...! 

Nếu tính ác trong chính trị Machiavel còn được ý thức là cái ác mà quân vương buộc phải làm, cái ác trong chính trị Hàn Phi còn manh nha cho pháp trị, thì đến Mác-Lê cái Chuyên chính hoàn toàn không được nhận thức như cái ác, mà làcái thiện gấp triệu lần cái thiện khác, không còn là biện pháp bất đắc dĩ của quân vương mà biến thành cái chân lý mà quần chúng cần hướng tới, không phải mở đường cho pháp trị mà lại trèo trên pháp trị, ức chế pháp trị. Đến Mác-Lê thì mâu thuẫn thiện-ác nội tại của Đức trị đã lên tột đình. Hệ tư duy Đức trị khởi thủy là "toàn thiện": con người thiện, phương pháp thiện đi đến cái đích cực thiện. Nhưng lối suy nghĩ duy tâm ấy và phải thực tế nên buộc phải bổ sung bằng cách sử dụng cái Ác với tư cách phương pháp, có nghĩa là tự thâu nhận vào trong lòng mình cái Ác, và thế là phải chấp nhận cái đối lập với mình, vì bản tính của thế giới khách quan vốn là Đa nguyên. Nhưng người Mác xít luôn nói đến tính muôn màu muôn vẻ của tự nhiên mà không nhận ra cái lẽ Đa nguyên rất tự nhiên của trời đất, bởi dẫu đã cố gắng duy vật và biện chứng (đồng thời vẫn rất duy tâm và siêu hình) nó vẫn quanh quẩn trong hệ ý thức Nhân văn cổ điển, luôn "nhất thể hóa" xã hội, cứ muốn thu xã hội về một mối, tỏa ra từ một nguồn.

Hệ Nhân văn cổ điển tuy có tự bổ sung như vậy vẫn không thoát khỏi bế tắc. Lúc đầu ta tự an ủi rằng cái ác chỉ là phương tiện để đi tới cái thiện nên ráng nhắm mắt mà chịu cho qua giai đoạn "quá độ". Nhưng việc tách mục đích và phương tiện một cách rành mạch như thế không biện chứng chút nào. Mục đích lồng trong phương tiện, và phương tiện cũng lồng trong mục đích, mục đích của công đoạn trước có khi là phương tiện cho công đoạn sau (cái lát cắt chia đôi mục đích với phương tiện chỉ là lát cắt giả tạo), mục đích và phương tiện luôn đổi chỗ cho nhau. Cái Ác cũng biết tự vệ, nửa đường nó dừng lại để tự sinh sôi và không tiếp tục con đường hành Thiện nữa. Giai đoạn "quá độ" kéo dài vô thời hạn. Thiện Ác dồn lại một cục, đạo đức và Phi đạo đức cứ xoắn vào nhau, lẫn lộn không biết đâu mà phân biệt. Quá rành mạch cuối cùng lại không rành mạch. (Khi ấy, cái lát cắt chia đôi Thiện và Ác cũng không giúp ta phân định mọi điều được nữa!)

Chưa kịp đối phó với bệnh giáo điều coi "phương tiện Mác-Lê" là mục đích để gây ra cái hại chung, đã phải quay sang đối phó với tật thực dụng, dùng Mác-Lê làm phương tiện để tạo cái lợi riêng. Cái bế tắc ấy của thể chế Xã hội chủ nghĩa không mới mẻ gì, chỉ là cái bế tắc nghìn đời của lý tưởng Đức trị, mà đáng lẽ đã được lịch sử cho phép cáo chung cùng với sự cáo chung của chế độ Phong kiến và Văn minh Nông nghiệp rồi. Các nền Đức trị bế tắc vì coi cái gốc của Thiện là ở bên trên, ở Vua, ở Đảng tiền phong..., nên khi chính cái gốc ấy tha hóa thì không tự "hoàn Thiện" được. pháp trị khơi thông được bế tắc này là nhờ coi nguồn Thiện vô tận là từ biển cả Nhân dân, nên chủ trương tạo điều kiện gây sức mạnh từ dưới lên để khống chế sự tha hóa của quyền lực thống trị và làm nó mạnh trở lại.

Sự ra đời của sản xuất Công nghiệp và Kinh tế thị trường đã chiếu một tia sáng hoàn toàn mới vào tư duy của con người trong việc tổ chức và điều hành xã hội. Người ta nhận ra cái nghịch ly rằng muốn cho xã hội có đạo đức hơn thì phải giả thiết là nó gồm người chưa có đạo đức, và không thể gom họ về một mối tốt đẽp đã định sẵn được. Nguy cơ vô đạo đức nhất luôn phát xuất từ kẻ đi thi hành đạo đức, bởi quy luật của quyền lực là bành trướng vô hạn độ, nếu không gặp phản lực. Người đạo đức thực sự bây giờ giác ngộ rằng phải tạm gác "phương án tối đa" để đảm bảo cho "phương án tối thiểu": Chưa cần anh đạo đức, xin anh hãy sòng phẳng với chúng tôi cái đã! Nghĩa là xã hội loài người phải đổi luật chơi. 

* Thay vì sử dụng sức mạnh xã hội theo chiều từ trên xuống để tác động vào đám dân đen, bây giờ phải gây sức mạnh từ dưới lên để khống chế thế lực cầm quyền, thông qua quyền bầu cử và các quyền công dân khác, mà quyền cơ bản nhất là quyền tư hữu. 

* Thay vì tập trung quyền lực vào một nguồn (nhất nguyên), bây giờ phải "tam quyền phân lập" và chấp nhận nhiều tổ chức chính trị độc lập với nhau trong xã hội (đa nguyên). Thay quyền lực định sẵn kéo dài vô hạn, bằng quyền lực dân cử, định kỳ hữu hạn. 

* Thay vì nhân danh một lý tưởng cao xa do áp đặt đơn phương, người cầm quyền chỉ được nhân danh cái khế ước rất cụ thể do mọi người trong xã hội cùng nhau thỏa thuận, gọi là luật pháp. Thay vì bị quy định trong tất cả mọi việc làm, người dân bây giờ chỉ bị quy định về điều không được làm, do đó phạm vi tự do cá nhân được nới rộng một cách căn bản 

* Thay vì lấy chuẩn tĩnh là vua hoặc một tập đoàn gọi là tiền phong, phải lấy chuẩn động là lực lượng tiên tiến luôn xuất hiện từ trong xã hội. 

* Kết quả là một xã hội thần dân ổn định giả tạo dưới ách chuyên chế được thay bằng một xã hội công dân linh hoạt và hơn hẳn về tính Dân chủ. Tư duy khoa học và tiến bộ này được khơi nguồn từ John Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1755)..., phát triển thành nền "Dân chủ tư sản" thế kỷ 18-19, rồi thành nền Dân chủ đa nguyên pháp trị ngày nay.

Đức trị đã có vô số biến thể thì pháp trị cũng không thể quy về một hình mẫu cứng nhắc nào. Một thể chế xã hội tốt, nhất định phải phù hợp, với đặc điểm Dân tộc là Lịch sử của mình. Nhưng không thể vin vào đó để duy trì một chế độ Đức trị Mácxít ảo tưởng, mà thực chất là nền Chuyên chính của thiểu số nhân danh Vô sản, thiết lập trên đầu nhân dân, trong khi Nhân loại đã chuyển sang kỷ nguyên pháp trị! Trên cơ sở điều đã trình bày trên tôi thấy có thể kết luận rằng: Bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về xã hội là dòng tư tưởng Phong kiến phục hưng, cộng với ảo tưởng Cộng sản nguyên thủy (hoặc ảo tưởng nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền Văn minh Công nghiệp. Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới mang cái mốt công nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua trước đây nhiều thế kỷ. Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính xúc tích huyền bí đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có thực trên đời.

HỎI: Quan hệ giữa Đức trị và đạo đức? 

ĐÁP: đạo đức là một giá trị tinh thần cao quý, nhưng cũng biến đổi theo thời đại. Khi thời đại thay đổi thì đạo đức là yếu tố tương đối ổn định nên biến đổi chậm hơn so với biến đổi của kỹ thuật, kinh tế, chính trị.... Vì thế, tác dụng của đạo đức mang tính hai mặt. Mặt tích cực là duy trì ổn định xã hội, nhất là của dân tộc, chống lại điều nhi nhô nhất thời. Mặt tiêu cực là tính ỳ cao, ở giao thời của lịch sử thì đạo đức đương thời luôn thuộc về hệ thống cũ. Lực lượng mới của xã hội muốn đi tới bao giờ cũng phải làm cái động tác phá vì đạo đức cũng như con gà con phá vỏ trứng để chui ra. Vì thế, bản chất của tiến hóa và sinh sôi là phi đạo đức! đạo đức còn có một thuộc tính nữa là rất dễ bị bắt chước để làm giả, đạo đức giả còn mê ly hơn cả đạo đức thật. Nhà chính trị lão luyện nào cũng phải là một tay "chơi đạo đức". Vì thế, luật của pháp trị lành mạnh là Cấm trị nước bằng đạo đức! "

Một thuộc tính khác của đạo đức là xu hướng tự hoại, nghĩa là trong môi trường mà đạo đức cầm trịch thì đạo đức sẽ tự mất đi. đạo đức là giá trị cao quý mà mỗi con người cần có để đối xử với nhau và giáo dục nhau, muôn đời không ai dám nói bỏ đạo đức, nhưng Đức trị thì loài người thông minh ngày nay không sài n"a rồi. Chừng nào chưa biết ghê sơ Đức trị thì dân tộc ấy còn ở trong cơn mê man để làm mồi ngon cho mưu toan. Trừ khi cả dân tộc ấy (cả tầng lớp thống trị và bị trị) đều là tay "chơi đạo đức" thì không kể! Nhưng chẳng lẽ điều này lại có thể xảy ra, và nếu tất cả đều ranh ma như thế thì tôi còn viết lời ngốc nghếch này ra đây làm gì? Không, không thể như thế. Nhân dân, ít ra là nhân dân lao động và một thiểu số trí thức, bao giờ cũng lương thiện! 

HỎI: Thực tiễn nào ở Việt Nam minh chứng cho quan điểm của anh về bản chất Phong kiến của nền Đức trị Mác-xít?
 
ĐÁP: Có thể nói toàn bộ thực tiễn Việt Nam và thực tiễn trong phe Xã hội chủ nghĩa minh chứng cho quan điểm của tôi. Xin kể mấy ví dụ điển hình: 

* Theo trí tưởng tượng của Mác thì ý thức hệ Phong kiến là rất xưa cũ, phải trải qua ý thức hệ Tư sản rồi mới tiến lên ý thức hệ Vô sản, mà mỗi bước chuyển biến ấy là cả một kỷ nguyên mới, trong lịch sử phải đo bằng ngàn năm chứ đâu phải chuyện chơi! Ý thức lại là cái thay đổi rất chậm so với kinh tế, vậy mà chẳng hiểu sao nước Phong kiến lạc hậu như Trung Hoa, Việt Nam, Lào, Cao Miên... lại tiếp nhận thẳng ngay ý thức hệ Vô sản một cách nhạy bén đến thế, mà tiếp nhận rồi thì bám chặt lấy, tẩy cũng không đi. Trong khi đó nước đã ở trình độ cao của ý thức hệ Tư sản thì sao lại tỏ ra ngu dốt không tiếp thu nổi ý thức hệ tiên tiến của Mác? 

Có gì đâu mà lạ! Cùng một chất Phong kiến như nhau thì thâm nhập vào nhau đâu khó khăn gì! Lúc đầu người ta cứ tưởng Việt Nam chưa có giai cấp công nhân bao nhiêu, toàn nông dân thì tiếp thu ý thức hệ Vô sản chắc là khó lắm, ai ngờ bây giờ mới biết cái xứ sở Nông dân Phong kiến lạc hậu này mới chính là mảnh đất lý tưởng của Mác-Lê! Cái chất Phong kiến gia trưởng thời vua chúa chưa kịp tẩy rửa bởi một nền Dân chủ đã tìm thấy chỗ đứng rất ngon lành trong hệ chuyên chính dân chủ tập trung! Cái chất Đức trị sặc mùi tam Cương ngũ Thường chưa bị thanh toán đã tìm thấy sự đồng điệu trong một thể chế "Ý thức hệ trị", một thứ Đức trị mới toàn Nghị Quyết, Cương lĩnh, Thường vụ.... Nếu nhìn thấy 55 tập Lênin in tuyệt đẹp chắc cụ Khổng cụ Mạnh phải ghen tỵ không được sống tới bây giờ, để Tứ thư, Ngũ kinh cũng được làm quen với giấy "cút-sê"! Nói: chủ nghĩa Xã hội chính là sự kéo dài của chế độ phong kiến là chí lý lắm vậy. Mối tương hợp ấy Mác cũng đã mường tượng ra, nhưng ông lại giải thích nó một cách khác. Theo ông, "Công xã nông thôn", "Cộng đồng làng xóm chính là chỗ dựa của nền Chuyên chế phương Đông" là thứ nhất định sẽ bị thanh toán khi tiến lên chủ nghĩa Tư bản, nhưng lại trở thành cái khởi điểm trực tiếp để đi tới chủ nghĩa Xã hội (! ) (? ). Đấy chẳng là bằng chứng về sự tương hợp giữa hai thứ Chuyên chế là gì? 

* Bây giờ thử nhìn vào đội ngũ những người đã du nhập chủ nghĩa Mác-Lê vào Việt Nam. Trước hết về chủ tịch Hồ chí Minh. Theo lời cụ Hồ cũng như theo lời người nghiên cứu về cụ Hồ đều thống nhất rằng cụ Hồ là một nhà Nho. Nho giáo ở cụ Hồ là Khổng giáo. Tư tưởng chính trị của Khổng giáo là Đức trị, thậm chí chống pháp trị. Về chất Nho của cụ Hồ, ta sẽ không nói tới cái Nho trong cách biểu đạt tư tưởng, trong đó rất nhiều câu nhiều ý là từ sách vở Khổng giáo, chỉ bàn về nội dung tư tưởng bên trong cách biểu đạt đó. Cụ Hồ thấm nhuần đạo Khổng ở tính đạo đức của nó ("Đạo Khổng là một môn giáo dục về đạo đức và phép xử thế", lời cụ Hồ nói với nhà thơ Ôxíp Manđenxtam). Về biện pháp để có đạo đức thì xoay quanh mấy chữ "học", "dạy", "tu dưỡng bản thân", "phê bình và tự phê bình"... Cụ nói: "Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân", "Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có con người Xã hội chủ nghĩa! ". Tức là cụ Hồ đã đi đúng vào cái vết xe mà Đức trị đã đi suốt mấy nghìn năm: chính tâm, tu thân, trị quốc, bình thiên hạ! Rồi cũng bằng chính tấm lòng khao khát có một thể chế Đức trị cho dân tộc ấy, cụ Hồ đã bắt gặp lý thuyết Chuyên chính Vô sản và mê ngay từ buổi gặp đầu. Tôi dùng chữ cộng hưởng là vì vậy.

Cái hay cái đẹp như các cụ nói nào có ai phản đối. Vấn đề là làm thế nào để thực hiện? Khi xã hội đã tiến vào sản xuất Công nghiệp và kinh tế Thị trường thì việc trị nước bằng cách lấy Cá nhân làm gốc để tỏa ra làm tốt xã hội, lấy Giáo dục làm biện pháp trung tâm chắc hẳn đã bị đẩy vào quá khứ cùng với nền Đức trị phong kiến, nếu trên đời đã không sinh ra kẻ kế thừa đó là nền Chuyên chính Vô sản. Nếu cụ Hồ chỉ là nhà giáo dục, nhà thơ... thì ta chẳng nói, nhưng cụ Hồ đã nhận mình là "nhà Cách mạng chuyên nghiệp" tức nhà chính trị, tức người cầm quyền thì xã hội chờ đợi ở Cụ một Cơ chế tổ chức xã hội, một bộ luật, và một hệ thống quyền lực sao cho trong đó cái đạo đức cứ được phát sinh và nuôi dưỡng, cái phi đạo đức cứ bị lọc ra và trừng trị; giáo dục rèn luyện chỉ còn là biện pháp hỗ trợ. Thế mới là đạo đức thật sự, và đó chính là cái đạo đức của pháp trị. Nhưng thực tế, cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy Đức trị Vô sản đã gây hiệu quả ngược lại với đạo đức.

Có gì khó hiểu đâu. Hãy xem vai trò người tối cao của bộ máy hành pháp: Thủ tướng! Sinh thời của Hồ chủ tịch thì thủ tướng là cụ Phạm văn Đồng. Người Việt Nam tỉnh táo nào cũng gọi cụ Phạm văn Đồng là vị thủ tướng của đạo đức, cả một đời nói đạo đức, đặc biệt là đạo đức Hồ chí Minh. Cụ Đồng nói nhiều đến ĐỨC và TÀI, đến HỒNG và CHUYÊN. Nhưng ĐỨC và TÀI thì cụ Hồ đã giảng bằng lời của sách Đại học (một trong Tứ thư): "Đức giả bản giã, Tài giả mạt giã! " (Tài chỉ là ngọn, Đức mới là gốc). Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức là không có căn bản! " Sau khi đã đưa được Đức lên vị trí tối thượng, cụ Hồ mới cho Đức mang cái nội dung cốt tử của Chuyên chính vô sản: chữ TRUNG! Mà "trung" phải là "trung với Đảng"! Rồi mới "Hiếu với Dân" vân...vân...

Tuy Dân có được kể đến ngôi vị thứ nhì, nhưng rồi lại có mệnh đề "Đảng với Dân là một". Tuy được "là một" nhưng ngồi chung vào cái ghế này "Dân" sẽ bị "Đảng" thôn tính, vì Dân phải nhớ rằng Đảng luôn là người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối! " Thế thì Dân còn chỗ nào đứng? Thương thay cho Dân đã thực sự trở thành con đỏ, được ru được nựng, được bế ẵm hết chỗ này sang chỗ kia, nhưng có cái bầu sữa thì ở trong tay "mẹ hiền" mất rồi, không khóc thì Đảng không cho bú, mà liệu có dám khóc không, khi "mẹ hiền" cầm sữa lại cầm cả roi! Sự tước đoạt ấy là trong phạm vi ý thức hệ. "Hình chiếu" của nó ra thực tế là sự tước đoạt về "sở hữu" và "nhân quyền". Đảng hô hào đấu tố địa chủ để "người cày có ruộng". "Có ruộng" chưa mấy ngày đã phải vào tổ đổi công rồi vào hợp tác, giao hết ruộng hết trâu cho "Ban chủ nhiệm". Và từ đấy trở đi là cảnh:

Mỗi người "làm việc bằng hai"
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe!
Mỗi người "làm việc bằng ba"
Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân! 

Chủ nhiệm là ai, dứt khoát là người trong Cấp ủy Đảng, nên quyền sinh quyền sát trong tay. Bị chủ nhiệm trù thì con thi vào đại học rồi cũng bị xã gọi về, bố mẹ có sang tỉnh khác để kiếm ăn cũng không thoát khỏi bàn tay quản lý hộ khẩu của Đảng! Trạch trong rổ cua làm gì có quyền tự do đi học, tự do cư trú...? Có liều lĩnh tự do ngôn luận mà gửi đơn kiện tới Thủ tướng thì Thủ tướng lại giảng đạo đức, đạo đức thì phải "trung với Đảng", nên đơn kiện lại chuyển đúng về Đảng ủy xã để Đảng ủy hành... pháp! Con đường Đức trị vòng vèo quá nên người dân đâu có nhìn thấy, Đảng an ủi cho vài câu đạo đức là lại tỉnh cả người, và lại cố sức để tiếp tục "làm việc bằng hai"! 

Người không hiểu thì tưởng cụ Hồ chỉ mượn Khổng giáo cái chữ nghĩa, còn nội dung thì đã có "Đảng", có "hợp tác xã" nghĩa là đã mang tính Cách mạng rất mới mẻ rồi.! Có biết đâu nội dung phong kiến của chữ TRUNG vẫn được giữ nguyên, "trung" là dứt khoát không được nghĩ đến vị chúa tể thứ hai, "lưỡng Đảng" chẳng hạn là mắc tội chết rồi. Cái mới mẻ là : đáng lẽ trung với Vua thì nay phải trung với Đảng. Đảng đứng thay vào chỗ của Vua trong cõi tâm linh của người dân Việt, được hưởng trọn tấm lòng "trung quân" mà chế độ Phong kiến phải mất cả ngàn năm mới xây dựng được! Ví dụ nhỏ trên đây chắc có thể giúp bạn nhận ra rằng sự Tập thể hóa kia không hề khử đi cái nội dung Phong kiến của chữ Trung, trái lại nó làm cho chữ Trung Phong kiến được "cập nhật hóa" để nó có thể sống yên giữa thời sản xuất Công nghiệp, ít ra là trong buổi đầu.

Đức trị Vô sản, đem đối chiếu với Đức trị Phong kiến thì tính "cách mạng" chỉ có nghĩa là thay "sự trung thành của cá nhân thần dân với cá nhân Vua" bằng "sự trung thành của một tập thể dân với một thể cầm quyền", để rồi trong tập thể cầm quyền này sự trung thành tối hậu sẽ được giải quyết bằng Đảng tính và nguyên tắc Dân chủ tập trung. Điều chua chát là trong sự tranh chấp ở cung đình này nhiều phen cụ Hồ và cụ Đồng với tư cách lãnh tụ chân chính của Đảng, đã không phải là người được nhận sự trung thành tối hậu đó. Tôi được nhiều Đảng viên hưu trí kể rằng: Cụ Đồng rất nhiều tâm sự, Cụ bảo "cả đời làm Thủ tướng, tham nhũng như rươi mà tôi chưa cách chức được một cán bộ nào! Hiện nay ta chống tham nhũng nhưng cũng chỉ chống được từ vai trở xuống thôi!"

Nghĩa là Tham nhũng ở trên đầu là không chống được! Người dân có thể chia xẻ với Cựu Thủ tướng tâm tư ấy, nhưng chắc vị Cựu Thủ tướng của chúng ta chưa bao giờ dám nghĩ rằng cội nguồn của bi kịch này là ở bản chất Phong kiến của nền Đức trị Vô sản! Chẳng thế mà ít lâu sau cụ Đồng lại tiếp tục cuộc đánh tham nhũng bằng... bài giảng đạo đức, đạo đức Hồ chí Minh. Chính cụ Hồ với đạo đức Hồ chí Minh có thật trong tay mà chưa chống được tham nhũng, huống hồ một người nào đó không phải Hồ chí Minh, chỉ nói đạo đức Hồ chí Minh chứ chắc gì đã có đạo đức thật, thì thử hỏi chống thế nào được tham nhũng? Xin hãy lắng nghe lời mách nước của thời đại (nếu thực tâm muốn nghe): Hãy quên đạo đức đi, để làm pháp trị cho ngon lành thì tham nhũng nó mới sợ! 

Muốn có công bằng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn luôn dẫn đến mất công bằng. Muốn có dân chủ mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn luôn dẫn đến quân phiệt. Muốn được giải phóng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì đạo đức là cái bẫy của kẻ thống trị để bẫy kẻ có tâm mà trí không đủ, chỉ thấy gần mà không thấy xa. Càng hướng thiện bao nhiêu, càng cựa quậy để tìm đạo đức bao nhiêu, thì càng rúc sâu vào bẫy bấy nhiêu. Kẻ thống trị chỉ cần nắm cái bẫy đạo đức giơ lên là xỏ mũi được cả đàn. Không biết đến bao giờ Nhân dân mới nhận ra điều ấy, lúc ấy người ta sẽ tìm pháp trị.

Xin nối lại một chút cái mạch suy nghĩ về ĐỨC và TÀI. Khởi đầu có vẻ như đây là hai giá trị song song. Nhưng không, ý thức hệ Đức trị buộc phải coi Đức là gốc, Tài là ngọn. Rồi cái gốc Đức ấy lại phải mang nội dung số 1 là trung với Đảng. Chỉ cần thuyết giảng hai bước ấy thôi là TÀI đã tụt xuống thân phận đầy tớ cho sự nghiệp Chính trị của Đảng. TÀI mà không phục vụ được sự nghiệp Chính trị của Đảng thì cũng "không bằng cục phân". Đừng nghĩ rằng điều quá quắt này là ở bên Tàu mấy năm về trước. Chính ở Việt nam đây ngày hôm nay, giữa lúc sự nghiệp đổi mới rất thành công này, điều ấy càng đúng hơn bao giờ hết! Đảng ta đang trọng trí thức và càng ngày càng trọng trí thức, điều ấy xin đừng ai nghi ngờ. Vì Đảng ta thừa biết nếu chỉ dùng mấy anh bất tài, thì dẫu có giữ độc quyền sở hữu đất đai để độc quyền mua bán với nước ngoài cũng không thể hòa nhập được vào thế giới đầy trí tuệ hôm nay. Nên mọi tài năng ắt được sử dụng, nhưng với một điều kiện: phải phục vụ cho sự nghiệp chính trị của Đảng (chú ý rằng Chính trị Mác xít thì bao giờ cũng có Kinh tế trong đó rồi! Mác-Lê chỉ dạy kinh tế- Chính trị học Économie politique, mà không dạy Khoa học Chính trị Science politique!). Sự nghiệp của Đảng thì luôn đồng nghĩa với sự nghiệp của đất nước, nên ở Việt nam này dù nói "vì đất nước" hay "vì Đảng" thì ý nghĩa chính trị công khai của câu văn cũng không có gì thay đổi (nhưng trong chốn lương tri thầm kín thì hai câuvăn kia lại có nghĩa đạo đức trái ngược hẳn, người ta biết anh vì đất nước thì người ta trọng, chứ biết anh là kẻ "vì Đảng" thì người ta lánh xa đấy, không "là một" được đâu!).

Vừa ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TIỀN, trái ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TAI! Chọn đường nào thì chọn! Trí thức Việt Nam nhạy bén, họ hiểu ý Đảng nên chẳng dại gì mà chọn chữ TAI, cứ chọn con đường có hình Bác Hồ chỉ lối, để "Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân..." thì "đánh đâu thắng đấy. Cứ có Bác Hồ trong tay là sai khiến được ráo, Chuyên chính Vô sản chỉ nghe lời Bác Hồ! Người Việt thời nay nói về đồng tiền cách mạng một cách rất đạo đức như thế! Đấy là bài đạo đức mà xã hội Mác-Lê đã dạy cho họ. Trong thâm tâm họ thừa hiểu bài đạo đức của lãnh tụ Vô sản thuyết giáo, vô tình chỉ để tạo ra một tầng lớp Cường hào mới giầu có gấp vạn lần bọn Cường hào phong kiến khi xưa. Thời cực thịnh của Đức trị là Phong kiến, ngày nay cứ ham Đức trị là rơi vào Phong kiến, mà Phong kiến ngày nay thì đâu còn cái nét đẹp của Phong kiến cực thịnh ngày xưa? 

Phân tích như trên tôi không có ý gì muốn xúc phạm đến tấm lòng của cụ Hồ chí Minh, cụ Phạm văn Đồng là vị có công Cứu nước, cũng như không dám xúc phạm đến tấm lòng cụ Các Mác thánh thiện. Trái lại tôi muốn khẳng định rằng tấm lòng dù thánh thiện đến đâu cũng không thoát khỏi cái vòng Kim cô của Ý thức hệ. Đối với người điều hành xã hội, vấn đề là phải giải phóng Ý thức hệ trong cái đầu, chứ chủ yếu không phải là khổ công rèn luyện để "chính cái Tâm"! Đứng trong ý thức hệ ấy thì cái Tâm cũng chẳng "chính" mãi được đâu! "chính" thật thì ra rìa!
HỎI: Có thể bàn gì về "Tư tưởng Hồ Chí Minh"? 
ĐÁP: Về cơ bản vấn đề này không còn là vấn đề khó nhận thức nữa, song ở một chừng mực nào đó lúc này vẫn còn là việc khó nói, và có lẽ chưa tiếng nói nào có thể là tiếng nói cuối cùng, song cũng đã là việc không thể không nói. Hồ chí Minh đã thành nhân vật lịch sử của Dân tộc và của thế giới. Tốt nhất không nên coi Hồ chí Minh là thủ lĩnh, hay thần tượng, hay kẻ thù, của anh, của tôi nữa. Cuộc đời của Chủ tịch đã để dấu ấn khắp nơi, tôi có nói thêm, anh có nói bớt cũng không được. Tốt nhất là ai nghĩ sao nói vậy, biết sao nói vậy, thẳng thắn và chân thành, có thể ý kiến ấy chưa đạt tính hệ thống và toàn diện.

Về phần tôi, tất cả ý kiến đã trình bày và sẽ trình bày trong bài viết này về Ý thức hệ Vô sản, về tình hình đất nước cũng đã là lời bàn về nhân vật lịch sử số 1 ấy rồi. Đây chỉ là mấy lời bàn thêm: 

* Cụ Hồ thuộc nhà Nho yêu nước lớn của Việt nam, là một người Việt nam điển hình của thế kỷ 20, tài giỏi về nhiều mặt. Sự gặp gỡ của Hồ chí Minh với Phong trào Cộng sản là biến cố bao trùm cuộc đời của Cụ, và do đó góp phần quyết định chiều hướng phát triển của ngót một thế kỷ đầy biến cố lớn lao của lịch sử Việt Nam, và ảnh hưởng sang cả nhiều nước cùng cảnh ngộ. Trong cuộc gặp gỡ lịch sử ấy, Hồ chí Minh đã xử lý một cách thành công đồng thời cũng không thành công.

* Nương theo trào lưu Cộng sản đang tràn dâng trên thế giới để đánh thức và tập hợp sức sống của một cộng đồng Dân tộc, làm cuộc Khởi nghĩa Tháng 8 thành công và sau đó là 9 năm trường kỳ kháng chiến thắng lợi, đem lại khuôn mặt mới và khí thế mới cho nước Việt Nam từ nô lệ và nghèo đói là một sự nghiệp thần kỳ. 

* Song, điều đáng tiếc là sự nghiệp Hồ chí Minh đã không đi tiếp vào con đường Dân tộc hòa bình sáng lạn. Mặt tiêu cực của sự gặp gỡ giữa dân tộc Việt nam nói chung và Hồ chí Minh nói riêng với trào lưu Cộng sản là đã du nhập vào đất nước mình một mô hình Xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặt căn bản trên một ý thức hệ phong kiến tân thời, một thiên đường trại lính Mao ít, nên nước Việt nam độc lập đã không bắt kịp trào lưu canh tân của thế giới mà trở thành nạn nhân bi đát nhất của cuộc chiến hai phe của các nước lớn.

Sau cuộc huynh đệ tương tàn oan uổng, ý thức hệ ấy lại tiếp tục chỉ huy cuộc hành hạ lẫn nhau, tạo môi trường cho yếu tố hủ bại hãnh tiến lên ngôi, phá hoại kỷ cương, phá hủy giá trị lương thiện và tiến bộ. 

* Cuối cùng thì Ý thức hệ đang rút lui khỏi lịch sử một cách không tuyên bố, nhưng đất nước vẫn tìm lối ra theo cung cách như trên,với một nhịp điệu ghê gớm hơn, và gây ra hậu quả sâu sắc hơn. Và bi kịch thay, thần tượng anh hùng dân tộc Hồ chí Minh rất đẹp đẽ lại được dùng làm bình phong để bảo trợ cho tiến trình lắt léo này. Đó là tất cả sự khôn ngoan Việt nam. 

* Chủ tịch Hồ chí Minh đã thành công trong một sự nghiệp lớn, nhưng lại không thành công trong một sự nghiệp lớn hơn, bao quát hơn. Xét về nguyên nhân chủ quan, ta thấy thành công đều gắn với bản chất thông minh và nhân hậu, ý chí kiên cường và đặc biệt khôn ngoan khi xử lý tình huống, khả năng lợi dụng tình hình và thời cơ, tận dụng nhân tố có sẵn từ bên trong và bên ngoài thành sức mạnh tổng hợp để đạt mục tiêu.

Nhưng sang một bài toán lớn hơn, mang tính thời đại hơn, thì ưu điểm ấy không đủ. Do bản năng nhạy bén, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy từ trào lưu Cộng sản sức mạnh ghê gớm cần phải sử dụng, và cũng linh cảm thấy trong đó có điều phải cảnh giác, nhưng điều kiện chủ quan cũng như khách quan đã không cho Nguyễn Ái Quốc đủ nhận thức hệ thống để phân định vấn đề tận gốc, nên đã sa vào thiên la địa võng của một đại bi kịch nhân loại mà nước khôn ngoan hơn đã tránh được. Dùng âm binh rồi không khiến nổi âm binh, để lại bi kịch cho dân tộc cũng như bi kịch cho cuộc đời riêng của mình. Vậy nếu phải nói về chỗ bất cập của người anh hùng Hồ chí Minh trước bài toán lịch sử của Dân Tộc tôi sẽ nói rằng nhà Chính trị yêunước tài ba ấy không phải là một nhà tư tưởng, Nhà Nho yêu nước ấy kế thừa tư tưởng Đức trị phong kiến Khổng giáo nên đã cộng hưởng với chất Đức trị Vô sản trong chủ nghĩa Mác; đạo đức ấy rất đẹp nhưng trong xã hội hôm nay nó chỉ còn là chỗ ẩn nấp rất lý tưởng cho thứ phi đạo đức.

* Lịch sử đã quay hết một vòng, nay ngồi nghĩ lại mà so sánh một đường cách mệnh của cụ Nguyễn Ái Quốc theo gót Mã Khắc Tư và Lý Ninh (Marx, Lenin) với con đường "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" của cụ Phan Tây Hồ theo gót Mạnh-Đức Tư-Cưu và Lư Thoa (Montesquieu, Rousseau) thì mới biết câu "Dục tốc bất đạt" của cổ nhân chí lý lắm vậy. Muốn nhanh thì không tới được! . Đường lên Văn minh không có lối tắt, đi tắt để tiến thẳng lại hóa ra đi vòng quanh, đi mãi cuối cùng lại phải vòng về điểm xuất phát ban đầu!

* Trình bày từng ấy ý kiến chắc cũng đủ nói lên nguyện vọng của tôi, một người dân Việt hậu sinh về cái việc lập hẳn một Viện Tư tưởng Hồ Chí Minh là một việc không nên chút nào! Trong nhân dân, biết bao nhiêu điều dị nghị.

- Việc áp dụng (dầu là áp dụng tài tình) một hệ tư tưởng đã có, chẳng lẽ lại là một hệ tư tưởng nữa hay sao? Về mặt tư tưởng thì cụ Mác, cụ Lê còn lo không đứng được huống chi học trò, lại là một học trò không chuyên về tư tưởng, chủ yếu trông coi phần thực nghiệm? 

- Cụ Hồ mang nhiều tính truyền thống Việt nam điển hình, trong đó có truyền thống thực dụng, không có tư tưởng, không chính thống, không coi trọng lý luận (chỉ dùng lý luận khi cần ngụy biện). Cứ chấp vá mỗi thứ một tý, vay mượn Khổng Mạnh, Mác Lê, Thích Ca, Giê Su, Tôn Dật Tiên... đủ cả, miễn sao đạt mục đích.

- Nếu Việt nam có nhà tư tưởng riêng thì sao lại tự chấp nhận sự phân cấp "Chủ nghĩa Mác-Lênin! Tư tưởng Mao trạch Đông! Tác phong Hồ chủ tịch! ".

Nhiều lần cụ Hồ đã khoán trắng phần tư tưởng cho các lãnh tụ khác. Ví dụ Cụ Hồ chỉ lên ảnh của Xta-lin và Mao trạch Đông để trấn an tư tưởng cán bộ: "Tôi có thể sai, nhưng ông này không thể sai! , Tôi không viết lý luận, lý luận Bác Mao viết cả rồi! 

- Có người lại viện dẫn định nghĩa của Lênin về Nhà tư tưởng, và nói rằng theo định nghĩa ấy thì Hồ chí Minh dứt khoát là Nhà tư tưởng! 

- Nếu có Nhà tư tưởng thật thì đâu phải định nghĩa mới thành Nhà tư tưởng. Dân tộc không cần một "Nhà tư tưởng theo định nghĩa". Một người yêu chẳng hạn mà chỉ "theo định nghĩa" thì ngán biết chừng nào? 

- Tôi không biết vẽ mà bạn phong tôi là danh họa bậc nhất thế giới thì đúng là bạn xỏ tôi rồi! Lập tức người thân nhất của tôi sẽ cười bò ra: Đúng rồi, có lần anh ấy vẽ ảnh tặng em, lập tức em đem treo ở chuồng gà, thế là em không bị mất gà nữa. Thành trò đùa, thế có phải là tự nhiên lại làm khổ tôi không? 

Lưu Thiếu Kỳ đã chẳng xỏ Mao trạch Đông bằng cách đi đâu cũng chìa cuốn Mao tuyển đỏ chót ra đấy thôi! "Yêu nhau thì lại bằng mười hại nhau là vậy đó! 

- Sao bao nhiêu năm không thấy tư tưởng Hồ chí Minh, bây giờ thấy Mác Lê hết thiêng rồi mới dựng cụ Hồ ra thay thế? Định chơi bài lấp lửng chứ gì, bảo cụ Hồ vẫn là Mác Lê cũng được, mà bảo cụ Hồ chỉ mượn Mác Lê là phương tiện cho Dân tộc thôi cũng được! 

- Úi dào, có bày ra chương trình nọ chương trình kia thì mới rút được tiền ngân sách ra mà chia nhau, chứ họ thiết gì. Nếu yêu mến Cụ thật thì người ta đã chẳng chia Di chúc.... Vậy là Kính chẳng bõ phiền! 

Người ta so sánh: xét về tầm Trí tuệ và Tâm huyết của Lãnh đạo thì "chiến dịch Tư tưởng Hồ chí Minh" cũng hao hao giống tính "chiến dịch làm lại Quốc ca" năm xưa vậy. Sợ rồi kết thúc lại cũng như thế! 

Nghiên cứu nhân vật lịch sử là thuộc khoa học lịch sử, là chuyện lâu dài. Nhiều tư liệu về Chủ tịch Hồ chí Minh còn đang được phát hiện, nhiều sự đánh giá đang được bổ sung, chỉnh lý. Phát huy tác dụng của nhân vật lịch sử để có ích cho xã hội trước mắt là việc rất nên làm, nhưng cũng chỉ nên làm có mức độ, và phải trung thực với sự thật lịch sử; tô vẽ thêm hay xuyên tạc đi đều có hại như nhau. "Uy tín" có một thuộc tính là luôn luôn phải được cập nhật hóa và không mượn được. Thế hệ hôm nay chọn con đường nào là việc của thế hệ hôm nay. Không thể lấy sự lựa chọn của Bác Hồ để cấm sự lựa chọn của thế hệ hôm nay; cứ đem ra cho toàn dân xét duyệt đàng hoàng, cái nào tốt, đúng, hợp với thế giới ngày nay thì dùng. Cũng như không thể lấy sự lựa chọn của chúng ta hôm nay để hù dọa thế hệ con cháu chúng ta; vấn đề là phải giúp thế hệ sau chuẩn bị cái vốn Trí tuệ và Nhân tính để họ có đủ bản lĩnh mà tự lựa chọn, chứ không thể làm thay. Uy tín hôm nay thì hôm nay phải tự mình tạo ra, nếu không ắt người ta bảo mình là kẻ "ăn mày dĩ vãng".

HỎI: Quan hệ giữa Tranh Đấu Nhân Quyền và Văn Hóa? 

ĐÁP: Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. Quyền Con người ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi Quyền Con người một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về Quyền Con người, con người có thể nhìn lại trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn.

Đã có nhiều cách tiếp cận để phân loại Quyền Con người, nhưng cách tiếp cận sáng tỏ nhất cho nhận thức làtiếp cận từ quan điểm Tiến hóa. Khi từ bầy đàn chuyển thành xã hội, Con người cũng chuyển từ cuộc sống Sinh vật sang cuộc sống Con người, rồi từ chưa văn minh đến văn minh hơn... Càng văn minh, nội dung tính Người càng mở rộng, thì "Quyền Con người cũng do đó được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì càng có tính VẮN HÓA bấy nhiêu. Với cách tiếp cận Tiến Hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn Hóa, nội dung Nhân Quyền có thể xếp thành 3 bậc:

a) Quyền làm Người trước hết là QUYỀN ÐƯỢC SỐNG, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như một sinh vật, và được tự do về thân thể. Tạm gọi là NHẤN QUYỀN BẬC 1.

b) Tiếp sau đó là QUYỀN ÐƯỢC ẦM NO, nói rộng ra là quyền được chia sẻ tiện nghi vật chất với nhũng người trong cộng đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy mang tính vật chất, nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài người. Quyền này tuy đã có tính VẮN HÓA, nhưng còn thấp (Văn hóa theo nghĩa rộng, là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy, trong sự tương tác với tự nhiên và xã hội.) Tạm gọi là NHẤN QUYỀN BẬC 2, phần nào tương đương với quyền Kinh tế.

c) Cao nhất là quyền của Con người văn minh, là quyền mang giá trị "tinh thần", gồm các sinh hoạt tư tưởng, khoa học, văn hóa, nghệ thuật... liên quan đến các nhu cầu hưởng thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo các giá trị tinh thần, và nhu cầu làm chủ xã hội. Tạm gọi là NHẤN QUYỀN BẬC 3 (hay QUYỀN TỰ DO DẤN CHỦ). Đây là quyền có tính VẮN HÓA cao.
HỎI: Vị trí của phong trào CỘNG SẢN trong tiến trình phát triển VẮN HÓA và QUYỀN CON NGƯỜI? 
ĐÁP: Ba bậc thang nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau, song về cơ bản nếu chưa có bậc thấp thì chưa thể có bậc cao hơn. Chưa có bậc thang nào thì phải đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát triển không đều, nên cả 3 cấp Văn hóa, 3 cấp Nhân quyền, và do đó 3 cấp Tranh đấu luôn cùng có mặt trên thế giới. Trong khi người này, ở đây, đang đòi quyền tự do tư tưởng, tự do ứng cử (nhân quyền bậc 3) thì người kia, ở kia thì phải đòi quyền được làm việc và trả lương công bằng (nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có người chỉ mong đòi cho được quyền tự do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền bậc 1).
Trong bài lý luận "Đôi điều suy nghĩ..." trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm "Quan hệ dọc" và "Quan hệ ngang" trong sự tiến hóa xã hội. Một "Hình thái Kinh tế-Xã hội" tốt hay xấu cho thấy mối quan hệ dọc của xã hội ấy trong dòng tiến hóa, là tiến hóa hay thoái hóa. Nhưng không phải mọi thành viên trong xã hội ấy đều được hưởng (hay bị chịu đựng) mức độ cao hay thấp của xã hội ấy. Tương quan công bằng hay không công bằng giữa người đang sống trong cùng một xã hội (hay giữa dân tộc, quốc gia đương thời), tạo ra mối quan hệ ngang. Quan hệ dọc và ngang độc lập với nhau nhưng tác động tương hỗ tới nhau.

Thế kỷ 18-19, con tàu Văn minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh trên khắp thế giới, khiến cho khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa. Trong "Quan hệ dọc", đây là sự tiến bộ rất lớn của xã hội, nhưng trong "quan hệ ngang" nó tạo sự mất công bằng ghê gớm. Một loạt ông chủ thành tỷ phú trong khi vô số người khác bị bần cùng hóa. Hình thành một "giai cấp Vô sản" đông đảo, chẳng bị bần cùng hóa mà bị đe dọa cả sự sống còn. Được trang bị bằng lý luận Mác xít, họ cùng với người lao khổ khác trở thành lực lượng trung tâm của phong trào Cộng sản. Từ một sức sống thấp như vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần, họ đứng lên đòi Quyền Con người, thực chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và Quyền được ấm no, tức là tranh đấu cho bậc thang thứ nhất và thứ 2 của thang Nhân quyền ứng với tầm Văn hóa thấp, như đã trình bày.

Nội dung phong trào Cộng sản gồm 2 mặt:

 Mặt thứ nhất:

* Nhu cầu có tính chất khách quan đối với trào lưu "Cộng sản" là một cuộc đòi "Quyền Con người tối thiểu" cho người cùng khổ, tức là để giải quyết mối "quan hệ ngang" về sự công bằng, trong đó có sự công bằng giữa các dân tộc, việc này thì "lịch sử giao phó" thật, và phong trào Cộng sản đã có đóng góp xuất sắc.

* Còn việc muốn tạo ra một xã hội mới khác hẳn, văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp tiến hóa trong "quan hệ dọc", thì đây là một hoang tưởng. Hoang tưởng này tuy có cung cấp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh trên kia, nhưng không được "lịch sử giao phó" nên lịch sử cũng không cung cấp tiền đề, do đó chẳng những không thành sự nghiệp gì mà trái lại còn gây ra điều kỳ quái, mà bây giờ "lịch sử" đang giao nhiệm vụ phải sửa chữa, xếp dọn lại tất cả ngổn ngang bê bối ấy.

Tóm lại, Cộng sản là một trào lưu đấu tranh cho Nhân quyền tối thiểu, ở tầm Văn hóa thấp. Muốn hiểu điều này, còn cần phải phân biệt tính chính đáng hay tính bức thiết của một phong trào tranh đấu với tầm văn hóa của phong trào ấy. Càng ở tầm văn hóa thấp bao nhiêu thì tính bức thiết của một phong trào tranh đấu càng cao bấy nhiêu (và cũng có thể hiểu là càng chính đáng bấy nhiêu) vì càng thiếu điều kiện mang tính sinh vật bao nhiêu thì càng khó sống (theo nghĩa sinh vật) bấy nhiêu. Tính "chính nghĩa" không đồng nghĩa với tính Văn hóa.

Mặt thứ hai

Phải hiểu quan hệ giữa chiến thắng và văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến thắng sau cùng là Văn hóa, nhưng trong một trận cọ xát trực tiếp thì thường xảy ra điều ngược lại: càng có tầm văn hóa thấp càng dễ chiến thắng, cái bạo tàn dễ thắng cái văn minh. Quy luật này thấy rõ ngay trong đời sống hàng ngày. Tính Văn hóa thấp của "Quốc tế" Cộng sản được in dấu ở tất cả mọi mặt của phong trào ấy. Chỉ cần dẫn ra mấy dấu vết đã in vào bài Quốc tế ca cũng đã chứng minh: Về lời ca để hiệu triệu và tập hợp lực lượng: "Vùng lên, hởi các nô lệ ở thế gian. Vùng lên, hởi ai cực khổ bần hàn..." đối tượng này là ở bậc thang đáy của xã hội. Bức thiết phải dành hết tình cảm cho họ, bức thiết phải đem lại ngay quyền sống cho họ, nhưng trào lưu tranh đấu mà họ lãnh đạo thì chỉ có thể là một trào lưu ở tầm văn hóa thấp, tương xứng với họ, là điều quá hiển nhiên.

"Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình" là động cơ thật của cuộc tranh đấu. Biện pháp giải quyết là "phá sạch tan tành", "quyết phen này sống chết mà thôi" để "tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt" như Chủ nghĩa đã chỉ rõ. Cả đối tượng, mục tiêu lẫn biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp. Bây giờ nhiều người trong đội ngũ Vô sản ấy đã thành đại hửu sản do tước đoạt. Họ sẽ nghĩ sao nếu người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước ta bây giờ cũng hô hào nhau lặp lại một phong trào tước đoạt lại như thế? Hẳn họ phải lên án đó là các làm vô văn hóa chứ gì nửa. Nếu thấy cần làm lại bài ca, thì đáng lẽ phải làm lại bài "Quốc tế ca" này chứ không phải làm lại Quốc ca! Sản phẩm của phần Dân tộc" nói chung là lành mạnh, sản phẩm của phần "cách mạng giai cấp" mới là cái cần được làm lại!

Nhưng nói vậy thôi. Cái đáng phải làm lại nhất là làm lại toàn bộ Học thuyết, mà tính khoa học của nó đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi người ta nghĩ rằng "đấu tranh đây là trận cuối cùng". Cót sao lợi quyền về tay cái đã. Ta đấu tranh rồi, ta tước đoạt được rồi thì trường đấu tranh từ đây khóa sổ, không ai được lộn xộn gì nữa, từ đây là hợp lý rồi, không phải "xét lại" nửa? Liệu như thế có phải là "qua cầu rút ván" chăng? Tầm Văn hóa như vậy là cao hay thấp? Ý tưởng lấy Búa và Liềm làm biểu tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu biểu cho Thời đại cũng là một cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể nào khác được, khi trào lưu Tiến hóa" ấy lấy động lực ở người cùng khổ, lấy điểm tựa ở sự bần cùng? 

Ở một cuộc tranh đấu có tầm văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt với cái tốt hơn, tức là đấu tranh trong hòa bình, không có tình huống "một mất một còn". Cuộc đấu tranh giai cấp "một mất một còn" luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua chiến thắng bằng cách hủy diệt môi trường (như dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường sơn!), hủy diệt công trình văn hóa (như chính sách tiêu thổ kháng chiến), và hủy diệt con người ("đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, Tổ quốc hay là chết, và cả chục triệu người Việt đã thành vật hy sinh cho cuộc chiến...) thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là trào lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy chiến thắng ấy thật đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả chồng và 7-8 người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục.

Ở tầm văn hóa cao, người tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến thắng của mình mà quên giá trị chung của xã hội. Ở tầm văn hóa cao thì sự tranh giành quyền lãnh đạo sẽ xảy ra giữangười đã ở tầm cao, có tài sản và sự nghiệp để bảo hành. Trong thực tế, không ai dám chơi với kẻ "nếu mất, nó chỉ mất cái xiềng; còn nếu được thì lại được cả thế giới" (!). Vì trong trường hợp ấy, con người không còn gì để đắn đo cân nhắc, nó chỉ có một con đường là lao vào cuộc sinh tử (quyết phen này sống chết mà thôi!), và sẵn sàng "phá sạch tan tành" tất cả gì cản đường. (Ta nhận rõ tính kém văn hóa của người ấy nhưng không quy lỗi cho họ!). Họ sẽ tuyệt đối hóa mục tiêu Thiện một cách chủ quan và sẵn sàng làm mọi việc Ác mà không hề phải cắn dứt lương tâm. Họ sẽ quyết định điều hệ trọng một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng của họ cũng như sinh mạng của cả dân tộc! Một sức mạnh như thế rất khó cho việc chống lại, nhưng lại rất dễ cho việc lợi dụng! Xta-lin, Mao trạch Đông ... đã là nhà lợi dụng vĩ đại, và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò!

Nhân đây, tôi xin mở ngoặc để nói đôi lời về tác phẩm viết về chiến tranh. Người ta thấy Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là không chấp nhận được. Bây giờ hãy ví dụ: gia đình ta đang sống yên ổn thì bị cướp. Đương nhiên cả nhà phải đứng dậy đánh cướp, bỗng dưng ta thành kẻ phải giết người để tự vệ. Giả sử ta đã giết sạch được cả mười tên cướp chết nhăn răng ra, thì khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy ta nên kể lại một cách hứng khởi, vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm "buồn" trong đời? Tôi nghĩ chẳng phải biết buồn mà suốt đời còn phải tự day dứt. Càng phải day dứt hơn nếu đã hy sinh mất người thân và người ưu tú. Càng có văn hóa càng thấy day dứt. Bởi mình còn tồi, còn kém nên có nhiều cuộc chiến tranh bất đắc dĩ phải làm, nhưng không có cuộc chiến tranh nào lại đáng tự hào cả.
HỎI: Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản?
ĐÁP: Mỗi Thời đại có Văn hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp "Cách mạng", với bạo lực quần chúng và tận dụng thời cơ, người Cộng sản có thể giành được quyền lực ngay tức khắc, nhưng có xây dựng nổi nền Văn hóa đặc trưng của mình hay không, điều ấy mới xác định vị trí của mình trong lịch sử là có thật hay không. Thành bại cuối cùng là ở Văn hóa. Hãy nhìn lại xem việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành bại ra sao? Chiến dịch xây dựng Con người mới":
Suốt từ năm 60-70, khi ấy tôi dạy học nên được chứng kiến một chiến dịch dai dẳng, và vất vả của chúng ta để cố xây dựng cho được hình mẫu "Con người mới Xã hội Chủ nghĩa". (Bác Hồ nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa Xã hội phải có Con người Xã hội chủ nghĩa). Sách giáo khoa, tài liệu tuyên giáo, truyện ngắn, truyện dài, sân khấu, điện ảnh, báo chí, phong trào Đoàn Thanh niên Cộng sản, Đội Thiếu nhi Bác Hồ... xây mãi mà không mẫu nào có thể đứng được. Nếu không bám víu vào phẩm chất truyền thống như lòng yêu nước, lao động cần cù, chịu đựng gian khổ hy sinh, thương người hoạn nạn... thì "Con người mới" không còn có da có thịt gì cả.

Cái chất "mới" và "xã hội chủ nghĩa", chất "giai cấp", chất "Đảng", chất "thời đại" tô vẽ mãi vẫn cứ mờ nhạt, khô cứng, thậm chí (nhiều nhà văn, nhà báo kể cho tôi nghe) khối lời nói anh hùng, nhân vật anh hùng là do ta bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người mới giả vẫn không địch nổi cái đội ngũ hùng hậu của con người mới thật, tệ hại, bằng xương bằng thịt cứ tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số lượng và chủng loại, càng điển hình và độc đáo về phẩm chất. Học dốt, bị cô giáo cho điểm kém, bèn lừa lúc cô một mình trong lớp, dùng dao dọa, bắt cô đứng lên bàn, tụt quần ra, thế thôi!... Con muốn lấy tiền của bố, bèn cắt tiết bố hứng vào chậu hẳn hoi rồi cho lợn ăn. Chồng băm thịt vợ cho vào chum nước rồi dùng dây may-xo để nấu. Công an bảo vệ trên cầu Chương Dương Hà Nội cũng cướp của, giết người (mà có cấp chính quyền còn định bao che)... vân vân... Báo Công an thành phố Hồ chí Minh nổi tiếng nhiều độc giả nhất vì chuyển tải được cái vốn người tốt việc tốt rất phong phú ấy.

Xe khách đang chạy, bỗng trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc phục, cầm dùi cui đàng hoàng, đưa còi lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: Hôm nay làm ăn không được, mày thí cho chúng nó 5 đồng thôi! rồi quay sang cười với tôi: bây giờ đâu cũng thế cả, bác đừng cười! Anh phụ lái giở cái giấy phép ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn vào giữa, hơi thò ra một tý để ai có tình ý thì nhìn thấy, rồi nhẩy xuống để trình, xe lại chạy ngay chẳng cần kiểm tra. Giữa giờ, một anh bạn đến thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang "giờ chính quyền" mà đi được à? Anh bạn tôi cũng cười: "Mình không có tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ắn cắp thời gian bây giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!. Tôi bảo: Sao bây giờ cậu ăn nói "mất lập trường" thế? Anh lại bô bô: Mình là con người cũ nên cứ nói toẹt ra, chứ có phải con người mới đâu mà vòng vo!

Trong một cục diện xã hội như thế, "con người mới" lý tưởng nào có thể sống được? Có thể nói 90 phần trăm tác phẩm văn học được giải trong năm gần đây là tác phẩm "phản diện" mang tính phê phán, và "điển hình" xây dựng thành công là điển hình về mặt trái của Con người và xã hội. Người ta bảo: hãy quên chuyện "Con người mới" đi! hãy tìm lại con người cũ tử tế. Nhiều bài báo viết: Bao giờ cho đến Ngày xưa. Rất nhiều cuộc "Về nguồn" được tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ "Về nguồn", đua xe đạp "Về nguồn"! Nào thi học sinh giỏi theo nghi thức thời cổ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ".... Chưa biết trong đục thế nào, và mỗi người "Về nguồn" với một ý đồ khác nhau, nhưng người ta đua nhau "Về nguồn", vì ai cũng thấy trước mắt mình nhiều cái "mới" nhăng nhít quá! Có lời bình rằng: Trước đây bỏ "nguồn" để đi tìm Thiên đường Cộng sản, nay lại hò nhau Về nguồn, thật như đèn cù!

Còn đang cố tìm một mẫu người "Trung với Đảng, Hiếu với Dân" thì đùng một cái, một ông cán bộ Cộng sản khá cao cấp là Thân Trung Hiếu, đầy đủ cả "Trung" cả "Hiếu", làm tiêu luôn của Dân 48 tỷ đồng! Dân bảo: Tay này chắc là "Trung", nhưng mà bất "Hiếu"! Truyện "Con người mới" kể cả ngày không hết. Không gì bê bối hơn một nền Văn hóa như thế.

Nói đến Văn hóa Vô sản, không thể quên nước Cộng sản lớn, quê hương của "Con người mới" Lôi Phong, của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy triệu Hồng vệ binh vô học choai choai, dám đót hết sách vở và lôi cả nhà Văn hóa ra đấu tố, quét sơn đỏ khắp người rồi lôi đi diễu trên đường phố; với hàng đoàn xe tăng đi nghiến nát em sinh viên nhịn đói để đòi dân chủ; với công đào tạo ra tên lính Pôn-pốt ở tuổi chưa ráo máu đầu đã một mình dùng cuốc đập chết cả ngàn người trong tay!.... hiện tượng "đại văn hóa" ấy mà không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng? Hay do Đế quốc Phong kiến để lại? Không phải ngẫu nhiên mà cái pháo đài Cộng sản nổi tiếng giáo điều với quan điểm Đế quốc Mỹ là con hổ giấy, gió Đông thổi bạt gió Tây... lại cũng chính là nơi sản sinh ra quan điểm đổi mới thực dụng nổi tiếng "Mèo trắng mèo đen" không quan trọng, miễn là "bắt được chuột!". Có thể coi hai thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy là quan hệ bù trừ, nhân quả. Nhưng nghĩ lại thì thấy hai thái độ ấy cũng là một mà thôi, đều phản ánh cùng một bản chất duy lợi của tầng lớp cầm quyền, cùng một xảo thuật tuyên truyền, và cùng một tầm văn hóa. Khi trước giáo điều bao nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với Tàu cũng "một mẹ sinh ra" cả!

Tóm lại, khi mẫu người Phong Kiến đã hết thời thì phải hướng con người theo giá trị phổ quát của thế giới hôm nay: con người của văn minh công nghiệp và tin học, của kinh tế thị trường, của dân chủ pháp trị. Nếu cứ chập chờn, nghĩ đến một thứ "con người mới xã hội chủ nghĩa" giả định nào đấy, thì hiệu quả là dứt con người ra khỏi văn minh nhân loại và nếu không trở nên bóng ma ảo tưởng, thì lại thành kẻ lưu manh. Thiếu Văn hóa từ gốc. Một nền văn hóa có thể bị băng hoại dần dần do sa sút của chính trị và kinh tế. Nhưng nền Văn hóa Vô sản tự nó đã có khiếm khuyết, ngay cả lúc còn thịnh trị.

* Nền đạo đức Vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ Trung, Hiếu, Đức, Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần Kiệm Liêm Chính, đến Chính tâm tu thân, đến kế hoạch trăm năm trồng người, đến điều lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, đến Dân là gốc, coi cán bộ là nô bộc của dân, dĩ bất biến ứng vạn biến... tất cả đều đã có trong sách vở Nho giáo. Duy có chữ QUẤN TỬ là cái tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn. Các nhà lý luận viện cớ rằng Quân tử là tầng lớp bóc lột nên ta không học.

Nếu phạm trù NHẤN, THIỆN, ĐỨC còn mang tính lý tưởng, hoặc còn chung chung, trừu tượng, thì phạm trù QUÂN TỬ đưa thiện-ác vào tới con người cụ thể, tới tình huống cụ thể, thái độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy là một cuộc thử thách quyết liệt: anh nói anh "thiện", anh "đạo đức" thì anh thể hiện ra đi, quyết định lấy một thái độ ứng xử đi; hoặc là hành động một cách QUẤN TỬ, hoặc là hành động một cách TIểU NHẤN! bài học về QUẤN TỬ thiết thực lắm. QUẤN TỬ rất gần với TRƯỢNG PHU và THƯỢNG VÕ. Người ta thua trận, người ta nằm trong tay anh rồi, anh làm gì người ta cũng phải chịu, thì anh sẽ đối xử thế nào? Hoặc là anh học người xưa, đem tất cả sổ sách thù hận đốt đi để coi nhau như anh em, hay anh lục đống hồ sơ cũ ra, bới lông tìm vết để phân biệt đối xử? 

Anh có mọi quyền lực trong tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì anh có nhường một tờ báo, một diễn đàn cho người khác trình bày tiếng nói của họ hay không? Anh nắm hết mọi sức mạnh trong tay, muốn bày đặt cái gì cũng được, thì anh có dành cho Nhân dân một Hội đồng để giúp anh thu thập tiếng nói của Dân, hay anh lại tìm cách đưa Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy sang phụ trách luôn "Hội đồng Nhân dân" cho nhất quán? Anh có quyền ký một chữ thì người khác có nhà ở, vậy anh có thắng nổi cái lòng tham của con người, dám trọng nghĩa khinh tài mà từ chối mấy lạng vàng đút lót để dành cái nhà ấy cho một thày giáo nghèo được không?
Bởi nó cụ thể như thế nên đạo đức giả thì dễ nhưng Quân tử giả thì không dễ chút nào, thiệt đến quyền lợi sát sườn ngay! Người Cộng sản thích chơi trò "đạo đức" nhưng không dám chơi trò "Quân tử". Chủ nghĩa phong kiến so với ngày nay thì vô cùng tồi tệ, nhưng thời thịnh trị nó đã cung cấp cho loài người rất nhiều Người Lớn, là nhờ có một tinh thần QUẤN TỬ. Dùng đạo đức, con người vẫn có thể lừa cả mình, nhưng khi trong lòng đã cất lên tiếng QUẤN TỬ thì con người phải đối diện với chính lương tâm nó, không trốn vào đâu được.

* QUÂN TỬ thì phải CHÍNH DANH! Có người bảo Chính danh là thủ đoạn của bọn thống trị nhằm phân biệt ngôi thứ. Không đúng! Công bằng hay không là ở chỗ định danh, định nội hàm của Danh, chứ khi định Danh rồi thì phải theo Danh mà làm! Danh một đàng, Thực một nẻo thì đại loạn.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu: Trường ra trường, lớp ra lớp, thày ra thày, trò ra trò! là rất đúng, là phải "chính danh"! Nhạc trưởng cũng phải ra Nhạc trưởng! Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh đứng ra giữasân khấu mà bắt nhịp cho mọi người trông thấy, chứ không thể chơi trò giật dây từ trong hậu trường, hay đứng lấp ló ở chỗ "cánh gà" sân khấu, chờ xem nếu được hoan hô thì ra nhận hoa, mà bị la ó thì chuồn thẳng, tìm mãi chẳng biết ai vừa chỉ huy!

Anh muốn chỉ huy cũng được (cứ cho là được đi), nhưng nếu chỉ "hiến định" sự chỉ huy, mà không "luật hóa" sự chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ huy? Nếu có "luật lãnh đạo" (lãnh đạo kém, gây thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì chắc Đảng sẽ tự xin rút Điều 4 trong Hiến pháp. Có luật ấy thì khối lãnh tụ Cộng sản đã đi tù lâu rồi, không tin cứ đưa ông Lê Đức Thọ ra Tòa án của Nhân dân làm ví dụ thử xem. 

Dân mình có thói khôn vặt: Nói thế mà không phải thế! Nói "dzậy" mà không phải "dzậy", nên khi gặp chủ nghĩa Mác-Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều thích nhân danh nhưng không thích CHÍNH DANH.

Trong cuốn "Đề cương giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ quá độ" (tức Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có câu: "Nguyên tắc thứ nhất nói về xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, tuy không dùng chữ Chuyên chính Vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn quán triệt bản chất Chuyên chính Vô sản" (Sđd. trang 15). Có lẽ do quá quen với phương pháp luận Mác xít, nên người viết câu ấy không cảm thấy tính Tiểu nhân trong đó. Thử hỏi tại sao thế: Nếu thấy Chuyên chính Vô sản là hay thì phải công khai bảo vệ luận điểm ấy, nếu thấy là dở thì phải thực tâm từ bỏ, chứ ngoài mặt nói với dân không có Chuyên chính mà nội bộ Đảng thì lại dặn nhau; Cứ Chuyên chính mà làm! Thì chẳng Quân tử tý nào? Điều nói dối ấy đã làm dân mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy chính là sự dạy nhau nói dối, và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với Đảng: Nghị quyết nói thì cứ để Nghị quyết nói, mình có cách "vận dụng" của mình, Nghị quyết "dzậy" mà không phải "dzậy"!

Người Việt Nam muốn ra người Quân tử đã khó, người Cộng sản Việt Nam muốn ra người Quân tử lại càng khó hơn. Bởi thế tôi thật kính trọng thái độ Quân tử của tướng Trần Độ khi ông viết cho Đảng dòng sau đây: "Cần phải dứt khoát chọn một trong hai tư tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện Chuyên chính Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh. Hoặc thực hiện một Nhà nước Dân chủ Pháp quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân. Không thể cứ nói nửa nọ nửa kia nhập nhằng.

* QUẤN TỬ lại gắn với LIÊM SỈ. Liêm sỉ là biết tự xấu hổ, trước hết là với lương tâm mình. Bậc trượng phu không được lấy nể vì Nghĩa lớn mà bước qua điều Sỉ nhỏ. Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương tuy không có tội, nhưng xấu hổ vì không làm tròn nhiệm vụ giữ thành nên quyết tự vẫn. Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng tự Sỉ càng phải lớn. Có khi đời tha cho mình mà mình không tha cho mình được... Ở ta, người Cộng sản làm hỏng việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại chuồn được!). Chuyện ấy, địa phương nào cũng có, Trung ương lại càng điển hình. Phải chăng vì bài ca "lợi quyền" kia đã ngấm vào xương thịt? Để riễu cái thói đạo đức giả nhưng lại vô sỉ, bám ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan chức thế này: "Ông không ham chức quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở lại làm đầy tớ của dân! Đứa nào ngăn không cho ông phục vụ ông đánh bỏ mẹ". (!)

Nhiều lúc tôi tưởng tượng như cả dân tộc mình đang ở trong trạng thái thôi miên. Tôi nghĩ đến một ví dụ khác, một người đủ tư cách thay mặt cho Đảng. Tôi không có ý định chỉ trích cá nhân ông, một người có thể là nhân hậu, nhưng trường hợp của ông lại rất điển hình. Trước đây ông nổi tiếng là người Mác xít gang thép, chẳng trong việc đánh Đế quốc Mỹ và tay sai, mà cả trong việc đánh đồng bào mình, nhà công thương nghiệp tư bản tư doanh, (họ mang tiếng là Tư sản, nhưng chưa giàu bằng các vị Tư sản đỏ của chúng ta bây giờ). Hiện ông cũng đang rất gang thép trong việc kiên trì Mác-Lê và định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Ầy thế mà đùng một cái, ông ngồi sánh vai với "bọn tay sai Nam Hàn" (cái "bọn" mà tôi còn nhớ trước đây chúng "giết bộ đội mình như ngoé"), ngồi để ký kết chương trình mà chắc chắn là phản lại cái "chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh" của ông trước đây. Tôi tự giải thích: Có thể sự quay ngoắt 180 độ này là một sự tỉnh ngộ, đổi mới chân thành, muốn làm bạn với tất cả mọi người. Có thể thế lắm chứ!

Nhưng, người sám hối có triệu chứng lâm sàng rất dễ nhận thấy. Biểu hiện buộc phải có là "ngượng", là "thẹn", khiến cho người khó tính nhất cũng phải tha thứ. Trong trường hợp này, các "triệu chứng lâm sàng" đáng yêu kia hoàn toàn không có. Người sám hối chẳng thản nhiên cười nói, mà lại ở tư thế quát nạt, xử tội người đang chứng kiến sự sám hối của mình. Người ta không thể không tự hỏi: Nếu lòng nhân đạo có thể giúp ông quên "kẻ thù máu xương" nhanh như thế thì thật sự đáng mừng, nhưng sao đối với đồng chí, đồng đội đã chung lưng đấu cật với nhau thì ông lại thù dai như vậy: Ông vẫn hô phải bắt ông Nguyễn Hộ, bắt ông Hoàng Minh Chính... vì tội mắc mưu Tư bản, làm "diễn biến hòa bình"... (trong khi chính ông đang cùng "diễn biến hòa bình" với "bọn tư bản"!). Tại sao có thể làm cả hai việc ngược nhau ấy cùng một lúc một cách tự nhiên như không? Cứ nhìn cảnh ấy mà suy thì nếu gia đình ông Nguyễn Hộ không bị Mỹ giết, mà theo Nam Hàn để giết Cộng sản, rồi lại theo Nam Hàn thành tỷ phú thì có phải bây giờ đã được hưởng tấm lòng "xóa bỏ hận thù" và trở thành thượng khách của Đảng rồi không? (Ông Hộ quả là đã "chọn nhầm đường" thật!). Ông Hoàng Minh Chính bị Đảng bỏ tù oan mười mấy năm chưa đủ sao? Ông Nguyễn Trung Thành trực tiếp phụ trách việc này đã đề nghị minh oan cho ông Chính rồi kia mà? Trước nỗi đau ấy thì lương tâm một kẻ dân thường cũng bị cắn rứt chứ nói gì một người nhân danh Nhân dân? 

Tôi là người không có liên quan gì với tất cả nhân vật trong câu chuyện kể trên, nên điều tôi muốn nói không phải là về thái độ của một cá nhân, mà là điều này: Tại sao tất cả người chung quanh, trước hết là người hữu quan, lại không ai lấy thế làm xấu hổ, một thứ xấu hổ mà chỉ cần là một người có nhân cách bình thường thôi cũng không chịu nổi! Mà đâu phải riêng việc đó, bao nhiêu điều quay quắt, lộn ngược lộn xuôi rành rành trước mắt, mà lại có thể tươi tỉnh như không? Mà đều nghĩ được cách giải thích, mà lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi người không hề ngượng mồm? Tôi không muốn lên án riêng ai, bởi thế tôi thấy chỉ có thể giải thích đây là một trạng thái thôi miên tập thể. Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị: "Hãy coi chừng! Không ai được trái ý Mác-Lê! Hãy coi chừng, không được trái ý Mác-Lê!". Mác-Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác-Lê giống mấy ông Công an, giống bà trưởng phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống kỷ niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên bàn thờ.... Mác-Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong khí quyển thôi miên ấy, con người phải quên nhân cách riêng, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn.

Khi học môn giải phẫu cơ thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần kinh chỉ huy việc khép đùi nên tên là dây "thần kinh thẹn". Bây giờ, mỗi khi cùng nhau tâm sự chuyện đời, chúng tôi lại nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt mất dây "thần kinh thẹn" rồi. (Nhưng khi nghe thằng bạn thao thao bất tuyệt trên Ti-vi, chúng tôi vẫn thấy thẹn thay). Cảm ơn Tạo hóa đã cho Con người biết thẹn, nếu không, ai giữ Văn hóa cho Người? 

Hiện tình Văn Học Cách Mạng:

Tính cách Dân tộc ấy, hoàn cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện vào nhau nhào nặn nên một tổng thể Văn hóa đặc sắc không bút nào tả nổi. Nền Văn học "hiện thực xã hội chủ nghĩa" cố kéo dài hơi thở hào hùng thời kháng chiến một cách đuối sức, tỏ ra bất lực và mất phương hướng trước một thực tế mà nó không nhận thức nổi hay không dám nhận thức. Một số tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự giả tạo và đạt được sự phê phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối ra. Giải thưởng Văn học nào cũng có chuyện. Làm sao có thể tổ chức nổi một cuộc thi cho tử tế, khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm lại từng cơ bản, viết lại mệnh đề cơ bản, chẳng hạn: "Cách mạng" nghĩa là gì, "phản động" nghĩa là gì, "yêu Chủ nghĩa Xã hội" có phải là "yêu nước" không? ... vân vân.... Người chấm thi bị xé về hai chiều, "con người chính trị" phải đạo không còn chung sống nổi với "con người văn học" trong một thể xác như ở giai đoạn trước, và mỗi "con người" ấy trả lời câu hỏi trên một cách trái ngược nhau.

Làm sao có được "tác phẩm tương xứng với thời đại" khi nhà văn không thể nhìn thẳng vào thời đại bằng con mắt của riêng mình? Vừa phải nhìn bằng con mắt của người khác, lại vừa nơm nớp lo không biết trong cặp mắt kia, bên nào mắt thật bên nào mắt giả. Mắt vẫn mở, mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi miên rồi Trong xã hội quái đản ấy đã bật ra bút pháp Nguyễn Huy Thiệp: Cái khốn nạn, lưu manh hết chỗ nói mà cứ bình thường như không, thương nó cũng dở, giết nó không nỡ, không lần được cái đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm điều tồi bại mà cứ như vô tình.... Cái Thiện, cái Mỹ thì mong manh như mây khói. Phải chửi Trí thức! Phải chửi đạo đức! Phải tốc ngược lịch sử lên để nhìn rõ chân dung ngụy tạo! Cái nhạy cảm đạo dức tuyệt vời thiên phú của anh xui anh làm thế! Nhưng anh phải nén tấm lòng xót xa ấy, xã hội không cho anh xót xa, đất nước đang đi lên không được xuýt xoa. Vì thương con người mà không thể thương con người (tôi thích lời bình luận ấy của Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc động nên phải viết lời vô cảm! Đọc câu văn tục tĩu, vô cảm hoặc độc ác của anh, tôi cứ ứa nước mắt. Chỉ riêng cái vỏ bút pháp của anh đã chứa hết cái ruột gan của xã hội trong đó rồi. Cốt chuyện chỉ còn là cái cớ, lúc thực lúc hư.

Xã hội quái đản ấy cũng buộc phải đẻ ra thơ "Bút Tre" để phản ánh nó, khi văn học chính thống cứ ngồi lù lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút Tre ở Vĩnh phú mà ông Ngô Quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ ngẩn một cách chân thành, và chân thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn hóa Vĩnh phú kia chỉ là cái cớ để dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của mình, để riễu cợt giá trị mà công khai họ cứ phải "hoan hô". Thơ "Bút Tre thật" không ai thuộc làm gì, đọc rồi cũng không nhớ được, còn "Bút tre dân gian" thì mỗi lần nghe người ta đọc, tôi lại thấy cái sức sống mới mẻ, say sưa như thể chính người ấy đang sáng tác. Câu thơ Bút tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê đơn nghĩa, để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo điều. Cười bò ra, rồi chảy nước mắt... vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa tiện trích dẫn ở đây.

Còn cây đa cây đề trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều bị chia đôi:

"Vị nghệ thuật" nửa cuộc đời,
Nửa đời sau lại "vị" người ngồi trên!
 
(Xuân Sách, chân dung Nhà văn)

Cái còn lại của tài năng văn học tiêu biểu ấy là tác phẩm thanh xuân đầu đời, của người nghệ sĩ tự do, Điêu tàn, Lửa thiêng..., còn nửa sau là cái nửa "lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa" (Xuân Sách, chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự nghiệp lẫn nhân cách. Người bị mất chung quy là Dân tộc. Bài thơ di cảo "Bánh vẽ, Trừ đi, Ai, tôi" của nhà thơ Chế Lan Viên lỗi lạc (xem phụ lục 3) đủ để tự phủ định toàn bộ cái nửa đời sau của cả một thế hệ văn nhân, nhưng ngày cuối cùng của ông lại cho thấy nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy họ đâu có thể tự do "về nguồn" theo lương tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để thẳng thắn trả lời câu hỏi:

Cuộc đời hai nửa vì đâu?
Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình!
 
(HSP, thư gửi Xuân Sách)

Dòng Văn học mới không thể không phản tỉnh, tự mình "lật tẩy" mình để tự vượt qua, vượt qua mình, vượt qua một vùng Văn hóa thấp mà về với loài người nói chung.

Tóm lại không thể xây dựng nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một "giai cấp Vô sản tiêu biểu cho thời đại" như Mác tưởng tượng. Xã hội trước đây đã lao theo con đường của Mác thì nay chẳng có con đường nào khác ngoài con đường trở về với Dân tộc truyền thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội dung hoàn toàn khác với nội dung Thời đại mà các Đảng Cộng sản thế giới trước đây ấn định. Tình hình xã hội trong giai đoạn chuyển đổi tất nhiên rất phức tạp. Muốn có lối ra tốt đẹp nhất cho Dân tộc thì phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa và phải giải quyết một cách Văn hóa. Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn hóa cũ đã kém sức sống thì tình trạng tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội để thứ Văn hóa không lành mạnh xâm nhập và chiếm lĩnh. Trong điều kiện ấy xã hội sẽ có sự ổn định bề ngoài nhưng thoái hóa bên trong, xã hội có thể đạt tiến bộ nhất định về Kinh tế nhưng sẽ thoái hóa về Văn hóa nói chung. Văn hóa thấp kém sẽ phá hoại tất cả.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Facebook Digg Stumbleupon Favorites More