"Văn minh có nghĩa là đạt được cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của con người. Nhưng cái tạo ra những tiện nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người là kiến thức và đạo đức, bản chất của văn minh chính là quá trình phát triển kiến thức và đạo đức con người" - Fukuzawa Yukichi
"Thích điều nhân mà không thích học thành ra người ngu, thích mưu lược mà không thích học thành ra người tặc, thích điều thẳng mà không thích học thành ra người giảo, thích đức dũng mà không thích học thành ra người loạn, thích cương cường mà không thích học thành ra người cuồng!" - Khổng Tử
"Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự bạo ngược bất công là soi sáng đến hết mức có thể tâm trí của quần chúng và đặc biệt là cho họ tri thức và sự thật." - Thomas Jefferson
"Hòa bình không có nghĩa là hết xung đột; sự khác biệt luôn hiện diện trong quan hệ giữa người và người. Hòa bình là giải quyết sự khác biết đó thông qua những phương pháp ôn hòa; bằng đối thoại, giáo dục, sự hiểu biết; và bằng những cách thức khác mang tính nhân bản." - Dalai Lama

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

Nguyễn Trần Bạt: Không có sự phát triển nào đi trước tự do

    Trong suốt cuộc đời con người cũng như trong suốt lịch sử nhân loại có hai vấn đề lớn cần quan tâm. Thứ nhất là vấn đề tồn tại, thứ hai là vấn đề phát triển. Phát triển là một trong những mục tiêu cơ bản của con người. Tuy nhiên, không phải lúc nào con người cũng ý thức được điều đó.

    Có một thời gian rất dài, con người phân vân giữa phát triển và không phát triển, con người cố gắng giải thích quyền có sự khác nhau trong quan niệm về phát triển, thậm chí, con người bàn đến khái niệm phát triển mà không bàn đến sự bắt buộc phải phát triển. Chúng ta vẫn hay nói nhiều về sự phát triển mà chưa hiểu hết bản chất của nó. Nếu không hiểu bản chất của sự phát triển, chúng ta không thể hiểu được giá trị của tự do và công nghệ sử dụng tự do. Tại sao chúng ta lại cần tự do? Và tự do có phải là một thứ xa xỉ không? Đấy là một vấn đề cần phải được thảo luận rất nghiêm túc. Nghiên cứu mối tương quan giữa tự do với con người, con người và sự phát triển, tự do và sự phát triển chính là nghiên cứu sự phát triển với định hướng con người là trung tâm. Tự do sinh ra con người và con người cần tự do để phát triển. Phát triển là một tất yếu mà con người không thể trốn tránh.

    I. Con người – trung tâm của sự phát triển


    Trước hết, cần phải phân biệt giữa phát triển và tăng trưởng kinh tế. Phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế là yếu tố biểu thị một cách tập trung nhất năng lực thỏa mãn nhu cầu của con người, nhưng mình nó chưa đủ để gọi là phát triển. Tăng trưởng là biểu hiện hình thức hay biểu hiện hẹp của phát triển. Nói cách khác, tăng trưởng chỉ là sự gia tăng về vật chất, còn phát triển là nâng cao và hoàn thiện đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần của con người. Chúng ta biết rằng, giàu có không phải là mục tiêu của sự phát triển, mà khát vọng lớn nhất của con người bao giờ cũng là một cuộc sống hạnh phúc. Ở đâu con người cảm thấy hạnh phúc thì ở đấy có sự phát triển. Sự phát triển chính là trạng thái con người có hạnh phúc, có năng lực, đặc biệt là năng lực nhận thức tốt hơn, có điều kiện hưởng thụ và tư duy một cách tự do, sáng tạo hơn. Vì thế, phát triển là quá trình tạo ra những năng lực để con người tự nâng cao đời sống của mình. Suy cho cùng, phát triển là sự tăng trưởng những giá trị của con người. Như vậy, con người là trung tâm của sự phát triển, hay nói cách khác, con người là động lực tạo nên sự phát triển, và phát triển phải vì hạnh phúc của con người.

    Chỉ số quan trọng nhất để đánh giá mọi sự phát triển là chỉ số con người. Vì suy cho cùng, giá trị con người là kết quả cuối cùng của sự phát triển. Mọi sự phát triển có ý nghĩa gì nếu nó không phải là của mỗi con người và vì mỗi con người? Phải hiểu rằng, sự phát triển không chỉ được thể hiện bởi các nhà nước bình đẳng trên trường quốc tế về sự giàu có. Cũng có những giai đoạn như thế nhưng đó là giai đoạn đối đầu và nó đã qua rồi. Một nhà nước mạnh trong quan hệ với các nhà nước khác nhưng người dân không hạnh phúc thì sức mạnh đó cũng không có ý nghĩa. Mỗi con người phải được hưởng hạnh phúc, phải được hưởng kết quả của sự phát triển và thước đo đánh giá chỉ số này thể hiện trước tiên ở thái độ tự tin của mỗi cá thể trong cộng đồng đối với các quan hệ mà họ buộc phải đối thoại trong cuộc sống. Nếu không phát triển, nếu không cảm thấy hạnh phúc thì một người khó có thể đủ tự tin để đối thoại với người khác, càng không có đủ năng lực để cạnh tranh. Thời đại bây giờ cần sự phát triển thực chất, tức là con người ở các quốc gia khác nhau có tư thế bình đẳng với nhau. Đó là những con người xác định được tiêu chuẩn phát triển, có năng lực tạo ra sự phát triển và phát triển ở những chặng tiếp theo của cuộc sống.

    Cùng với tiến bộ xã hội, khái niệm phát triển có thêm nhiều nội dung mới.

    Con người không chỉ nói đến sự phát triển với ý nghĩa thuần tuý mà cò bàn đến sự phát triển bền vững. Phát triển bền vững là thành quả của các nguồn phát triển ổn định. Các nguồn phát triển ổn định được tạo nên bởi chính các giá trị trọn vẹn của con người. Chúng ta biết rằng, mọi sự phát triển luôn luôn có những gợi ý, luôn luôn có yếu tố sáng tạo và thể nghiệm những sáng tạo của con người. Đấy là bản chất của cuộc sống phát triển. Cải cách là một hình thức sáng tạo của con người để duy trì sự ổn định của các nguồn phát triển. Nếu cải cách kinh tế tạo ra được sức mạnh nhìn thấy của sự phát triển thì cải cách chính trị, cải cách văn hoá và nhất là cải cách giáo dục tạo sự phát triển bền vững. Muốn có sự phát triển bền vững, con người phải xác lập được sự cân bằng của tất cả các thành tố tham gia vào quá trình phát triển. Trong khi đi tìm trạng thái mới, để tránh được cái sai thì con người phải bình tĩnh, bởi nếu nóng vội, con người rất dễ lăn xuống dốc theo quán tính mà không tìm thấy giới hạn để dừng. Toàn bộ tiến trình phát triển ổn định chính là xác lập trạng thái không lăn theo quán tính của đời sống phát triển. Nhưng con người sẽ rất vất vả nếu không lợi dụng được quán tính của sự dịch chuyển. Bởi thế, con người cần đến khoa học và chính trị để tận dụng quán tính mà không lệ thuộc vào quán tính. Con người cần phải có trạng thái bình tĩnh trong nhận thức về sự phát triển. Trạng thái bình tĩnh đó chính là trạng thái tự cân bằng của đời sống.

    Vậy, phát triển con người là gì?

    Như tôi đã nói, tự do gắn liền với con người, tự do sinh ra con người, cho nên muốn phát triển, con người phải tự do. Chỉ có tự do thì con người mới phát triển, chỉ có phát triển thì mới đảm bảo những giá trị của con người. Mức độ tự do là yếu tố ban đầu tạo nên chỉ số con người. Tôi cho rằng, năng lực để nhận ra cơ hội, năng lực để khai thác cơ hội và năng lực để tổ chức cuộc sống là những năng lực quan trọng nhất của con người. Những năng lực đó chỉ xuất hiện khi con người tự do và chịu thương chịu khó để nhận thức. Ngay cả khi đã có tự do, không có cách nào để trở thành một con người hoàn chỉnh, một con người phát triển nếu con người không lao động thật. Điều đó có nghĩa, để phát triển thì trước hết con người phải lao động, đầu tiên là lao động trí tuệ. Không có năng lực lao động trí tuệ thì con người không thể nhận biết được các cơ hội. Chính lao động trí tuệ cần mẫn và liên tục giúp con người hoàn thiện trí tuệ của mình, con người trở nên thông thái, cao thượng và tự tìm thấy tương lai của mình. Tự do và lao động tạo ra năng lực và năng lực tạo ra mọi sự phát triển. Sự phát triển có thể khác nhau ở từng con người nhưng luôn có sự phát triển cho tất cả những con người hội tụ đủ cả hai điều kiện đó. Khi mỗi người tạo ra sự phát triển của chính mình thì xã hội sẽ tự nhiên được hưởng thành quả của sự phát triển và chắc chắn đó là sự phát triển bền vững.

    Hiện nay, người ta bắt đầu thấy rằng chỉ số IQ không còn quan trọng trong sự phát triển, sự thành đạt của một cá nhân mà thay vào đó, chỉ số cảm hứng hay chỉ số EQ ngày càng trở nên quan trọng. Con người có thể thiếu kinh nghiệm nhưng nếu không có nhiệt tình ở bên trong để đi tìm hạnh phúc thì không có sự phát triển. Nếu một người không phong phú, không đa dạng từ trong đời sống tinh thần thì người đó khó có thể tiếp thu các giá trị thiêng liêng, cao quý, thiết thực, cái gì người đó có trong tay cũng chỉ là kết quả của sự dịch chuyển hình thức, chỉ là cầm hộ sự phát triển của người khác. Sự phong phú của đời sống tinh thần con người, sự cao quý của tâm hồn con người chính là cái kho tiềm ẩn các giải pháp để phát triển. Nếu con người không phong phú thì con người không có các kinh nghiệm tình huống, con người không ứng xử đủ nhanh để tạo ra các giải pháp phát triển và do đó, con người luôn lỡ nhịp trong sự phát triển.

    Phải khẳng định rằng con người, đặc biệt là con người của thời đại ngày nay không có cách nào trốn tránh sự phát triển được, không thể nói đến sự phát triển mà không bắt buộc mình phải phát triển. Phát triển là con đường sống của tất cả các dân tộc, kể cả các dân tộc đã phát triển. Phát triển là một tất yếu của con người, là nội dung cơ bản của con người. Bởi vì không phát triển thì con người không tồn tại. Phát triển tác động đến xã hội, tác động đến cuộc sống của mỗi người, cả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người. Nếu xem sự phát triển là hoàn thiện đời sống hạnh phúc của con người thì không thể không nói đến dân chủ. Dân chủ là biện pháp duy nhất đúng đắn tạo ra sự phát triển và bảo đảm hạnh phúc của con người, vì nó tạo ra công nghệ kiểm soát tính hợp lý của sự phát triển. Dân chủ đảm bảo mọi giá trị cuối cùng của sự phát triển được phân phối một cách công bằng đến từng con người, điều đó có nghĩa, phát triển không chỉ là vấn đề của từng quốc gia mà quan trọng hơn, đó là vấn đề của từng con người. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay, nếu không xây dựng chế độ dân chủ để tự do trở thành cảm hứng cơ bản khích lệ con người tham gia một cách hiệu quả vào quá trình cạnh tranh toàn cầu thì không thể có sự phát triển được

    II. Tự do và sự phát triển

    Tự do và phát triển là hai phạm trù có quan hệ hệ quả và biện chứng sâu sắc. Tự do là điều kiện ban đầu của sự phát triển vì tự do giải phóng năng lực con người và tạo ra sức cạnh tranh, mà cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển. Ngược lại, phát triển góp phần nới rộng các biên của khái niệm tự do hay mở rộng không gian tự do.

    Sự phát triển của mỗi con người phản ánh sức cạnh tranh của người đó. Giá trị con người tạo nên sức cạnh tranh và sức cạnh tranh chính là nhân tố quan trọng nhất của con người trong thời đại mới. Ở đâu con người có sức cạnh tranh tốt, ở đấy có sự phát triển. Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển vì đó là động lực cơ bản của mọi sự sáng tạo. Bản chất của cuộc sống là tính đa dạng tự nhiên của các yếu tố, chúng luôn luôn có xu hướng cạnh tranh với nhau và cạnh tranh trong sự bình đẳng. Quá trình cạnh tranh tự do và bình đẳng của các yếu tố tạo ra sự phát triển. Do vậy, cần phải đảm bảo một môi trường mà ở đó mỗi một đối tượng tham gia đều có những quyền tự do và bình đẳng trong quá trình cạnh tranh. Tự do tạo ra giá trị con người mà con người chỉ hoàn toàn tự do khi có tự do chính trị. Đảm bảo tự do chính trị chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi một con người, vì tự do chính trị tạo ra sự phong phú của các khuynh hướng trong xã hội và tăng cường năng lực cạnh tranh của cả xã hội. Cho nên, để có sức cạnh tranh, các quốc gia phải tìm mọi cách huy động hay giải phóng nhân tố con người một cách tối đa. Như đã phân tích, để tạo ra sự phát triển, con người không chỉ cần năng lực mà còn cần cả cảm hứng. Tự do là cảm hứng của sự phát triển. Một dân tộc không có cảm hứng, một con người không có cảm hứng và không còn khát vọng đi tìm hạnh phúc thì không thể phát triển được. Chỉ có tự do mới tạo ra cảm hứng cho con người. Đến lượt mình, cảm hứng khích lệ sáng tạo, cạnh tranh và tạo ra sự phát triển.

    Tự do bao giờ cũng là điểm xuất phát của sự phát triển. Mặc dù Amartya Sen, một trong những nhà kinh tế học đoạt giải Nobel, rất có lý khi cho rằng “Phát triển như là tự do”, nhưng theo tôi, nói cho đến cùng thì không có sự phát triển nào đi trước tự do. Mọi sự phát triển chỉ có thể có được khi có tự do và đi cùng với tự do. Sự phát triển có thể di chuyển từ vùng này sang vùng khác, nhưng nếu như ở các vùng có sự phát triển đi qua mà con người không được hưởng thụ thì điều đó chứng tỏ ở đấy con người chưa tự do, ở đấy con người chỉ cầm hộ sự phát triển của người khác. Tự do không chỉ là linh hồn của sự phát triển mà chính là sự phát triển. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng ngày nay tự do không còn là quyền chính trị mà là quyền phát triển. Tự do không chỉ là nội dung của sự phát triển mà hơn thế là động lực cơ bản, là yếu tố tạo ra sự phát triển. Trạng thái kém phát triển trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị thể hiện sự kém phát triển của các quyền tự do hoặc không có tự do. Phát triển vừa là hệ quả của tự do, đồng thời cũng là tiền đề để con người có tự do nhiều hơn.

    Tự do là khái niệm động, khái niệm biến thiên. Tự do là linh hồn của mọi sự phát triển và bản thân tự do cũng là một khái niệm có chất lượng phát triển. Điều ấy có nghĩa, không gian tự do luôn có xu hướng nở ra. Không gian ấy không đo được bằng hệ quy chiếu của hình học Euclid. Không gian của tự do là không gian tự nở, tất cả các trục của nó đều cong. Không gian tự do không có tận cùng. Con người yêu tự do mới hiểu tự do có ý nghĩa sống còn với con người như thế nào. Tự do giống như bầu không khí mà con người cần từng giây từng phút cho sự sống của mình. Ai cũng có không gian tự do của mình cũng như có quyền khai thác và sử dụng nó để phát triển. Một người có tự do hơn người khác, có nhiều cơ hội hơn người khác nếu biết khai thác triệt để không gian tự do của mình. Chúng ta đã chỉ ra ở phần trước là không gian tự do của mỗi cá thể được cấu tạo bởi không gian tự do bên trong là đời sống tinh thần của cá thể đó và không gian tự do khách quan bên ngoài là các điều kiện vĩ mô của cộng đồng, của xã hội. Con người càng tự do với thể chế bao nhiêu thì con người càng tôn trọng tự do bên trong của mình bấy nhiêu. Ngược lại, càng ý thức được tự do bên trong của mình bao nhiêu thì con người càng đòi hỏi tự do với thể chế bấy nhiêu. Phát triển chính là sự hoà hợp giữa hai không gian tự do đó. Ở nơi nào không gian tự do khách quan và không gian tinh thần đồng nhất với nhau thì ở đó có những tiền đề cơ bản cho sự phát triển con người.

    Quyền con người của ngày hôm qua, của thế kỷ XX khác với của thế kỷ XXI. Gần đây, các nhà chính trị châu Âu thất bại khi trưng cầu phê chuẩn Hiến pháp châu Âu, lý do là họ đã không rèn luyện cho người dân châu Âu thấy rằng việc nới rộng không gian châu Âu trở thành một thể thống nhất là nhu cầu của sự phát triển. Người dân vừa không được thuyết phục để chấp nhận thực tế phát triển, vừa không được khích lệ sự tín nhiệm đối với nhà nước trong việc đưa ra những tiêu chuẩn mới của khái niệm tự do, cho nên các nhà chính trị đã thất bại. Người dân Châu Âu đã có tự do và có nhiều đến mức người ta cảm thấy nhờn với tự do. Nhưng thực ra, con người luôn hiểu tự do một cách có giới hạn và con người phải không ngừng thay đổi, nâng cao sự hiểu biết của mình. Không ai khác mà chính các nhà chính trị phải có trách nhiệm tạo ra sự thức tỉnh của con người về giá trị mới của tự do. Nâng cao hiểu biết về khái niệm tự do sẽ thúc đẩy con người phát triển hay nói cách khác, phát triển là nhận ra những giới hạn mới của tự do. Mỗi một thời đại có những giới hạn tự do riêng. Giới hạn tự do là sự giới hạn của lịch sử đối với tự do, và là một trong những biểu hiện cho sự phát triển của thời đại. Phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là năng lực nhận thức về tự do là đòi hỏi thiết yếu của thời đại đối với mỗi người, mỗi dân tộc, thậm chí, nó phải được coi là năng lực quan trọng nhất của con người. Tự do là điểm khởi đầu, là hạt nhân của mọi quá trình nhận thức và phát triển. Kinh nghiệm về tự do tiệm tiến với năng lực nhận thức của mỗi con người. Cùng với sự phát triển các năng lực, con người sẽ nhận ra những giới hạn mới, những chân trời mới của tự do. Tự do không chỉ dừng lại ở không gian bên trong của các giới hạn tự do, mà tự do của con người hiện đại, tự do chủ động, còn là sự phá vỡ đường biên của các giới hạn. Phát triển chính là sử dụng các quyền tự do để phá vỡ các giới hạn của tự do.

    Chúng ta phải nhớ rằng tự do không chỉ là điều kiện của sự phát triển mà tự do còn là điều kiện của sự sống. Tự do là điều kiện cân bằng của sự sống và nếu không cân bằng thì con người không có trạng thái ban đầu của sự phát triển. Không thể nào phát triển ở bên ngoài sự cân bằng được, bởi vì bản chất của sự phát triển là sự dịch chuyển để phá vỡ giới hạn cân bằng trước đó và tìm kiếm một giới hạn cân bằng cao hơn. Một trong những sự cân bằng quan trọng là sự cân bằng giữa những con người trong cộng đồng với nhau. Nếu không có tự do thì không có sự cân bằng, bởi vì con người tương tác với nhau mới tạo ra cân bằng, cân bằng tạo ra ổn định, cân bằng chính là một trạng thái biểu kiến của sự ổn định. Nếu không ổn định thì con người không thể nhận thức được sự phát triển, nhận thức được nhu cầu cần phải dịch chuyển đến trạng thái nào. Rất nhiều người lầm tưởng tự do là một thứ xa xỉ, là món ăn của người giàu có. Nhưng thực ra, con người nghèo khổ càng cần đến tự do, vì như đã nói, tự do sinh ra những giá trị con người, mà giá trị con người làm nên sự phát triển. Chúng ta phấn đấu vì sự giàu có, vì hạnh phúc của mình nhưng trước đó, chúng ta phải phấn đấu để có những giá trị con người.

    Chúng ta phải xây dựng những giá trị bền vững vì muốn có sự phát triển bền vững, con người phải bền vững. Muốn con người bền vững thì không gian chính trị phải bền vững và đó chính là không gian mà người dân làm chủ, là không giam mà các quyền tự do của con người được đảm bảo. Nếu không có tự do thì không có tiền đề, không có không gian ban đầu, không có sự sạch sẽ tâm hồn để con người tiếp nhận tất cả các khả năng tìm kiếm lối thoát phát triển. Mọi sự phát triển phải bắt đầu từ tự do. Mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển và các quyền tự do chính trị là ở chỗ, nó tạo ra các không gian chính trị, xã hội để con người phát triển một cách bền vững.

    III. Những chặng đường phát triển

    Phát triển vừa là một quá trình, vừa là một trạng thái. Phát triển là trạng thái khi con người xem xét nó ở những thời điểm nhất định, còn tự nó là một quá trình. Phát triển luôn luôn là một quá trình liên tục bao gồm những chặng khác nhau với các nội dung khác nhau. Tôi cho rằng có hai chặng đường phát triển mà bất kỳ ai, bất kỳ dân tộc nào cũng cần phải ý thức được. Chặng đầu tiên là chặng đi từ tiền con người trở thành con người và chặng thứ hai là phát triển con người. Nghiên cứu sự phát triển qua hai chặng đó là nghiên cứu con người với những năng lực mở rộng phù hợp với đòi hỏi của thời đại.

    Như tôi đã nói, con người chính là mục tiêu của sự phát triển. Vì thế, ở chặng thứ nhất, phải làm thế nào để mỗi người đạt được các tiêu chuẩn con người. Đấy là vấn đề lớn của mọi thời đại. Là con người theo đúng nghĩa rất quan trọng vì phải là con người mới có tâm lý con người, mới có nhân cách. Nhân cách con người chỉ hình thành sau khi con người có tự do, tự do như cái vốn ban đầu để tiền con người trở thành con người, nếu con người chưa biết tự do, chưa được hưởng hạnh phúc mà tự do đem lại thì không có kinh nghiệm đi tìm và cũng không biết cái mình cần tìm là tự do. Hiện nay, hơn một nửa nhân loại vẫn chưa có cuộc sống của con người theo đúng nghĩa. Đó là những con người nghèo khổ, khu trú, lạc hậu và chậm phát triển, bản thân họ chưa được giải phóng. Do vậy, chặng thứ nhất của quá trình phát triển là phải trả lại cho con người những điều kiện phát triển, mà điều kiện ban đầu, điều kiện tiên quyết, điều kiện sống còn của quá trình này chính là tự do.

    Sang đến chặng thứ hai, sự phát triển không còn đơn thuần là giải phóng con người, đem lại tự do cho con người mà là phát triển con người. Trong việc phát triển con người thì phát triển năng lực con người là quan trọng nhất. Các năng lực của con người không còn phù hợp với đòi hỏi của thời đại là năng lực chậm phát triển. Năng lực ấy không bán được, không đổi được, không tạo ra được thành tựu. Rất nhiều người không phù hợp và luôn luôn lạc hậu so với thời đại mà họ tồn tại. Chính sự lạc hậu so với những điều kiện của thời đại mà con người tồn tại tạo ra nỗi bất hạnh chủ yếu của con người. Do vậy, phát triển con người là làm cho con người có những năng lực phù hợp với đòi hỏi của thời đại. Phát triển năng lực con người là một công việc bao gồm nhiều bước.

    Thứ nhất, cần phải tạo ra một xã hội tự do. Chỉ có xã hội tự do mới tạo ra cơ hội va đập (tôi chưa nói đến cơ hội có công ăn việc làm, cơ hội thành công), sự va đập làm cho mỗi một cá thể thức tỉnh về sự không tương thích của các khả năng của mình. Nếu không có những cơ hội va đập, con người sẽ thiếu năng lực để nhận biết, để đánh giá, để so sánh hay nói cách khác, con người thiếu kinh nghiệm hành động. Sự thiếu tự do của con người tạo ra sự thiếu hụt các năng lực phù hợp với đòi hỏi của thời đại và làm cho con người không phát hiện ra sự chậm phát triển của năng lực của mình.

    Thứ hai, cần phải có một thể chế dân chủ. Cũng có những con người tự đào tạo mình, tự đầu tư cho mình nhưng ở một thể chế không dân chủ thì trạng thái tự do ấy chỉ là trạng thái nhất thời, không ổn định. Sự không ổn định ấy tạo ra sự lệch pha nào đó trong nhận thức, trong việc cấu tạo kinh nghiệm của con người. Cho nên người ta cần dân chủ để đảm bảo cho tự do ổn định. Tất nhiên, khi đã có tự do, dân chủ thì không phải đương nhiên chúng ta sẽ có hạnh phúc, vì tự do, dân chủ chỉ tạo ra cơ hội chứ không tạo ra thành tựu. Thành tựu là sự kết hợp giữa cơ hội và sự đúng đắn của con người.

    Trong các chặng đường phát triển ấy, như ở trên đã nói, bình tĩnh là điều kiện cần và đủ để con người lợi dụng được tất cả các yếu tố, kể cả yếu tố đột phá. Người ta luôn luôn cần các yếu tố đột phá. Yếu tố đột phá đôi lúc là những yếu tố xuất hiện một cách ngẫu nhiên, từ bên ngoài, một cách khách quan đối với các tiến trình. Nhưng đôi lúc nó xuất hiện ngay trong lực lượng, trong các chủ thể của tiến trình. Đối với một con chim, yếu tố chủ thể của sự bay của nó là đôi cánh, nhưng yếu tố khách thể, yếu tố bên ngoài của sự bay của nó là gió. Thông thường, nó tận dụng gió để đỡ mỏi cánh, nhưng đến chỗ lặng gió thì nó phải tạo ra những sự đột phá mang chất lượng chủ quan từ trong đôi cánh của chính mình để đi qua những chặng hay là những chướng ngại vật. Như vậy, trước đó, đôi cánh được chỉ đạo bởi một bộ não thông minh là không lãng phí năng lượng khi có gió, tức là biết tận dụng gió, hay là không bay ngược gió. Con người phải thường xuyên phát hiện ra các yếu tố đột phá. Yếu tố đột phá nằm ở trong chính mình là nội lực, yếu tố đột phá nằm ở ngoài mình là yếu tố khách quan. Cả hai yếu tố ấy đều cùng tồn tại trong một tiến trình phát triển. Con người cần phải phát hiện được những yếu tố như vậy và phối hợp sử dụng chúng theo một công nghệ nào đó để tạo ra hiệu quả lớn nhất.

    Trong tiến trình phát triển tự nhiên của con người có cả những cách thức tạo ra bước nhảy. Tuy nhiên, giải pháp ấy chứa trong nó đầy rủi ro, cho nên sự đột phá cần phải được điều chỉnh bởi những lực lượng cực kỳ thông thái và mạnh mẽ. Chúng ta phải biết hồi sinh lại các yếu tố mình đã đốt cháy để tạo ra sự đột phá, chúng ta phải biết dự trữ những năng lượng cho thời điểm sau đột phá để tiến trình phát triển được bình thường. Đột phá là một tác động chủ quan, đột phá chính là cải cách. Các nguyên lý của đột phá chính là nguyên lý của các cuộc cải cách. Vì thế, các cuộc cải cách đều phải được thiết kế một cách cẩn thận như nguyên lý mà tôi đã viết trong quyển “Cải cách và Sự phát triển”, trong đó có xác định độ thấm của các chính sách vĩ mô, xác định điểm dừng của những tác động chủ quan đến tiến trình tự nhiên như thế nào là hợp lý, tức là con người có thái độ thận trọng trong tiến trình thực hiện những cú đột phá của đời sống phát triển tự nhiên. Làm cho ngoại lực xuất hiện như những yếu tố đột phá giữa đời sống phát triển là do sự chỉ đạo của năng lực tư duy, đó chính là nội lực. Chính phần cao quý nhất, phần tinh khôn nhất của nội lực hướng dẫn quá trình sử dụng những năng lực bên ngoài để tạo ra sự đột phá. Hơn nữa, tất cả các sự vật phát triển không phải là bằng các yếu tố bên trong mà bằng sự hội nhập với yếu tố bên ngoài. Mở rộng không gian bên trong để chứa đựng các yếu tố thâm nhập từ bên ngoài chính là bí quyết của sự phát triển. Phát triển về số lượng và phát triển về chất lượng, hay là cân đối giữa chất lượng và số lượng trong quá trình phát triển, đó là kết quả của trí tuệ. Trí tuệ bao giờ cũng là nội lực, tức là mỗi chủ thể đều phải có năng lực phân loại những thứ mà mình kết nạp vào trong đời sống của mình để tạo ra sự phát triển của chính mình.

    Như vậy, quá trình phát triển của con người tối thiểu phải có hai giai đoạn, giai đoạn phấn đấu để trở thành con người và giai đoạn phấn đấu để trở thành con người phù hợp với đòi hỏi của thời đại.

    Chặng đầu tiên và quan trọng hơn cả của cuộc đấu tranh vì con người là đưa tiền con người trở thành con người. Chặng thứ hai là trang bị cho con người những năng lực phát triển theo khuynh hướng mở để con người luôn luôn tương thích hay thỏa mãn đòi hỏi của thời đại. Sự thỏa mãn các đòi hỏi của thời đại chính là giải phóng con người ra khỏi nỗi bất hạnh của mình. Đó vừa là hai công đoạn rất cơ bản trong quá trình đấu tranh để giải phóng mỗi một con người, vừa là hai chặng của tiến trình phát triển chung của cả nhân loại.

    Con người đã nhận ra sự cần thiết phải tiến hành chặng đầu tiên là giải phóng mình khỏi trạng thái tiền con người nhưng chưa thành công trên phạm vi toàn cầu. Con người đã từng nhận được tự do nhưng đó là những biến dạng của tự do, là tự do hạn chế, tự do vất vả và tự do sai lạc. Tự do hạn chế có nghĩa là cái tất yếu chỉ được nhận thức rất giới hạn chứ con người chưa thực sự sở hữu một không gian tự do bên trong. Tự do vất vả là sự thiếu tự do trong trạng thái không bình đẳng giữa con người với con người. Còn tự do sai lạc là thứ tự do mà con người tưởng rằng mình có nhưng thực ra, con người không thực sự tự do.

    Có thể nói, ba lần thất bại của con người khi đi tìm tự do đánh dấu sự khép lại chặng đường đầu tiên trong tiến trình phát triển. Mở đầu cho chặng đường thứ hai chính là toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá là xu thế chung lớn nhất từ trước tới nay, nó mở ra cơ hội khổng lồ cho con người tìm lại tự do và biến khát vọng phát triển thành sự thực. Con người trong thời đại toàn cầu hoá phải là con người phát triển, hơn thế phải phát triển toàn diện vì đó là đòi hỏi của thế giới hiện đại, của kỷ nguyên phát triển khoa học công nghệ, của sự hợp tác và cùng phát triển.

    Toàn cầu hoá là cơ hội để con người so sánh với nhau và thấy được nỗi bất hạnh của việc không thành người, nỗi bất hạnh của việc con người không thỏa mãn những đòi hỏi của thời đại. Các đòi hỏi của thời đại thể hiện tập trung ở những tiêu chuẩn về tự do và hạnh phúc của con người. Đó chính là nội dung của khái niệm phát triển trong thời đại ngày nay.


    Nguồn: Cội nguồn cảm hứng

    Nguyễn Trần Bạt: Bóc lột thời hiện đại

      Có thể nói, bóc lột là hiện tượng xã hội có quy mô rộng lớn và có tác động trực tiếp đến thân phận của con người. Từ trước đến nay bóc lột vẫn là một trong những vấn đề con người quan trọng nhất. Phân tích hiện tượng bóc lột trong bối cảnh thế giới hiện đại đòi hỏi phải có cách nhìn sâu sắc và khoa học vì tính chất của nó so với bóc lột bằng những phương thức cổ điển đã thay đổi rất nhiều.

      Bóc lột không bao giờ đơn thuần chỉ là phạm trù kinh tế mà luôn luôn là phạm trù chính trị – xã hội. Hơn nữa, quá trình bóc lột không chỉ mang yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị mà mang cả yếu tố văn hoá. Con người lạc hậu về mặt tư tưởng trong một thời gian dài sẽ trở nên khô héo về tinh thần, trở nên tụt hậu với đời sống thực tiễn và kéo theo đó là sự lạc hậu của cả xã hội. Đến lượt mình, mới nền văn hoá lạc hậu đều cản trở quá trình nhận thức và tìm ra những giá trị mới, và do đó, nó thủ tiêu sức cạnh tranh và cả sự sáng tạo. Nói tóm lại, bóc lột hiện hữu không chỉ trong các quan hệ kinh tế mà còn trên tất cả các mảng khác nhau của đời sống. Chính vì thế, sẽ là phiến diện nếu trong thời đại ngày nay chúng ta chỉ xem xét bóc lột từ sự bóc lột đơn thuần của giới chủ. Có một hình thức bóc lột tinh vi và gây ra nhiều hậu quả hơn cả là sự bóc lột diễn ra trong quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Hiện nay, ở các quốc gia lạc hậu với thể chế chính trị không minh bạch, thiếu dân chủ, nơi các quyền của con người về kinh tế, chính trị – xã hội bị hạn chế, quá trình bóc lột này vẫn đang diễn ra, mặc dù rất khó nhận ra. Sự bóc lột ấy thể hiện thông qua các phong trào chính trị phi hiện thực với đời sống con người. Chúng ta có thể gọi đó là bóc lột ngoài kinh tế. Lý thuyết bóc lột cổ điển chỉ xem xét đến hiện tượng bóc lột kinh tế mà không phát hiện ra, càng không giải thích được những vấn đề phức tạp của hình thức bóc lột ngoài kinh tế.

      Bóc lột ngoài kinh tế chính là sự bóc lột của những nhà cầm quyền đối với chính đồng bào của họ. Nó đẩy con người vào trạng thái nô lệ hiện đại mà bản thân họ không thể nhận ra. ở đây, không phải chỉ một người hay một bộ phận người mà toàn bộ xã hội bị rơi vào vòng nô dịch và sự trói buộc của tầng lớp thống trị trong xã hội. Bóc lột ngoài kinh tế sử dụng các biện pháp chính trị, tác động trên quy mô toàn xã hội và kéo dài trong suốt quá trình phát triển của lịch sử, đã tàn phá toàn bộ đời sống xã hội. Nó được thể hiện dưới nhiều hình thức, trong đó phổ biến nhất nhưng có lẽ lại ít lộ mặt nhất là việc các nhà cầm quyền, thông qua quyền cai trị đối với dân chúng, đẩy cả dân tộc vào các cuộc phiêu lưu chính trị viển vông và vô cùng rủi ro, nhằm thoả mãn khát vọng cá nhân của nhà cầm quyền. Đó là nguy cơ có thật của bóc lột ngoài kinh tế hay trạng thái nô lệ hiện đại mà nếu không giải quyết thì có nghĩa là nhân loại vẫn bế tắc trước những vấn đề cơ bản liên quan đến thân phận con người.

      Tôi cho rằng không nên kinh tế học hoá khái niệm bóc lột mà cần phải xã hội hoá và chính trị hoá khái niệm này để lên án nó như là một phương thức gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống xã hội. Người ta vẫn cho rằng chỉ có giới chủ mới bóc lột giá trị thặng dư mà quên mất các giới khác, không phải giới chủ, cũng làm như thế nhân danh các mục tiêu chính trị. Bất kỳ giới chủ nào cũng biết biến sức mạnh tài chính thành thế lực chính trị và ở đâu nhà nước được tổ chức một cách không dân chủ thì ở đó, quy mô bóc lột càng lớn. Nếu kinh tế học hoá khái niệm bóc lột thì tức là chúng ta đã vô tình di chuyển sự chú ý sang một đối tượng khác, trong khi đó nguồn gốc gây tội ác thông qua các hiện tượng bóc lột đã mở rộng trên quy mô không hề nhỏ là quy mô nhà nước và ít nhất là lớn hơn nhiều lần so với quy mô theo quan điểm bóc lột được kinh tế học hoá.

      Nhân loại đã giải phóng mình ra khỏi sự bóc lột bằng dân chủ chính trị kết hợp với tự do kinh tế, đó là chìa khoá của sự giải phóng. Dân chủ về chính trị tạo ra tự do cho con người, cả tự do sáng tạo, cả tự do tìm kiếm, cả tự do bán sức lao động cũng như tự do dịch chuyển và sử dụng các sở hữu để có lợi nhất. Người lao động có một thứ sở hữu thuộc về chính họ, đó là lao động và giá trị của lao động ấy tăng thêm cùng với thời đại. Ngày nay, con người không ngừng sáng tạo và sự sáng tạo đồng nghĩa với phát triển, nền kinh tế cũng phát triển theo chất lượng của con người. Do vậy, lao động đơn giản không còn là động lực chính cho sự phát triển mà thay vào đó là lao động sáng tạo. Bản chất của lao động thay đổi làm cho giá trị chứa trong lao động cũng thay đổi và nó tạo ra sự phát triển của năng lực lao động. Năng lực lao động sẽ không phát triển nếu vướng phải sự thiếu tự do của chính trị. Nếu chúng ta hoàn toàn tự do thì chúng ta có thể mang những lợi thế của mình đến nơi mà tại đó tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất. Đòi hỏi về tự do chính trị là hoàn toàn hợp lý. Đó không phải là một khát vọng viển vông, đó là khát vọng có thật để tạo ra sự sống thật. Việc một sản phẩm không được sản xuất đã có thể gây ra một sự lãng phí nào đó, nhưng việc một sản phẩm đã được sản xuất rồi mà không được bán thì còn lãng phí hơn nhiều bởi lẽ nó là kết quả của những đầu tư nhất định. Do vậy, một trong những nội dung quan trọng của quyền tự do chính trị chính là quyền tự do bán lao động, bán sản phẩm của mỗi người và chính nó đã tạo ra giá trị cho cuộc sống. không chỉ giá trị vật chất mà cả giá trị tinh thần chính sự không tự do về mặt chính trị đã hạn chế quyền tự đo này của con người với tư cách là người lao động, do đó gây ra rất nhiều lãng phí. Sự không tự do về chính trị làm cho con người không phát huy năng lực sáng tạo và cũng không phát triển được năng lực của mình.

      Xét về mặt sinh học, sự phát triển của con người là không đồng đều nên trình độ tư duy tất yếu sẽ không đồng đều. Do vậy, hiện tượng bóc lột vẫn tiếp tục diễn ra trong các không gian chính trị và pháp luật cho phép. Nhưng nếu con người không thức tỉnh về quyền và nghĩa vụ của mình thì không có đòi hỏi về sự tiến bộ xã hội và xã hội tiếp tục bị lãnh đạo, nô dịch bởi những hướng dẫn chính trị sai. Hướng dẫn sai về chính trị và kinh tế làm huỷ hoại những giá trị của xã hội thông qua sự huỷ hoại môi trường sinh thái tinh thần của xã hội. Bản thân quá trình hủy hoại những giá trị của xã hội cũng là một sự bóc lột, bởi nó làm suy giảm khả năng phát triển của xã hội Kết quả của bóc lột là giá trị thặng dư, kết quả của phát triển là giá trị gia tăng. Khái niệm giá trị gia tăng ngày nay rộng và toàn diện hơn rất nhiều so với khái niệm giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư được tính trên một đơn vị lao động của một người lao động. Đây là kết quả của một quá trình sản xuất đơn giản. Nhưng trong quá trình thương mại toàn cầu thì sự gia tăng trong khu vực sản xuất hoàn toàn không quy định tính gia tăng về giá trị của toàn bộ hệ thống kinh tế Bản chất hay dấu hiệu của một nền kinh tế lành mạnh chính là các giá trị gia tăng trong quá trình hoạt động của nó. Gia tăng giá trị chính là động lực của mọi sự phát triển hay là chỉ tiêu tổng hợp của sự phát triển. Một khi nền kinh tế được điều hành bởi quan điểm chính trị thì xã hội không nhận thức được các giá trị gia tăng và tính hiệu quả trọn vẹn tổng thể của nền kinh tế. Và khi không nhận thức được tính hiệu quả trọn vẹn tổng thể thì không có sự phát .triển, tức là không có nền kinh tế, mà chỉ có nền kinh tế thành tích chính trị. Trong nền kinh tế đó, con người không còn là người lao động theo đúng nghĩa nữa vì mất hết năng lực lao động và lao động mà không tạo ra giá trị gia tăng.

      Bóc lột ngoài kinh tế hay bóc lột trên phương diện chính trị – xã hội chính là sự nô dịch đời sống con người, khiến con người bị tiêu diệt tất cả các quyền tự do, không chỉ tự do về kinh tế, mà nguy hiểm hơn, nó còn tiêu diệt cả tự do chính trị, tự do sáng tạo và thậm chí cả tự do tinh thần của con người. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tiêu diệt các giá trị nhân văn của nhân loại. Chúng ta cần phải chống lại không phải là sự bóc lột kinh tế theo nghĩa cổ điển mà là sự bóc lột ở quy mô nhà nước hay nói đúng hơn là chống lại sự nô dịch con người. Nói cách khác, chúng ta phải giải phóng con người ra khỏi đời sống kém phát triển và tạo không gian tự do để con người có thể phát huy hết năng lực sáng tạo của mình.

      Những vụ kiện thời gian gần đây về bán phá giá đối với các quốc gia đang phát triển kinh tế như Trung Quốc có thể được nhìn nhận từ góc độ đang phân tích này. Các quốc gia bị kiện vẫn băn khoăn về sự bất công đối với họ mà không hiểu rằng nhìn từ quan điểm phát triển đó là biểu hiện của một mức sống bị suy giảm và một môi trường lao động thiếu sự hỗ trợ của các điều kiện vĩ mô. Những nguyên tắc về cạnh tranh bình đẳng không cho phép ai nhân danh cạnh tranh để bán lao động với giá rẻ mạt và đây chính là sức ép quốc tế của sự phát triển. Tôi cho rằng những vụ việc này không chỉ đơn thuần mang tính kinh tế mà nó còn mang tính nhân văn, bởi lẽ người ta đã không cho phép một sự bóc lột đơn giản đến vậy trên phạm vi toàn cầu. Cần phải giúp người lao động nhận thức rằng nếu không nhận được những đầu tư thoả đáng để phát triển chất lượng của lao động, thì đến một lúc nào đó con người sẽ không phải là người lao động nữa. Hướng dẫn và dắt dẫn con người đi đến những mục tiêu chính trị không được xác định rõ là làm mất năng lực của con người và làm cho con người không còn khả năng lao động. Đó chính là những vấn đề chúng ta cần nghiên cứu để giải phóng người lao động.

      Theo tôi, có hai yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình giải phóng người lao động, đó là dân chủ hoá chính trị và trả lại sự tự chủ cho giáo dục, trong đó bao gồm cả giáo dục về kỹ năng và giáo dục về nhận thức. Dân chủ hoá để con người có cơ hội tự do phát triển năng lực và tự chủ trong giáo dục để con người có thể rèn luyện và nâng cao năng lực của mình bằng cách tiếp nhận những tiến bộ của đời sống. Tất cả đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là con người có đủ năng lực đáp ứng những đòi hỏi của đời sống phát triển.

      Sự lành mạnh và dân chủ của hệ thống chính trị sẽ tạo ra những giá trị gia tăng trên mọi mặt của đời sống xã hội. Nếu như hệ thống chính trị không đạt được những tiêu chí như vậy thì tức là nó đang bóc lột, đang nô dịch cả một dân tộc. Đòi hỏi dân chủ hoá chính là đòi hỏi cần thiết nhất để bảo vệ quyền sống của con người nói chung và người lao động nói riêng.

      Trích Cội Nguồn Cảm Hứng - Nguyễn Trần Bạt

      Tôi đã từng sống không có ước mơ

      "Hãy dám sống với ước mơ lớn"

      Nhiều người nói với tôi rằng, nếu tôi đặt ra cho mình ước mơ quá lớn thì sẽ khó mà đạt được. Tôi trả lời, khi bạn ý thức được đó là ước mơ thì việc đạt hay không không quan trọng, vì trong quá trình phấn đấu đạt ước mơ lớn ấy, bạn sẽ phải sử dụng hết năng lực của mình và vượt qua những vấp ngã trong cuộc sống và bạn sẽ cảm nhận niềm vui của việc sống với ước mơ.

      Câu nói được lặp đi lặp lại trong bài diễn văn của mục sư M.Luther King “I have a dream” (Tôi có một ước mơ) đã trở thành bất hủ, và tôi thích câu nói đó. Đến khi chết vì bị ám sát, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ này vẫn chưa thực hiện được ước mơ của mình. Nhưng đã có những người kế tiếp thực hiện ước mơ dang dở của ông.

      “Tôi từng sống không ước mơ”

      Tôi từng nghĩ kiếm nhiều tiền là ước mơ, lập được doanh nghiệp là ước mơ, nhưng không phải, đó chỉ là sự nhầm lẫn giữa ý thích, mục tiêu ngắn hạn và ước mơ mà thôi. Sống là phải biết kiếm tiền. Đã ước mơ thì phải ước mơ lớn và phải trung thành với ước mơ, vì vậy không dễ tìm ra được ước mơ của cuộc đời mình.

      Bạn muốn biết đó có phải là ước mơ cuộc đời hay không, thì hãy thử hàng ngày nhắc đến nó, hình dung ra nó và cảm nhận trái tim bạn rung lên bần bật. Đấy mới chính là ước mơ cuộc đời! Ước mơ ấp ủ trong tim nên không có ngoại cảnh nào tác động làm bạn thay đổi.

      Nhưng nhiều người đang sống không có ước mơ. Tôi thời sinh viên cũng vậy. Gia đình tôi làm trong ngành y và đã hướng tôi vào trường Y dù tôi không muốn. Ước mơ không có, năng khiếu không rõ, nên năm thứ ba đại học tôi quyết định đổi ngành, bất chấp sự ngạc nhiên lẫn khuyên can của mọi người từ bạn bè, thầy cô, đến ba mẹ. Vì không thích, không phù hợp với ngành học, không ước mơ đã khiến sức học của tôi xuống rất thấp, trở thành một sinh viên kém. Tôi thích lăn lộn ra ngoài xã hội hơn là gò bó trong môi trường đại học. Tôi muốn làm giàu, tôi muốn kiếm tiền nhưng nếu làm giàu bằng ngành Y có vẻ hơi trái với lời thề Hiprocrat, cha đẻ ngành y, mà mọi sinh viên phải thuộc nằm lòng từ khi mới vào trường.

      Nghỉ học đại học là một quyết định khó khăn và cả dũng cảm nữa.

      Bố mẹ gây áp lực bằng cách cắt lương. Tôi chấp nhận. Thật sự ngay từ bé tôi đã mê… kinh doanh, bằng cách thỉnh thoảng cho bạn xem bài, đổi lại bạn cho tôi kem. Đó là công bằng. Trong môi trường giáo dục VN, người ta ngại nói đến tiền bạc. Riêng tôi, tôi khuyến khích các bạn nhỏ học cách kiếm tiền hợp pháp, đúng với giá trị mình bỏ ra. Ở nước ngoài, vào những kỳ nghỉ, bố mẹ cho con đi xúc tuyết, rửa xe hàng xúm để kiếm tiền, để nhận biết giá trị của đồng tiền và cảm xúc khi có tiền trong tay – cảm xúc mà bất kỳ ai muốn kiếm tiền phải có. Tôi ngay từ nhỏ đã có thể tự tổ chức sinh nhật bằng tiền bán báo cũ hay tiền bố mẹ phát lương cho khi giữ công việc phát phiếu bệnh nhân khám bệnh ở phòng mạch của gia đình. Vào đại học, vừa học tôi vừa tham gia dịch thuật cho các báo theo một quy trình như kinh doanh cá nhân thực thụ với mức thu nhập khá tốt. Do đó, tôi đã tự tin khi từ bỏ ngành y.

      Tôi tự mãn với công việc dịch thuật và khoản thu nhập của mình nhưng vẫn không hề có ước mơ. Năm 1994, tôi vào khoa quản trị kinh doanh của Đại học Mở Bán công TP.HCM, cũng với suy nghĩ như nhiều người bây giờ – muốn kiếm tiền phải học kinh doanh. Dịch thuật báo chí sang năm 2002 đã thoái trào. Tốt nghiệp đại học thủ khoa, tôi có thể xin ở lại trường dạy nhưng tôi không chọn cách đi này. Tôi không thích nói lại những gì người khác nói hoặc đọc trong sách, mà chưa hề qua trải nghiệm, ví như ta bảo “này, cam chua lắm”, “sao anh biết?”, “tôi nghe nói thế!”. Tôi về làm biên tập viên ở một tòa soạn báo, vừa làm vừa học cao học để có bằng cấp.

      Năm 2000, xong cao học, tôi bắt đầu con đường đi làm thuê qua nhiều công ty khác nhau để biết qua nhiều lĩnh vực trước khi làm chủ. Tôi làm việc nhiệt tình để trong thời gian ngắn nhất nắm chắc những gì cần biết ở mỗi công ty. 28 tuổi, tôi đã tự thiết kế chương trình dạy PR, ở thời điểm rất thịnh, và xin vào dạy ở một trung tâm, không phải dạy thuê mà dạy ăn chia phần trăm.

      Khi làm ở Prudential VN, ý muốn ra ngoài làm riêng của tôi bị chùng xuống vì địa vị khá tốt, công việc ổn định. Nhưng tôi gặp sự cố, phải nghỉ việc và tôi mất đi cái sự ổn định mà thật sự là không ổn định, đó là “ổn định trên sợi dây”, ổn định đích thực là ổn định do mình làm ra. Tôi quyết định tập trung trăm phần trăm cho công ty riêng của mình. Nhưng tôi vẫn chưa có ước mơ.


      “Và tôi có ước mơ”

      Ước mơ của tôi được nhận diện rõ vào cuối năm 2001, sau khóa học về huấn luyện tinh thần của Prudential. Đó là khóa huấn luyện cho người ta biết ước mơ, biết nuôi dưỡng niềm tin… Tôi quyết định đi theo con đường này vì đó là một lĩnh vực thú vị, hầu như chưa có ai làm ở VN.

      Ước mơ của tôi: Bất cứ gặp ai trong đời cũng mong muốn giúp họ thành công và hạnh phúc hơn. Tôi suy nghĩ kỹ: nếu cho người ta tiền, hết tiền người ta sẽ quay trở lại xin tiếp. Tôi thích câu chuyện Lưu Bình – Dương Lễ ở cái cách giúp bạn căn cơ của Dương Lễ: chỉ cho bạn thất trách nhiệm sống là của từng người, không ai sống thay mỡnh được.

      Ai đó nói “Tôi không cho người ta cá, không cho người ta cần câu, mà chỉ cách đi câu – tức chỉ cho cái nghề”. Nhưng chỉ cho người ta cái nghề thôi thì liệu người ta có vươn lên nổi không trước những cám dỗ trong cuộc sống để theo nghề nếu không cho họ một suy nghĩ mới? Nhà tù duy nhất của con người là nhà tù suy nghĩ mà, chỉ có suy nghĩ mới kìm hãm sự phát triển của con người! “Nếu bạn không thể nghĩ vượt lên được những gì bạn đang nghĩ thì bạn không thể làm hơn những gì bạn đang làm”. Bứt phá bằng tư duy, bằng suy nghĩ mới là quan trọng.

      Tôi giúp người khác có suy nghĩ mới nên đã chọn nghề diễn thuyết tinh thần. Nghề này giúp cho tôi sống với khát vọng. Tôi là người không bài ngoại. Nguyên lý của tôi là trong một có tất cả, trong tất cả có một. Là một doanh nhân, nếu anh nói anh yêu dân tộc Việt Nam, đầu tiên anh phải yêu nhân viên của anh, giúp nhân viên của anh phát triển. Để tôi yêu con người Việt Nam, tôi phải yêu con người, bất kể là người của dân tộc nào. Tôi sống vị tha, rộng lượng. Đó là cái mới trong con người tôi từ khi tôi sống với ước mơ của mình. Đã là ước mơ thì không có ước mơ xấu. Tôi khám phá ra chân lý: để bạn giàu thì hãy giúp người khác giàu, để bạn hạnh phúc thì hãy giúp người khác hạnh phúc, để bạn thành công thì hãy giúp người khác thành công.

      Nhưng trong đời sống hiện nay vẫn còn có những ước mơ bị giết chết ngay từ trong trứng nước. Nhiều người lớn chọn đời sống an phận, luôn nói với con cháu rằng hãy mơ vừa vừa thôi, trèo cao té đau. Đó là do ảnh hưởng tư tưởng của người phương Đông xưa, sống một đời sống an nhàn là một cuộc đời không hoài bão, không danh lợi.

      Cuộc sống bây giờ đã khác. Nếu đã ước mơ thì hãy ước mơ lớn. “Hãy ước mơ lờn đến tận trời xanh, nếu không đến được trời xanh thì bạn cũng đang ở giữa các vì tinh tú”. Tôi rất thích bóng đá và tôi yêu đội bóng đá Việt Nam, nhưng mục tiêu mà những người làm bóng đá Việt Nam đề ra là đứng đầu khu vực thỡ thật quá nhỏ bé. Chúng ta ước muốn nhỏ bé thì cách làm của ta sẽ nhỏ bé; còn nếu ước muốn lớn cách làm sẽ lớn.

      Có những ước mơ hết cuộc đời này người ước mơ không làm được, nhưng người khác sẽ đi tiếp chặng đường.

      Tôi có nhiều ước mơ nhưng trong những ước mơ đó chỉ có duy nhất một ước mơ lớn. Đó là ước mơ về sự nghiệp – sự nghiệp của một diễn giả chuyên nghiệp. Tôi đang sống với ước mơ sẽ có một ngày diễn thuyết ở sân vận động với hai ba vạn người nghe, không chỉ bằng tiếng Việt mà cả tiếng Anh.

      Trong nghề diễn giả tinh thần, tôi thần tượng khả năng của Anthony Robbins diễn giả tinh thần người Mỹ, được xem là số 1 thế giới hiện nay, với mức thù lao lên tới 100.000USD/buổi. Đồng nghiệp nước ngoài nói với tôi rằng, tôi có thể trở thành diễn giả tiếng Anh khá, nhưng tốt nhất tôi hãy là diễn giả tiếng Việt quốc tế cho người Việt trên thế giới.

      Tất cả những ước mơ đều có thể trở thành sự thật, nếu chúng ta dám sống với ước mơ. Câu chuyện của Thống đốc bang California, tài tử Hollywood, lực sĩ đẹp hoàn vũ Arnold Schwarzengger khiến cho người ta mong muốn sống với mọi ước mơ của mình. Arnold từ một cậu bé ốm yếu trở thành lực sỹ đẹp hoàn vũ, năm 1990 ông qua Hollywood với cái giọng Mỹ lai Áo khó nghe, nhưng với ước mơ làm chính khách, ông đã rèn luyện không ngừng và bây giờ thì Arnold là một trong những chính khách diễn thuyết giỏi!

      Từ câu chuyện cuộc đời của Arnold, tôi tự hỏi tại sao mình không thể là một diễn giả tiếng Anh giỏi. Tôi chắc chắn làm được. Nhưng tôi không muốn rời xa đất nước này để đến một đất nước khác. Tôi muốn theo đuổi con đường mà tôi đã chọn, làm thế nào để diễn thuyết trở thành một nghề phổ biến ở Việt Nam và có trường đào tạo diễn giả.

      Ai đó nói với tôi rằng, bên cạnh những ước mơ đích thực còn có những ước mơ viễn vông. Đúng, ước mơ viễn vông là khi người ta nói những không dám sống với ước mơ. Có bạn trẻ nói với tôi, bạn ấy muốn bay. Tôi hỏi lại, bạn có tin là bạn bay được không? Trả lời: Không. Nếu bạn không tin mình thì làm sao bạn có thể thực hiện được ước mơ? Có một bác sĩ ngoại khoa người Brazil mất đi một bàn tay sau tai nạn động đất, nhưng ông ấy vẫn dám sống với ước mơ của mình, trở thành bác sĩ phẫu thuật giỏi với một bàn tay và một bàn tay khác được ghép từ bàn chân.

      Những người như bạn trẻ kể trên là những người luôn hoài nghi mình bé nhỏ, một mình thì không làm gì được. Đối với họ, thời gian vẫn trôi, cuộc đời vẫn ngắn ngủi, và họ cũng sẽ đi hết đời mà chẳng để lại dấu ấn gì cho cuộc đời mình cả. Với riêng tôi, không có ước mơ nào là viễn vông nếu bạn dám sống hết mình với ước mơ.

      Hạnh phúc của người sống có ước mơ là họ luôn có ước mơ để sống. Họ luôn tạo ra những điều tốt đẹp cho xã hội, cho mọi người và cho bản thân mình.

      Có người hỏi tôi, giữa hai sự lựa chọn: một là, bạn đặt ra từng ước mơ nhỏ và thực hiện nó dần dần sẽ tới ước mơ lớn; hai là đặt hẳn ra ước mơ lớn và cứ thế thực hiện, tôi sẽ chọn cách nào. Tôi nói, tôi sẽ đặt ra ước mơ lớn và vạch kế hoạch, lộ trình, mốc thời gian để đạt được nó. Tôi sẽ đi một cách hào hứng và nếu có ngã, ước mơ sẽ kéo tôi đứng lên đi tiếp. Tôi không sợ ước mơ sẽ ám ảnh mình mà tôi thấy hạnh phúc vì mỗi ngày tôi càng tiến gần đến đích của cuộc đời mỡnh.

      Các bạn trẻ Việt Nam thường ít ước mơ bởi xã hội chúng ta ít ước mơ, giáo dục trong nhà trường không cho học sinh có những suy nghĩ bay bổng, trí tưởng tượng không được nuôi dưỡng, bố mẹ sống thực dụng nên khuyên con thực dụng, con cái không được nói những gì chúng muốn, chúng suy nghĩ mà phải nói những gì bố mẹ cho phép, nên nếu có ước mơ các bạn cũng giữ trong lòng mà không dám nói ra, để đến một ngày ước mơ chết đi vì không có sự chia sẻ.

      Tôi là người theo nguyên lý cân bằng trong cuộc sống. Với tôi, người nghèo là người ngoài tiền bạc ra không có gì cả, nghèo tâm hồn, nghèo mối quan hệ, nghèo tình cảm, nghèo tinh thần… Cho nên, tôi là người giàu có, hạnh phúc và thành công. Tôi giàu có vì tôi có ước mơ lớn, tôi có sự cân bằng các mặt trong đời sống và không bao giờ sống dưới mức tiềm năng bất cứ một phút nào.

      Quách Tuấn Khanh

      Theo chân Phật hoặc theo chân Chúa

       
      Một đóa sen

      Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè nóng bức oi ả nhất của thập niên tám mươi tại miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như nằm yên dưới sức nóng như thiêu đốt, ngay cả về đêm cái nóng như vẫn còn âm ỉ, mọi thứ như tỏa ra hơi nóng – những bức tường, những sàn lót gạch hung hung đỏ, cái sân tráng xi măng trước mặt, ngay cả cái ván lót trên sàn nằm cũng toát ra hơi nóng. Những người tù nhân chính trị chế độ cũ như trong một lò ngục tối trên trần gian, ban ngày thì lao động khổ sai đổ mồ hôi không phải đổi lấy bát cơm mà đổi lấy ít thức ăn độn như khoai hay sắn hay bo bo mà vẫn không đủ no, ban đêm thì cố giỗ giấc ngủ trong cái nóng như nung như đốt ấy trong cái cả nh nằm xếp hai từng như cá đóng hộp trong buồng giam. Mồ hôi lại đổ ra cho đến khi mệt lả người đi thì giấc ngủ chập chờn mới đến.

      Cái nóng kinh người đã kéo dài cả tháng nay và đồng ruộng đã nứt nẻ, các em bé chăn trâu mà Trung và các bạn gặp trên đường đi lao động cũng môi khô và chui vào các bụi cây trú nắng. Các giếng nước cũng từ từ khô cạn đưa đến nạn thiếu nước trầm trọng cho cả dân chúng những làng bên ngoài lẫn những người tù khốn khổ trong trại.

      Buổi trưa hôm đó cũng như mọi ngày sau khi lao động về, ăn xong phần ăn trưa ít ỏi, các người tù cố nằm giỗ giấc ngủ ngắn để lấy sức lao động buổi chiều thì thấy một vị sư già đang ngồi ngoài sân nắng trong thế kiết già cả nửa tiếng đồng hồ và mặt ngước nhìn thẳng lên trời. Những khi hạn hán thì thầy vẫn cầu nguyện như thế và sau đó chiều tối hay trước nửa đêm thể nào mưa giông cũng kéo đến. Đêm nay cũng thế, Trung cố giỗ giấc ngủ để mà mai còn sức trả cái nợ lao động nhưng không làm sao nhắm mắt được, mồ hôi trên người cứ nhỏ từng giọt như làm cho sức khỏe của anh cạn dần đi theo đêm. Anh nhớ tới thằng bạn thân nằm bên cạnh nói với anh hồi chiều rằng chỉ ước ao ông Trời cho một trận mưa chứ đã tù cả chục năm rồi cũng chẳng mơ ước xa xôi gì ngày trở về nữa.

      Thế rồi, như một phép lạ những làn gió mát từ đâu từ từ thổi đến, len lỏi vào những khung cửa sổ, luồng dưới những cánh cửa buồng giam và từ xa xa vài lằn chớp nhoáng lên bên trời. Chẳng bao lâu sau thì những giọt mưa, ôi những giọt mưa cam lồ của Trời ban xuống như thêm sức mạnh cho những người tù biệt xứ lưu đày. Các buồng giam không ai bảo ai đều thức dậy và tung mùng ra để được hít thở những giây phút mát rượi của làn gió lùa vào trại giam.

      Vô tình Trung nhìn xuống nơi vị sư già giam cùng buồng với anh, thầy vẫn như còn đang ngồi thiền trong mùng, mặt quay vào tường trong thế kiết già. Trung chợt hiểu và các bạn anh cũng hiểu rằng chính nhờ thầy cầu nguyện mà đã có trận mưa đêm nay. Vị sư già đó chính là Trung Tá Quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo của QLVNCH – Thượng Tọa Thích Quang Long, một người tù xuất chúng đã làm cho kẻ thù phải cúi đầu kính nể. Giang sơn của thầy cũng là một tấm chiếu, hai bộ quần áo tù, và một cái chăn đỏ Trung Quốc như mọi người và nằm một dãy với các Đại Đức Tuyên Úy khác.

      Anh nhớ đến thầy Khuê, một vị Tuyên Úy Phật Giáo và Tam Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo võ đường Quang Trung, một vị Đại Đức mà anh rất mến thương và kính trọng, đã từng nói với anh rằng nếu nói về đạo Phật, về sự tu hành thì hãy lấy thầy Long mà làm gương; đừng vì một vài vị Tuyên Úy đã không nghiêm giữ được giới răn mà hiểu lầm về đạo Phật mà mất đi niềm tin.

      Anh nhớ lại câu chuyện lúc mới bước chân vào trại giam Long Thành sau khi Sài Gòn sụp đổ và hầu như mọi người đều không biết bấu víu vào đâu, niềm tin vào các tôn giáo cũng bị lung lay thì một sự việc đã xảy ra làm mọi người đều kính trọng thầy, nhất là khi biết hai tòa đại sứ bạn đã đến đón thầy đi di tản trước đó nhưng thầy đã khẳng khái chối từ và thanh thản bước chân vào trại giam.

      Trong thời gian mới bị giam giữ, một hôm thầy được gọi ra làm việc để gặp hai vị sư quốc doanh là Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này ra sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào “Phật giáo yêu nước”, và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công góp sức xây dựng phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị đày ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì thường được gọi là ông Từ Đàm vì tu ở chùa này ngoài Huế. Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đã đứng ra bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về lại con đường tu hành vì họ đã bị lộ hình tích. Không ngờ ông trời trớ trêu để có ngày họ lại đến trại Long Thành và đối đầu với thầy trong hoàn cảnh đặc biệt này của đất nước.

      Thầy nhìn hai vị sư quốc doanh kia và từ tốn chậm rãi nhưng thật cương quyết thầy nói:
      “Các ông đã dựng nên cái phong trào “Phật Giáo yêu nước” ấy thì các ông cứ tiếp tục công việc mà các ông đã làm, còn tôi là một Tuyên Úy trong quân đội và tôi sẽ theo chân các Phật tử trong các trại giam, họ đi đến đâu thì tôi cũng sẽ đi đến đấy với họ cho tới cùng. Thôi các ông về đi”.

      Và sau đó thầy chấp nhận việc chuyển trại ra Bắc mở đầu cho một quãng đời biệt xứ lưu đày.
      Những ai có may mắn gặp thầy trong trại giam thầy đều kính trọng vị sư già này, người mà lúc nào cũng như mỉm cười, hòa nhã, giản dị, khiêm tốn và giúp đỡ tất cả mọi tù nhân mỗi khi thầy có phương tiện.

      Năm 1976, thầy cùng một số Tuyên Úy chuyển trại từ Nam ra Bắc và bị giam giữ tại trại 1 Sơn La hay còn gọi là trại Mường Thái là nơi mà trước kia Pháp đã từng giam giữ những tù nhân bị án lưu đày. Năm sau thì thầy có tên trong số những tù nhân di chuyển về trại Yên Hạ, trại giam này nằm dưới thung lũng và bao vây chung quanh bởi những dãy núi đá vôi, thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Trại Yên Hạ là nơi chuyên giam giữ những tử tội hình sự cướp của giết người mà đã được nhà nước “khoan hồng” tha cho tội chết.

      Chỉ hơn một năm sau thì các tù nhân này dần dần kiệt sức vì lao động khổ sai, thiếu dinh dưỡng, thiếu ăn nhất là thiếu chất mỡ và đường, và vì khí độc từ dãy núi đá vôi phả vào từ chung quanh. Bởi thế chỉ sau một thời gian ngắn chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, ai nấy đều gầy như bộ xương còn biết đi. Khi đi lao động hay đi trở về trại, người ta chỉ thấy những bộ quần áo tù phấp phới bay mà chẳng thấy da thịt đâu. Thế rồi sau bốn năm trời giam cầm và lưu đày, một số những người tù lần đầu tiên được nhận một gói nhỏ tiếp tế cực kỳ quí giá từ gia đình trong Nam gửi ra, một số khác thì vẫn chưa nối lại được sợi dây với gia đình trong Nam.

      Trong gói nhỏ mà các Phật tử gởi cho thầy Long có 15 cục đường móng trâu, lúc đó ai mà có được 5 cục đường như thế thì đã là thần tiên rồi, nhưng thầy từ từ đem ra phân phát hết 15 cục đường quí giá đó cho những người cùng buồng. Ưu tiên những tù nhân nào mà đã kiệt lực thì được một cục, những người đau ốm khác thì mỗi người được nửa cục mà thôi, còn riêng thầy thì không có một miếng đường nào hết. Những người tù này khi nhận được cục đường từ tay thầy phân phát đã không cầm được nước mắt trước tấm lòng vị tha, quảng đại vô biên của một vị sư mà tâm đã định và huệ đã ngời sáng.

      Thầy cũng không thoát được những vụ hỏi cung, một hình thức tra tấn tinh thần những người tù khốn khó này trong trại giam. Một tên cán bộ từ Hà Nội vào với mái tóc hoa râm có vẻ là một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ đã hỏi cung thầy trong ba ngày liên tiếp. Hắn vứt cho thầy tờ giấy để tối về khai báo những tội lỗi đã chống đảng, nhà nước và nhân dân trước kia khi hoạt động ở Sài Gòn cho Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sáng hôm sau, khi kêu ra làm việc tiếp tục, thầy đã nộp bản khai báo cho hắn, vừa xem xong thì hắn đùng đùng nổi giận ném tờ khai xuống bàn và quát tháo:
      “Anh khai báo thế này hả? Tại sao anh lại chép Chú Đại Bi vào đây? anh muốn tù rục xương ra không?”.

      Vẫn thái độ bình tĩnh và từ tốn của một vị cao tăng thầy chậm rãi trả lời:
      “Thì đây chính là những gì mà tôi đã làm và đã tụng niệm khi xưa, có thể thôi!”.
      Hắn với vẻ mặt hầm hầm liệng cho thầy một tờ giấy khác để khai báo lại một cách thành khẩn để được sớm khoan hồng. Sáng ngày hôm sau, thầy nộp cho hắn một tờ thứ hai và trên tờ đó thầy chép lại thật nắn nót bài Kinh Bát Nhã. Đến đây thì hắn nổi điên lên và mạt sát thầy thậm tệ và đe dọa rằng thầy sẽ tù mọt gông và đừng mong sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Thầy ung dung trả lời rằng:
      “Các ông cứ việc giam giữ tôi bao lâu cũng được, tôi chỉ xin các ông hãy thả hết những người tù chính trị chế độ cũ mà các ông đang giam giữ mà thôi”.

      Từ đó đến sau, chúng ít khi kêu thầy ra hỏi cung nữa cho đến mãi năm 87, trước khi có một đợt thả lớn tại trại Ba Sao Nam Hà thì trong các vị Tuyên Úy bị hỏi cung có tên thầy. Nhưng đặc biệt lần này chúng gọi thầy bằng thầy chứ không gọi là anh như trước nữa, tuy nhiên chúng vẫn dụ dỗ thầy nhận tội để được khoan hồng. Thầy trả lời rằng các ông cứ thả hết các ông đại đức tuyên úy ra đi vì họ chẳng có tội lỗi gì hết tất cả đều do tôi và họ đều làm theo chỉ thị của tôi hết, muốn gì thì cứ giữ tôi ở lại đến bao lâu cũng được. Chúng đành chào thua và chỉ vài tháng sau thì thầy có tên trong danh sách được thả ra khỏi trại cùng với tất cả các đại đức và những vị mục sư linh mục khác trong các Nha Tuyên Úy quân đội.

      Thầy ở tù mười hai năm, một năm trong Nam và mười một năm lưu đày trong những trại giam được dựng lên nơi rừng thiêng núi độc miền Bắc.

      Về miền Nam, thầy trở lại chùa Giác Ngạn trên đường Trương Minh Ký cũ ở Sài Gòn để lại lo Phật sự, cúng kiến giúp đỡ các gia đình Phật tử. Khi đi đâu tụng kinh thầy vẫn đơn sơ trong chiếc áo nâu sòng và phe phẩy chiếc quạt đã sờn rách và môi luôn nở nụ cười hiền hậu giống như một ông già nhà quê chất phát hiền lành.

      Chùa Vĩnh Nghiêm có vời thầy ra nhưng thầy vẫn ở lại Giác Ngạn – ngôi chùa mà thầy góp công xây dựng lên và trụ trì cho tới khi mất nước – cho tới khi thầy viên tịch vài năm sau đó.

      Đêm Noel trong xà lim số 6

      Ngày 29-4-1984, tôi được chuyển sang xà lim số 6 trại A-20 ở chung với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người em chủ trương năm 1976. Tôi hoàn toàn không hiểu lý do của việc chuyển xà lim cá nhân này. Ðây cũng là ngày mà tôi đánh dấu 3 năm bị cùm hai chân và có giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5. Phải nói là tôi bị gông thì đúng hơn. Nếu quý vị được nhìn thấy những tội phạm của thời phong kiến bị gông như thế nào thì chúng tôi bị gông như thế nấy. Chỉ có khác là nhà tù Cộng sản không gông cổ mà thôi. Linh Mục Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc của dòng Chúa Cứu Thế, sau khi bị lên án chung thân khổ sai sau vụ và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, đã bị đưa lưu đầy tại trại A-20 Xuân Phước. Khi tôi đã nằm cùm trong biệt giam trong phòng số 5 được 2 năm thì một hôm Linh Mục Nguyễn Văn Vàng lúc ấy từ trại lao động bị đưa vào xà lim số 6, bên cạnh xà lim tôi bị giam.

      Khi còn ở ngoài trại lao động, ngài là đối tượng theo dõi của đám an ninh trại giam, nhất cử nhất động đều không qua mắt được một giàn ăng ten dầy đặc vây quanh vị tu sĩ công giáo này. Bọn an ninh trại nói thẳng ra rằng nếu chúng bắt gặp bất cứ tù nhân nào liên hệ với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, sẽ cùm ngay.

      Tôi là một Phật tử, nhưng mối liên hệ với Cha Vàng khá thân thiết và chúng tôi thường đàm đạo với nhau vào mỗi ngày sau giờ cơm chiều trước khi điểm số để vào buồng giam, không chấp lệnh của trại. Có lẽ đây là lý do bọn an ninh trại đưa tôi đi “nghỉ mát” trước và 2 năm sau họ đưa Cha Vàng và một vài anh em nữa vào những chiếc hộp nhỏ ở ngay say nhà bếp của trại A. Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước thường được chúng tôi gọi là trại trừng giới (danh từ có từ thời Pháp thuộc để chỉ những trại có quy chế trừng trị tù nhân khắt khe). Cục Quản Lý Trại Giam của Cộng Sản thì gọi những loại trại này là Trại Kiên Giam. Tại sao chính quyền Cộng Sản gọi những trại được đánh mã số bằng chữ A và tiếp theo là một hàng con số? Thật ra thì rất ít người được biết lý do tại sao lại gọi A-20 là một trại kiên giam nếu không có dịp bị gọi đi thẩm cung nhiều lần trước khi được “gởi” vào những chiếc “hộp” ở Xuân Phước. Sau biến chuyển đánh dấu bằng việc Trung Quốc tấn công 6 tỉnh sát biên giới Việt Trung năm 1979, Cục Trại Giam được lệnh thực hiện một kế hoạch gọi là “Phương Án 4”, nghĩa là thực hiện một kế hoạch tuyển lựa tất cả những thành phần cứng đầu “không thể cải tạo được nữa” để đưa vào những trại A và trại Z. Kế hoạch này là tác phẩm của một viên Ðại Tá về sau này trở thành một tướng lãnh công an tên là Hoàng Thanh (có lẽ là bí danh). Hoàng Thanh đã thẩm cung chúng tôi và rất nhiều tù nhân khác mấy tháng trước khi tôi bị chuyển trại về A-20. Lần sau cùng là vào mùa Thu 1979, khi thẩm cung tôi lần chót, ông ta cười cười nham hiểm nhưng nói huỵch toẹt: “Tôi biết chắc chắn là khi chuyển về trại mới, các anh không còn ngày ra. Cho nên tôi khuyên các anh là tốt nhất nên ngoan ngoãn để hưởng khoan hồng của nhà nước, nói chung là được mang vợ con cách anh lên lập nghiệp ở đây cho gần. Khu vực trai giam sau này sẽ trở thành một đập nước và một thị trấn. Chúng tôi muốn thiết lập một trong những tiểu Siberia . Bây giờ, tôi thấy không còn cần phải giấu diếm gì các anh nữa”. Trại A-20 lúc đầu (1979) có tới 4 trại được đánh số A, B, C, D, ở cách nhau trên dưới 5 cây số. Trại A được xây hoàn bằng bê tông cốt sắt tường, bệ nằm, vườn rau ao cá dưới những rặng dừa xanh tốt. Nhưng bên trong những dãy nhà gạch, mái ngói đỏ au đó là những phương thức câu thúc thân thể và tinh thần không khác dưới các trại giam ở Siberia dưới thời Stalin mà phần lớn người đọc sách ở Miền Nam Việt trước 1975 đều biết qua cuốn “Quần Ðảo Gulag” của văn hào Solzhenitsin. Tôi sẽ có dịp nói đến chuyện này trong một bài viết khác. Bây giờ tôi quay lại chủ đề của bài viết này.

      Những người dây dựng trại Xuân Phước là ai? Cái oái oăm của lịch sử mà chúng tôi gặp phải chính là ở chỗ: Trại tù này lại do chính bàn tay của những người từng được di tản tới Guam trước ngày 30-4-1975, sau đó lại biểu tình đòi trở về lại Việt Nam bằng tầu Việt Nam Thương Tín, tạo dựng lên. Lúc chúng tôi được chuyển trại về đây thì có một số vẫn chưa được trả tự do. Chạy nạn Cộng Sản tới Guam , rồi vì những lý do riêng biệt hầu hết là vì gia đình còn kẹt lại, trong cơn hoang mang và đau khổ tột độ, tình cảm che lấp lý trí và bị kích động, họ đòi quay trở về với lý do xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Nhưng người Cộng Sản thừa hiểu, những người tị nạn này quay trở về chỉ vì có người còn vợ con, có người còn mẹ già không có người săn sóc, có người hoảng loạn bỏ lại vợ mới cưới, người tình đằng sau. Cho nên, Cộng Sản mở một cuộc đón tiếp để quay phim chụp hình và sau đó đẩy tất cả đàn ông vào khu rừng Xuân Phước và bị buộc phải xây dựng nhà tù này để chính quyền Cộng Sản giam giữ chính những đồng đội của mình. Tôi đã có rất nhiều dịp tiếp xúc với họ, nên hiểu được tấm lòng của họ và thấy họ đáng thương quý hơn là đáng trách. Một sĩ quan xưng là quản gia cho tướng Nguyễn Cao Kỳ tâm sự với tôi: “Cậu tính coi, lúc đó vì hoang mang đi gấp không kịp lôi vợ con và bà mẹ già theo. Ðến Guam, cứ nghĩ đến họ, làm sao nuốt nổi miếng cơm chứ. Tôi biết nhiều người không thể thông cảm được lý do tôi trở về, trong đó có thể có cả vợ con tôi nữa, nhưng đành chịu vậy. Cho nên dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn nạn như thế này, tôi vẫn thấy lương tâm yên ổn hơn”.

      Tôi không có ý định nói chi tiết về vụ này mà muốn trở lại cái đêm Noel trong xà lim số 6. Xà lim là tiếng dịch theo âm Việt Nam của “cellule” (tiếng Pháp), xuất hiện trong văn chương và báo chí từ thời Pháp thuộc. Thực ra nếu tra tự điển tiếng Anh Việt hay Pháp Việt, chữ cell hay cellule đều có nghĩa là “tế bào”. Trong các trại tù của những quốc gia theo chủ nghĩa tư bản cũng như chủ nghĩa cộng sản, hoặc các quốc gia dân chủ tự do, những “tế bào” vẫn được hiểu là những phòng biệt giam cá nhân để trừng phạt những tù nhân nguy hiểm. Những phòng biệt giam cá nhân này thường được xây dựng theo một tiêu chuẩn giống nhau: Không gian nhỏ hẹp của chúng phải đáp ứng được nhu cầu trừng phạt cả thể xác lẫn tinh thần người tù. Riêng tại các trại cải tạo do người Cộng Sản dựng lên, những phòng biệt giam cá nhân được gọi bằng một nhóm từ “nhà kỷ luật”. Trại A ở A-20 Xuân Phước có một dãy 10 phòng biệt giam cá nhân, mỗi phòng như vậy giống như một cái hộp với bề rộng 3 thước, dài 3 thước, cao 6 thước, xây dựng bằng vật liệu bê tông cốt sắt, kín mít chỉ có một lỗ tò vò nhỏ ở cánh cửa trước để cho vệ binh kiểm soát tù nhân ở bên trong. Ở phía trong mỗi xà lim cá nhân, có hai bệ nằm song song, cách nhau bằng một khoảng hẹp khoảng nửa thước. Người tù nằm trên bệ quay mặt ra phía cửa hai chân bị cùm chặt bằng một cùm sắt (trong hình), có nhiều trường hợp bị cùm cả hai chân hai tay.

      Nhưng cùm như thế nào? Có phải là cùm bằng còng số 8 như ta thấy cảnh sát Mỹ còng tay phạm nhân để giải giao về sở cảnh sát không? Thưa không phải như vậy! Làm gì chúng tôi lại được ưu đãi đó. Loại còng trong những xà lim mà tôi trải qua suốt 5 năm liên tiếp tại A-20 trong rừng Xuân Phước là “cùm Omega”. Tại sao lại gọi loại cùm này bằng cái tên của một hiệu đồng hồ rất nổi tiếng là đồng hồ Omega. Hai cái vòng sắt để khóa hai chân người có hình thù giống y chang logo của đồng hồ Omega (minh họa của Bùi Ánh). Khi bị còng trong xà lim, người tù cải tạo bị đẩy ngồi lên bệ nằm, duỗi thẳng hai chân. Viên cán bộ an ninh trại giam sai một trật tự lấy ra một lô vòng sắt hình ký hiệu omega ra và ướm thử vào cổ chân người tù. Nếu đám an ninh trại giam không có ý định trừng phạt nặng tù nhân cải tạo thì họ ra lệnh cho trật tự lấy hai vòng omega vừa vặn với cổ chân người tù cải tạo. Ngược lại nếu họ muốn trừng phạt nặng và muốn làm nhiễm độc thối chân người tù, họ tra vào cổ chân tù cải trạo hai vòng omega nhỏ hơn vòng cổ chân rồi đóng mạnh xuống. Khi cổ chân người tù lọt vào được chiếc vòng omega, nó đã làm trầy trụa một phần hay nhiều phần cổ chân người tù. Sau đó, họ tra vào bên dưới một cây sắt dài qua những bốn lỗ tròn ở hai vòng omega, một đầu cây sắt ăn sâu vào mặt tường trong, đầu phía ngoài của thanh sắt được xỏ qua một chốt được gắn thật sâu xuống cạnh bên ngoài của bệ nằm. Một cây sắt khác ngắn hơn, một đầu được uốn tròn, đầu kia của cây sắt này được đánh dẹp và khoan một lỗ nhỏ. Khi hai thanh sắt này được khóa chặt với nhau thì một đầu của cây sắt dọc sẽ xuyên qua một lỗ nhỏ tường phái trước, thò ra ngoài ra ngoài một đoạn. Chỉ việc tra một cái khóa vào đầu phía ngoài ấy của thanh sắt dọc là tất cả hệ thống trên sẽ tạo thành một cái cùm thật chặt khó lòng một người tù nào có thể mở khóa vì mấu chốt để tháo cùm là ổ khóa bên ngoài. Phải mở được ổ khóa bên ngoài thì mới mở được cùm.

      Có bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi họ bị biệt giam ở trại Xuân Phước: Mức độ 1: Cùm một chân phải, mức độ 2: Cùm một chân trái, mức độ 3: Cùm hai chân, mức độ 4: Cùm hai chân hai tay. Tôi đã trải qua mức độ 4 trong 8 tháng liên tiếp, sau đó giảm xuống mức độ ba, rồi lại tăng lên mức độ 4 trước khi giảm xuống mức độ 3, 2 rồi 1. Khi còn bị cùm mức độ 4, ngoài hai bữa ăn và ban đêm, tôi được tháo cùm 2 tay, thời gian còn lại lúc nào tôi cũng phải ngồi cong như con tôm luộc vì kiểu cùm độc ác này. Sở dĩ tôi được giảm xuống mức độ 3 rồi trở lại mức độ 4 chỉ vì một sự kiện: Sự can thiệp của Hội Ân Xá Quốc Tế để thả tôi ra. Khi hai thành viên của Hội này là bà Frederick Fuchs (người Bỉ) và ông Pierre Carreaux (cựu chiến binh người Pháp) từ Belgique bay qua Bangkok với một danh sách 14 ký giả, phóng viên bị trả thù bởi chế độ mới tại Việt Nam và đòi đến Hà Nội để được gặp mặt những người này. Chỉ có bà Fuchs là được vào Hà Nội, nhưng bà chỉ được nhận hồ sơ can thiệp và được phép thăm bà mẹ tôi tại Saigon chứ không được đến trại A-20 gặp mặt tôi. Khi bà Fuchs đòi chiếu khán ở Bangkok để vào Hà Nội trùng vào thời điểm tôi được tháo cùm hai tay và thời gian bà Fuchs rời Hà Nội trùng thời gian tôi bị trở lại mức cùm số 4. Trước khi tôi được tháo cùm hưởng ân huệ ở mức độ 2, thì một phái đoàn do Hoàng Thanh hướng dẫn từ Hà Nội vào “thăm” A-20. Ông ta lôi một lô những người tù cải tao đang nằm trong biệt giam tại trại A cũng như B ở A-20 ra thẩm cung. Tôi được một trong những thẩm vấn viên cho xem bản sao những lá thư can thiệp đòi thả tôi, và 13 ký giả khác trong đó có kèm theo cả những lá thư của bằng hữu và đồng nghiệp với tôi ở Pháp, trong đó có thư của ông Trần Văn Ngô tức ký giả Từ Nguyên, một cựu phóng viên của Việt Tấn Xã thuộc lớp đàn anh chúng tôi. Sau đó anh ta nói thẳng với tôi: “Bọn mày thấy đấy, mấy thằng Tây này kể cả mấy thằng ký giả Việt gian chạy trốn tổ quốc không thể đánh tháo chúng mày được. Khôn hồn thì chịu cải tạo để không bị chết trong cùm. Suốt đời chúng mày sẽ không ra khỏi cái thung lũng này được đâu. Ân Xá Quốc Tế hả, còn khuya bọn nó mới làm gì được chúng tao”. Tôi không trách gì việc can thiệp này mà lại còn vui là đằng khác, bởi vì nó củng cố cho tôi một niềm tin và thấy được tấm lòng hào sảng của bạn bè đồng nghiệp ra được nước ngoài. Tôi thành thật tri ân họ.

      Những ngày tiếp theo, tôi bị nâng cùm ở mức độ 4 và bị cắt khẩu phần ăn xuống chỉ còn bằng một nửa so với các anh em bên ngoài, nghĩa là chỉ còn mỗi bữa ăn 150 grams. Nếu tính chi ly ra thì 150 grams thực phẩm mỗi ngày gồm khoản 5 lát khoai mì khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước muối và được phát cho nửa ca nước một ngày. Ăn mặn và uống nước ít, người rất dễ bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận. Trong tù mà bị thận thì kể như tàn đời. Cho nên ăn lúc đó trở thành ít quan trọng hơn dù lúc đó chúng tôi đã là lũ ma đói. Cái khát triền miên đã che đi cái đói. Nếu tôi muốn ăn muốn ăn được khẩu phần dành cho người đang bị trừng phạt phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa bớt cái mặn của nước muối được chan vào cơm và khoai mì. Tôi không dám hy sinh những muỗng nước quý như vàng lúc đó để rửa phần khoai. Tôi nghĩ chỉ có cách nhịn, nhưng càng đói lả đi thì mồ hôi ra như tắm, một tình trạng hết sức nguy hiểm. Cha Vàng thấy tôi lả đi, ngài đập cửa báo cáo nhưng đám cán bộ của nhà kỷ luật im lặng, coi như không có chuyện gì xảy ra. Buổi trưa hôm đó, cha Vàng nẩy ra một ý kiến. Ngài nói: “Anh không thể tránh ăn mãi như thế. Nếu Chúa che chở cho mình, phù cũng không chết. Bố tự trách không nghĩ ra việc hy sinh nửa ca nước của bố cho anh. Khoai mì ít ngấm nước muối hơn. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt mặn”. Tôi khước từ: “Bố (trong tù chúng tôi đều gọi tất cả các tu sĩ của các đạo giáo là bố hết) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như con không được đâu”. Ông cười: “Sao biết không được, đã thử đâu mà biết không được”. Tôi chọc ngài cho bớt căng thẳng: “Thế bố đã thử chưa mà khi đi giảng đạo có lúc bố nói về hạnh phúc lứa đôi”. Cả hai chúng tôi đều cười vang. Cha Vàng nói: “Ê này, để bố nói cho anh nghe chuyện này. Bố dù là linh mục thì cũng là người, con tim cũng rung động như mọi người khác, nhiều lúc bố cũng muốn thử. Những lúc như thế mình phải tranh đấu với chính bản thân mình ghê lắm để đừng vượt rào đi ăn tình. Ðiều này cũng cần can đảm mới làm được. Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trong sự can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như thường tình thì nói gì nữa”.

      Vâng thưa quý vị, giải pháp của Cha Vàng đã khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua đi nhanh và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư của cuộc trừng phạt, như một phép lạ, viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Tù nhân mang cơm cho nhà kỷ luật cũng không phải là Hùng đen mà là Tuấn “sún” ở đội tù hình sự. Thông thường, khi vào phát khẩu phần cho nhà kỷ luật, viên cán bộ trực trại thường mở xà lim có tù nhân “bị gởi” (tù nhân bị ăn chế độ trừng phạt) trước. Nhưng lần này thấy các xà lim được lần lượt mở từ 1 cho đến 9 (số hên?) Xà lim 10 không có “khách”.

      Ðến xà lim số 6, cha Vàng đưa hai chiếc bát nhựa và hai ca đựng nước ra trong khi viên cán bộ đích thân mở khóa tay cho tôi. Viên cán bộ này mặc đồ công an không lon lá gì cả nên không biết cấp bậc anh ta. Phát khoai xong, thấy Tuấn “sún” múc một vá nước muối, viên cán bộ nói ngay: “Ít muối thôi, chan đẫm vào, làm sao người ta ăn được”. Ðến phần nước, khi thấy Tuấn “sún” múc đầy cả hai ca, tôi hiểu rằng hôm đó tên cán bộ trực trại có việc gì đó không mở trại kỷ luật được, nên nhờ bạn thay thế. Vì làm thế nên anh chàng này không còn nhớ hoặc không thèm nhớ là trong trại có tù nhân phải ăn khẩu phần dành cho chế độ trừng phạt. Phát xà lim số 9 xong, lại thấy có tiếng chìa khóa mở cửa xà lim số 6 của tôi. Tôi đinh ninh rằng họ quay lại để lấy bớt phần nước nên tôi vội vàng cầm ca nước uống hết. Nhưng không, Tuấn “sún” xách thùng nước đứng ở cửa phòng hỏi: “Có gì đựng thêm nước không”. Tôi nói: “Có” và đưa ca nước ra. Tuấn “sún” đổ đầy hai ca nước, rồi lại hỏi: “Còn đồ đựng nước khác không?” Cả hai chúng tôi lắc đầu. Viên cán bộ xen vào: “Ðổ vào thau cơm cho họ, chiều hay mai lấy ra”.

      Hình phạt dành cho tôi chấm dứt vào đầu tháng 11. Tôi đoán hết lý do này đến lý do khán khiến chúng chấm dứt sự trừng phạt đối với tôi. Nhưng cha Vàng nhận định: “Nếu cần phải giết chúng ta, chúng đã tùng xẻo mình ngay từ lúc đầu. Ðoán làm gì cho mệt…”. Cuối tháng 11, cả hai chúng tôi đều được mở cùm cho ra đi tắm, lần đầu tiên sau 3 năm biệt giam. Khi được mở cùm, tôi đứng lên không nổi vì hai chân dường như cứng lại. Cha Vàng cũng nằm trong tình trạng ấy, nhưng ngài mới bị biệt giam hơn một năm nên còn lết được. Chúng tôi bám lấy nhau theo hướng dẫn của trật tự đi ra ngoài giếng được đào bên cạnh một ao cá ngay sau nhà kỷ luật. Thời tiết tháng 11 ở vùng tiền sơn Tuy Hòa đã lạnh lắm rồi. Tôi còn có được một cái áo lạnh tự may bằng cách phá một chiếc chăn len của một bạn tù cho từ năm 1980. Khi được cho chiếc chăn len này, tôi nghĩ ngay đến chuyện may thành chiếc áo giống như áo trấn thủ. Trò may vá trong các trại tù cũng là một thú tiêu khiển và giết thời giờ. Chúng dùng những cộng sắt để làm kim và chỉ thì bằng những sợi rút ra từ những chiếc áo hay quần may bằng bao cát. Chính ở những trò may vá này, chúng tôi học được một bài học: Cùng thì tắc biến. Trước những trò đàn áp, những mưu chước thô bạo quản thúc con người trong các nhà tù cộng sản, vẫn có rất nhiều người vượt qua được cơn khốn khó do bản năng sống còn của họ rất mạnh. Cứ thử nghĩ một người nếu ăn bất cứ con vật gì mà họ bắt được kể cả rít núi, cỏ kiểng, ăn sống cả loại khoai mì H-34 có nhiều chất độc trên đất Hoa Kỳ này, thì chỉ có nước vào nhà thương sớm. Nhưng thời gian dưới các nhà tù Cộng Sản bệnh không có thuốc, ăn bậy bạ mà các tù nhân cải tạo ít bị hề hấn gì. Tôi nghĩ một cách chủ quan rằng chỉ có phép lạ hay bản năng tự tồn của người khi bị đẩy vào cùng quẫn mạnh, mới giúp cho một người tù sống được và có ngày trở về. Một số bạn tù của tôi sau này hay nói đến chuyện sống vì tinh thần, lúc đầu tôi chỉ coi là chuyện vui, nhưng ngẫm nghĩ lại thấy cũng có phần chí lý. Khi một người tù chấp nhận phần xấu nhất về mình, sẽ bất chấp những đòn thù. Vì một người biết chấp nhận phần xấu nhất về mình trong hoàn cảnh lưu đầy, sẽ chẳng còn gì phải suy nghĩ về hiện tại lẫn tương lai, ngày về. Lúc đó nếu Việt cộng có bắn mình một viên vào ngực, có lẽ điều đó được coi là ân huệ hơn là kéo dài cuộc sống của những người tù theo cách nửa sống, nửa chết như thế. Cho nên, người cộng sản có thể tính được nhiều trò đàn áp, hành hạ con người, nhưng không tính được điều liên quan đến bản năng và tinh thần của con người.

      Khi chúng tôi ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim. Còn tắm táp gì trong điều kiện thời tiết này. Thấy Cha Vàng run lên bần bật vì gió lạnh. Ngài lại chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù, nên tôi cởi chiếc áo trấn thủ và nói: “Bố đưa chiếc áo len con, bố mặc chiếc áo của con vào ngay. Bố phong phanh thế, cảm lạnh bây giờ. Bố nhớ rằng ở đây không có thuốc, mặc chiếc áo này của con đi, bố đưa áo len cho con”. Ông nhất định không chịu, nhưng cuối cùng tôi vẫn lột chiếc áo len của cha Vàng ra và mặc chiếc áo trấn thủ mang bằng chăn len hai lớp của tôi, tôi mặc chiếc áo len của ông. Dĩ nhiên chúng tôi chẳng tắm táp gì được cả, ngồi núp vào bức tường che giếng nước để tránh gió. Cha Vàng ít run rẩy hơn. Ngài đứng dậy và vung tay cử động. Tôi làm theo ngài. Tôi có cảm tưởng cứ mỗi lần vung tay cử động theo kiểu Dịch Cân Kinh thì chúng tôi choáng váng có thể chúi về trước, nhưng đồng thời cũng cảm thấy bớt lạnh. Viên cán bộ trực trại dặn chúng tôi: “Các anh tắm thì tắm, không muốn thì thôi. Nếu không thì ngồi đây phơi nắng (ở Xuân Phước, mùa Ðông thường không thấy mặt trời). Cấm không được liên hệ với ai”. Nói xong, anh ta bỏ đi.

      Nói thì nói vậy, nhưng các anh em trong nhà bếp đều là anh em sĩ quan cải tạo, nên cũng tìm cách tiếp tế cho chúng tôi vài miếng cơm cháy, mấy tán đường. L.S, một người Việt gốc hoa, một tỷ phú, vua máy cày trước 30-4-1975 bị đẩy lên trại này sau khi lãnh cái án 20 năm tù sau đợt đánh tư sản mại bản lần thứ nhất, đang được cắt cử coi vườn rau cải. Ông ta từ vườn rau đi khơi khơi, không lén lút gì, đến thẳng chỗ chúng tôi, đưa một gói bánh trong đó có ít bánh bisquit lạt và ít đường tán, và thiết thực hơn là khoảng 10 viên thuốc B1. L.S nói: “Ngộ biếu, bánh đường ăn hết ở ngoài này đi, đừng mang vào chúng nó sẽ tịch thu. Thuốc B1 cần cho các nị lắm á. Cứ ăn từ từ, đừng có lo, nhà nước ‘no’ hết ”. Xong ông ta bỏ đi.

      Nhóm người Việt gốc Hoa sống trong trại rất đầy đủ, nhưng đối với chúng tôi, lúc nào họ cũng cư xử đàng hoàng. Những tin tức từ bên ngoài được đem vào trại của họ khá chính xác. A-20 là trại trừng giới nhưng quà thăm nuôi hàng tháng của họ chất đầy chỗ nằm. Mỗi lần thăm gặp họ ở với gia đình cả ngày ở ngoài nhà thăm nuôi cũng được, nếu họ muốn. Nhưng ít khi nào họ hành động như vậy. Môi trường ở A-20 là môi trường tế nhị. Những doanh nhân này đầu óc rất thực tế: Có tiền mua tiên cũng được huống chi đám cán bộ trại giam vốn cũng đói rách. Cái giá của việc khơi khơi đến tiếp tế cho chúng tôi ít ra cũng phải trả bằng 6 tháng biệt giam, nếu bị bắt gặp. Nhưng 6 tháng biệt giam chỉ tương đương với 2 cặp lạp xưởng. Ông là người tù duy nhất ở trong trại có thể trả cái giá ấy bằng lạp xưởng hay nửa bao thuốc lá ba số 5 thay vì vào biệt giam. LS biết chắc rằng buổi tối hôm ấy, tên trật tự (bị án chung thân vì tội cướp có súng) sẽ xuống gọi LS ra cửa sổ buồng giam và xin hai ặp lạp xưởng cho cán bộ nấu xôi. Cho nên, LS đi đâu một lúc rồi ông ta trở lại với cái điếu cày, diêm và nói: “Thuốc nào này say lắm, cẩn thận. Ðừng mang diêm vào biệt giam”. Hút xong thuốc lào, chờ cơn “phê” nhạt dần, tôi chợt nẩy ra ý kiến: “Bố ơi mình giấu 2 bi (tiếng lóng của hai điếu) để đêm Noel hút”. Tôi quận nhúm thuốc còn lại cho thật nhỏ vào bao nhựa đựng 10 viên B1 và nhét vào gấu quần. Cái gấu quần là chỗ hôi thối của những người tù 3 năm không được tắm, chắc không có ai muốn sờ đến nên có thể an toàn. Biệt giam là nơi cấm hết mọi thứ kể cả thuốc hút nên chúng tôi phải hành động như vậy. Và quả thật, trước khi mang chúng tôi vào lại xà lim, trật tự Hùng đen chỉ khám sơ sơ. Tôi và Cha Vàng đã thắng.

      Nhưng vào đến xà lim, sau khi xỏ chân vào cùm, nghĩ lại tôi mới thấy thất vọng: lửa ở đâu mà hút. Thảo luận mãi, Cha Vàng đưa ý kiến, lấy lửa bằng phương pháp của thời kỳ đồ đá. Tôi lại chọc vị tu sĩ Công giáo rất hùng biện này: “Bố con mình đang ở thời kỳ đất sét mà bố nghĩ đến phương pháp của thời kỳ đồ đá”. Cha Vàng cười: “Mày chỉ tầm xàm. Ðứng đắn đấy. Ðêm Noel mình sẽ hút thuốc lào, bố có cách rồi”. Sau đó cha Vàng giảng giải cho tôi cách lấy lửa “thời kỳ đồ đá”. Vị tu sĩ nói như giảng đạo: “Này nhé, con có biết rằng nền văn minh ngày nay đến từ việc phát minh ra lửa. Lửa chế ngự đồi sống con người khi họ thoát ra thời kỳ ăn lông ở lỗ… Con người thời kỳ đồ đá đã biết dùng đá chọi vào nhau cho đến khi xẹt lửa. Những tia lửa đó rớt xuống đám lá khô dễ bắt lửa và họ thổi cháy thành ngọn lửa”. Chà Vàng nói: “chỉ cần một thanh vỏ tre và áo mục”. Tôi hỏi Cha Vàng: “áo mục thì có sẵn, nhưng thanh vỏ tre?” Cha Vàng cười: “Bố giao nhiệm vụ cho mày nếu bị kêu đi thẩm cung, thế nào trước Noel chúng cũng gọi chúng ta ra tra vấn và khám xà lim, một biện pháp an ninh trước những ngày lễ trọng…” Do kinh nghiệm, cha Vàng nói đúng. Năm ngày trước Noel, trời có nắng, những tia nắng hiếm hoi xuyên qua cửa tò vò vào phòng giam. Ngài vội lấy chiếc áo tù bằng vải thô vá chằng vá đụp, xé hai mảnh nhỏ. Ngài nói: “Ðây là cái áo bố đã giặt rất sạch trước khi vào đây, để làm con cúi lấy lửa khi cần. Xé nó ra phơi cho thật khô. Cuộn lại cho chặt thành một cuộn bằng ngón tay cái. Dùng móng tay đánh tơi một đầu, đánh thật tơi cho đến khi sợi vải ở đầu con cúi xuất hiện một lớp bông. Dùng miếng vỏ tre thật mỏng luồn nó vào cái khe hẹp để gắn quai dép lốp rồi kéo cho đến khi thanh tre nóng bỏng. Hơi nóng của bột tre dính trên mặt bông của con cúi, lửa sẽ ngún và thổi nhè nhẹ vết lửa sẽ loang ra, chỉ cần thổi nhẹ là lửa sẽ bật lên”.

      Nghe Cha Vàng nói tôi tưởng là ngài nói chuyện thần thoại. Nhưng do vẫn nghĩ đến phép lạ, nên tôi nghe theo lời ngài. Tôi nghĩ đây là một trò vui và cũng là dịp tự thử thách mình. Ðúng như dự đoán, trước Noel 1984 ba ngày, lần lượt chúng tôi bị kêu ra ngoài thẩm cung và xà lim bị khám xét rất kỹ. Nhưng họ vẫn không phát giác ra được mấy điếu thuốc lào và thuốc B1 tôi giấu trong lai quần. Có lẽ do người hôi thối quá nên, anh cán bộ nào cũng sợ mó vào quần áo tôi. Chỉ còn thanh tre mỏng. Tôi nghĩ ra một kế nên báo cáo cán bộ cho xin một thanh tre mỏng mang vào xà lim để làm dồ cạo lưỡi. Viên cán bộ hỏi tôi: “Lưỡi anh làm sao?” Tôi nói: “Ðóng bợn ba năm rồi không được cạo, nên xin cán bộ”. Anh ta không nghi ngờ gì cả nên gật đầu: “Nhưng tre ở đâu ra?” Tôi nói ngay: “Ở nhà bếp chắc có”. Anh cán bộ gọi trật tự Hùng đen: “Xuống nhà bếp bảo họ cho tôi một vỏ tre cạo lưỡi cho anh này”. Tôi lại gặp may lần nữa. Mấy anh em nhà bếp tưởng làm cây cạo lưỡi cho cán bộ nên họ làm rất kỹ và tôi có một thanh cạo lưỡi bằng vỏ tre khô dài khoảng 2 gang tay.

      Sau khi trở lại xà lim, tôi bắt đầu thực tập ngay. Tháo một quai dép lốp ra, tôi luồn thanh tre vào và dùng hai tay kéo cưa. Thấy nóng thật, tôi ra sức kéo mạnh. Cha Vàng vội can: “Kéo từ, thở ra hít vào đều, ít ra cũng một tiếng đồng hồ”. Tôi lại chọc cha Vàng: “Bố ơi, mình dang ở thời kỳ đồ đất mà kéo như thế này, chắc phải ăn 5 phần khoai mì may ra mới bù lại được. Ðồ đất dễ vỡ lắm!” Vị linh mục cười hiền lành: “Thôi dừng có nói nữa, anh nói nhiều xì hơi còn sức đâu mà kéo”.Trong khi tôi đánh vật với chiếc dép và thanh tre, thì Cha Vàng móc trong tay nải lấy hai miếng vải đã phơi khô ra và làm thành một con cúi. Ông chà một đầu con cúi xuống sàn rồi lấy móng tay út lúc đó đã dài như móng tay của mấy bà người Tàu bó chân, khẩy khẩy cả tiếng đồng hồ vào những thớ vải lúc đó đã hơi bung ra. Ðến khi thấy mệt, mồ hôi ra như tắm, tôi nói với Cha Vàng: “Con chịu thua rồi bố ơi, mệt quá”. Cha Vàng khuyến khích: “Ðừng ngừng, tiếp tục để bố thử coi”. Tôi tiếp tục kéo. Bột tre đã văng ra có thể nhìn thấy trên sàn. Khi Cha Vàng lựa thế đưa cúi vào thì tôi gia tăng tốc độ. Cha Vàng reo lên: “Hơi ngún rồi tại, chưa bén than vì anh kéo chưa đủ đô”. Quả thật tôi cũng thấy một chút khói bốc lên. Ngày hôm sau, chúng tôi lại thử, một cuộc chạy đua tiếp sức của hai người. Ðể con cúi vải xuống sàn, tôi và Cha Vàng thay phiên nhau kéo, từ 9 giờ sáng cho đến hơn 11 giờ thì “phép lạ” đã đến. Ðầu con cúi bắt đầu ngún và có khói, có nghĩa là bột tre nóng quá độ đã khiến cho lớp bông nhẹ trên con cúi bén lửa. Một lát sau khi thấy xuất hiện những đốm hồng, Cha Vàng thổi nhẹ nhẹ, vết lửa lan ra, trang sử của mấy ngàn năm trước được lật lại Cha Vàng tiếp tục thổi nhẹ để nuôi dưỡng ngọn lửa. Và khi đã ngủi thấy mùi khét của vải, ngài thổi hơi mạnh. Ngọn than hồng lan rộng ra hơn và cuối cùng chỉ cần một hơi nhẹ, ngọn lửa bùng lên. Vị tu sĩ nhìn con cúi vải có than hồng giống như một điếu thuốc lá mới được đốt lên, rồi cười vang: “Mình thắng”. Ngài lục trong tay nải một miếng giấy châm vào cúi vải, ngọn lửa lan sang đóm giấy. Xong, cha nắm chặt tay tôi giơ lên cao như một võ sĩ được trọng tài nắm tay giơ cao sau khi đấm địch thủ do ván.

      Chúng tôi ngồi nghỉ một lát, sau đó Cha Vàng nói: “Chúng ta đã học xong bài học lúc bố đã ngoài 50, còn con đã 33 tuổi. Nhưng tự bố, bố thấy chúng ta xứng đáng với bài học ấy. Ðó là kiên trì đạt mục tiêu trong hoàn cảnh khó khăn nhất”.Ðúng vào tối24-12-1984, trước khi Cha Vàng cử hành thánh lễ nửa đêm trong xà lim số 6, chúng tôi đã hút mỗi người một điếu thuốc lào. Hút bằng một miếng giấy cuộn tròn như loa kèn và ngậm nước. Hút như thế, miệng mình chính là cái điếu, và cũng có tiếng kêu, cũng chếnh choáng say như khi hút bằng điếu cày. Chỉ có điều khác với hút thuốc lào bằng điếu cày: Sau khi hút phải nhổ nước đi. Trong hoàn cảnh tôi và Cha Vàng lúc đó thì hơi tiếc vì chúng tôi thiếu nước uống kinh niên.

      Kể từ ngày sống cùng một xà lim với Cha Nguyễn Văn Vàng, tôi học được nhiều điều. Trong suốt thời gian này, ngài giảng cho tôi bộ Tân Ước. Dù tôi là một Phật tử, nhưng nghe một nhà truyền đạo Công giáo chuyên môn giảng kinh, nên bộ Tân Ước đã củng cố những lập luận sau này của tôi rất nhiều. Quan trọng hơn hết, đó chính là kỷ niệm với một tu sĩ mà tôi kính trọng.

      Tháng 4-1985, Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài đã quá yếu. Có lẽ ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Tôi đập cửa kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn. Hai viên trụ sinh không đủ khả năng làm Cha Vàng tỉnh lại. Vào đúng lúc cả hai chúng tôi đều cảm nhận được mùa Giáng Sinh đã trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một nhà thờ dường như ở cách chúng tôi xa lắm vọng về trong đêm lạnh giá và u tịch. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời ngay trong xà lim số 6. Trước đó, dù yếu và bệnh, ngài đã bàn với tôi là làm sao có được bánh thánh lúc ngài làm lễ nửa đêm trong Noel 1985 mà con chiên duy nhất trước ngài lúc đó lại là một Phật tử như tôi.

      Nhưng mơ ước của Ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng sóng đỏ.

      Nhưng dù ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của tôi cho đến bây giờ, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải ngày nào bỗng bùng lên soi sáng cái không gian tăm tối của tất cả những xà lim đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.

      Vũ Ánh
      Oakland, CASun May 2, 2010 DHN

      Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

      Hiến pháp, chuyện của các luật sư?

      Nước ta chỉ mới tạm gọi là giành được độc lập từ sau thế chiến II, mà đã có khá nhiều hiến pháp. Phe cộng sản có bốn hiến pháp : hiến pháp 1946, hiến pháp 1959, hiến pháp 1980 và hiến pháp 1992. Phe quốc gia dù chỉ tồn tại chưa đầy 30 năm cũng đã có hai bản hiến pháp 1956 và 1967. Đó là chưa kể những bản tuyên ngôn, hiến ước, hiến chương được dùng như những hiến pháp tạm thời. Nếu so với nhiều quốc gia khác như Mỹ chỉ có một hiến pháp từ thời lập quốc, Đức và Nhật chỉ có một hiến pháp từ 1945, hoặc Anh chẳng có một hiến pháp thành văn nào thì chúng ta quả là giữ một kỷ lục về số lượng hiến pháp. Thú thực, tôi không biết có một dân tộc nào trên thế giới có một lượng hiến pháp bằng nước ta trong cùng một giai đoạn không. Tôi chắc là không.

      Tuy vậy số lượng hiến pháp không hề chứng tỏ người Việt Nam chúng ta trăn trở về hiến pháp, luôn luôn dằn vặt suy nghĩ tìm cách thay đổi cho phù hợp hơn, trái lại nó còn chứng tỏ người Việt Nam không có một quan điểm đúng đắn về hiến pháp. Đặc tính chung của tất cả mọi bản hiến pháp đã có là chúng đều đã được soạn thảo một cách vội vã và kín đáo, được thông qua hầu như không tranh cãi và được ban hành trước sự dửng dưng của dân chúng.

      Đảng cộng sản hiển nhiên là coi hiến pháp là của người cầm quyền. Hiến pháp là văn kiện tổ chức nhà nước, mà nhà nước theo triết học Mác-Lênin chỉ giản dị là công cụ đàn áp của kẻ thống trị. Lời nói đầu của hiến pháp 1992 gồm 530 chữ trong đó có 53 chữ, nghĩa là đúng 10%, được dành cho "hơn bốn ngàn năm lịch sử" của Việt Nam, phần còn lại chỉ nói về đảng cộng sản. Chưa đủ, lời nói đầu, phần long trọng nhất của hiến pháp, còn qui chiếu về cương lĩnh chính trị của đại hội lần thứ sáu của đảng cộng sản, một văn kiện chỉ có giá trị giai đoạn ngay cả với đảng cộng sản. Bản chất của hiến pháp như là một công cụ đàn áp được thể hiện rõ ràng qua những điều đầy tính hăm dọa, thí dụ như điều 13.

      Thế còn những người Việt Nam nói chung? Phần đông chúng ta cũng có một quan niệm rất sai lầm về hiến pháp. Hình như đối với chúng ta hiến pháp chỉ là một văn kiện tổ chức chính quyền có tính chuyên môn và thuộc thẩm quyền của các luật sư. Ngược lại, phần lớn các luật sư cũng tự coi là có thẩm quyền để nói về hiến pháp hơn người khác, mà không hiểu tại sao.

      Trí thức trung niên và cao niên của ta thừa hưởng văn hóa Pháp, từ đó, một cách phiến diện, coi hiến pháp nằm trong phạm vi luật học, một lẫn lộn mà chính các học giả Pháp cũng đã nhìn nhận. Thực ra hiến pháp tuy là luật căn bản của quốc gia và là cội nguồn của luật pháp nhưng không nằm trong phạm vi luật học mà thuộc phạm vi văn hóa, chính trị và xã hội. Một luật sư dù có khả năng biện hộ tài tình những vụ kiện cáo nhà đất và ly dị vẫn có thể không có tư cách gì để bàn về hiến pháp. Luật phải qui chiếu vào hiến pháp nhưng hiến pháp không thuộc phạm vi của luật học. Các chuyên gia về hiến pháp của Pháp cũng đã nhận ra sự mập mờ của cụm từ "droit constitutionnel" được dịch sang tiếng Việt là "luật hiến pháp" và càng ngày càng dùng cụm từ "định chế chính trị" [institutions politiques] nhiều hơn. Cụm từ này tuy đúng nghĩa hơn nhiều, nhưng cũng chưa đúng hẳn.

      Vậy thì hiến pháp là gì?


      Nó đúng là văn kiện qui định những định chế chính trị, nhưng đồng thời nó cũng đặt nguyên tắc, nếu không qui định một cách rõ rệt, cho tương quan giữa các thành tố của xã hội, cũng như cho nhiều định chế văn hóa, xã hội khác cần thiết cho sự sống và tiến hóa của cộng đồng quốc gia. Như vậy, muốn nói tới hiến pháp, trước hết phải có một quan niệm về quốc gia đã. Trong một chương trước chúng ta nhận định quốc gia như không gian liên đới của một dân tộc để cho phép họ sống chung và xây dựng với nhau một tương lai chung. Như vậy hiến pháp phải là một thỏa ước về một hiện tại và một tương lai. Trong hiện tại chúng ta đang thừa hưởng di sản nào, đang có những vấn đề nào và phải tổ chức cộng đồng quốc gia như thế nào cho phù hợp? Chúng ta đang đứng trước những nguy cơ nào và phải tổ chức như thế nào để ngăn ngừa? Và với tất cả khả năng và tiềm năng của chúng ta, chúng ta muốn một tương lai như thế nào và phải tổ chức cố gắng chung như thế nào để đạt tới?

      Tất cả những câu hỏi đó hiến pháp phải trả lời và những người có thẩm quyền để đề nghị những câu trả lời là những người đã trải qua nhiều trăn trở và suy tư về đất nước và có đủ sự hiểu biết để có thể đưa ra những kết luận. Đó là những nhà chính trị, những nhà xã hội học, những nhà tư tưởng với những đóng góp của các chuyên gia mọi ngành, trong đó luật học chỉ là một.

      Vì là một qui ước sống chung và làm việc chung, hiến pháp phải có sức thuyết phục, nghĩa là vừa phải hợp lý vừa phải hợp tình để được mọi người, ngay cả những người không đồng ý, nhìn nhận tính chính đáng, lương thiện và thành khẩn. Nó cũng phải có khả năng động viên và thôi thúc, nghĩa là cũng phải có giá trị của một lời kêu gọi.

      Hiến pháp có thực sự cần thiết không?

      Câu hỏi có vẻ khiêu khích nhưng câu trả lời là không. Vai trò của nó là phát biểu một đồng thuận sống chung và theo đuổi những mục đích chung, nếu đồng thuận đã rõ ràng thì hiến pháp không cần thiết, quốc gia có thể sinh hoạt chỉ bằng những đạo luật đặc biệt. Nước Anh không có hiến pháp mà vẫn là một quốc gia rất phồn vinh. Không cần thiết trên nguyên tắc nhưng hiến pháp có lợi về mặt thực tiễn bởi vì nó vạch ra một tinh thần chỉ đạo cho các đạo luật. Trong trường hợp Việt Nam, giữa lúc lòng người hoang mang và phân tán, chúng ta cần một hiến pháp để làm một căn bản đồng thuận, nhưng với điều kiện là hiến pháp đó thực sự là kết quả của một cố gắng tìm đồng thuận dân tộc.

      Hiến pháp có cần ổn vững không?

      Câu trả lời là chắc chắn cần. Thay đổi hiến pháp là thay đổi luật chơi cơ bản nhất của xã hội, có thể gây xáo trộn trong sinh hoạt quốc gia và làm đổ vỡ nhiều dự án. Kinh nghiệm đã cho thấy một hiến pháp dân chủ ổn vững là điều kiện không có không được cho phát triển, bởi vì có như thế người dân mới yên tâm làm những dự định cho tương lai. Cần nhấn mạnh cụm từ “hiến pháp dân chủ ổn vững” bởi vì nếu hiến pháp chỉ là sự áp đặt của kẻ thắng, nhất là lại chứa đựng những qui định khiêu khích thì, ngược lại, càng kéo dài bao lâu nó càng gây tác hại và làm rạn nứt dân tộc bấy nhiêu.

      Sự ổn vững của hiến pháp rất cần thiết, cho nên ưu tư lớn nhất của người soạn thảo hiến pháp phải là làm thế nào để nếu một lực lượng khác lên cầm quyền họ cũng không có lý do để đổi hiến pháp. Việc một lực lượng chính trị cầm quyền áp đặt hiến pháp theo ý mình vừa là một thái độ xấc xược vừa chứng tỏ sự thấp kém của những người không có tham vọng để lại dấu ấn lâu dài. Quan sát các quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể thấy là hầu như có một định luật là các nước càng ít thay đổi hiến pháp thì càng phát triển, càng nhiều hiến pháp bao nhiêu thì càng trì trệ bấy nhiêu. Sự phồn vinh tỷ lệ nghịch với số lượng hiến pháp được ban hành.

      Nhưng ổn vững không có nghĩa là bất động. Hiến pháp phải đáp ứng những yêu cầu lớn của giai đoạn và do đó cũng phải có khả năng thích nghi với thời đại. Không nên tu chỉnh hiến pháp một cách tùy tiện, nhưng ngược lại cũng không nên khóa chặt cánh cửa đối với những tu chỉnh cần thiết, và càng không nên đưa vào hiến pháp những gì chỉ có giá trị nhất thời và vì thế có thể qui định bằng một đạo luật thường. Một trường hợp điển hình là hiến pháp Bồ Đào Nha [Portugal] ban hành năm 1976. Vào lúc đó Portugal vừa trải qua ba mươi năm dưới chế đô độc tài Salazar, quan tâm chính của các nhà lập pháp Portugal là làm thế nào ngăn chặn mọi khả năng trở lại của một chế độ độc tài. Họ đã chọn chế độ đại nghị, đó là một chọn lựa đúng. Họ cũng chọn cách bầu cử quốc hội theo lối bầu tỷ lệ. Quả nhiên lối bầu theo tỷ lệ là thể thức bầu cử dân chủ và đa nguyên nhất. Nhưng họ đã làm một sai lầm lớn do nhiệt tình quá đáng là ghi ngay vào hiến pháp một điều khoản cấm thay đổi cách đầu phiếu này (và dĩ nhiên cả điều khoản cấm thay đổi). Ngày nay chính giới Portugal nhận ra sự bất lợi của lối bầu cử theo tỷ lệ nhưng không thay đổi được. Nước Portugal vì vậy luôn luôn bị đặt trước nguy cơ là không có nổi một đa số gắn bó trong quốc hội, và do đó một chính phủ đủ vững mạnh, để lấy những quyết định quan trọng.

      Hiến pháp có phải là đặc biệt cho một quốc gia không?

      Câu trả lời là vừa có vừa không.

      Có, bởi vì mỗi dân tộc có một di sản văn hóa riêng với những cái hay và những cái dở và một lịch sử riêng với những yếu tố tích cực và những yếu tố tiêu cực. Do đó mỗi dân tộc có những vấn đề trọng đại riêng phải giải quyết. Hiến pháp phản ánh đặc thù dân tộc.

      Không, bởi vì quốc gia nào cũng phải hội nhập vào đà tiến chung của thế giới và vì thế không thể phủ nhận luật pháp quốc tế và các giá trị phổ cập của loài người. Nhiều quốc gia đã long trọng xác nhận Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế NhânQuyền và các công ước đính kèm như là thành phần của hiến pháp của mình. Đó là một chọn lựa rất đúng đắn.

      Chúng ta có cần một hiến pháp mới cho Việt Nam không?

      Câu trả lời không hiển nhiên như nhiều người có thể nghĩ. Cho tới nay có một sự kiện khá ngộ nghĩnh. Phần lớn các thành phần đối lập, kể cả các tổ chức chống cộng hải ngoại từng chủ trương kháng chiến võ trang, đều lên tiếng đòi bỏ điều 4 (điều qui định đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo xã hội và nhà nước). Chỉ có thế thôi sao? Thế còn điều 9, điều 13, điều 30, điều 45, v.v...? Và còn danh xưng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam? Và lời nói đầu dành 90% để nói về công đức của đảng cộng sản? Chỉ đòi bỏ điều 4 là một thái độ quá khiêm tốn, ngay cả cho một giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ vì còn rất nhiều điều khoản khác cũng quá khích không kém và nếu được duy trì sẽ có thể bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa. Thí dụ như điều 45 qui định quân đội phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Quí vị trong một chính phủ chuyển tiếp (giả thử như sẽ có) phải coi chừng, quí vị có thể bị quân đội đảo chính một cách rất hợp hiến ! Sự kiện điệp khúc "bỏ điều 4" được lặp đi lặp lại trong các nghị quyết, kháng thư, tuyên ngôn... chứng tỏ phần lớn các tổ chức không quan tâm đến hiến pháp và không đọc hiến pháp, như đại đa số người Việt Nam từ trước đến nay.

      Để chuyển hóa về dân chủ thì ngay giai đoạn chuyển tiếp, không phải chỉ một điều 4, mà còn nhiều điều khác cần được vô hiệu hóa. Công việc sẽ quá phức tạp vì phải rà soát lại toàn bộ hiến pháp? Không hẳn như vậy, chúng ta có thể chỉ cần một nghị quyết, do quốc hội đương hành biểu quyết hoặc do một trưng cầu dân ý, tuyên bố vô hiệu hóa mọi qui chiếu của hiến pháp về bất cứ một tổ chức, một chủ nghĩa hay một nhân vật nào. Tất cả vấn đề là thiện chí, nếu thực sự có ý chí dân chủ hóa thì không có vấn đề nào không giải quyết được.

      Rồi sau đó? Chúng ta có thể đồng ý soạn thảo lại một bản hiến pháp mới hoặc sửa đổi hiến pháp hiện thời. Nhưng dù chọn giải pháp tu chính đi nữa thì cũng phải thay lời nói đầu, sửa đổi các điều khoản nói về đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin, Mặt Trận Tổ Quốc, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, và nhiều điều khoản về tổ chức nhà nước, v.v... Nói khác đi, dù là tu chính đi nữa, trên thực tế vẫn là một hiến pháp hoàn toàn mới về nội dung.

      Chúng ta sẽ cho hiến pháp này nội dung nào?

      Như đã nói, hiến pháp phải đáp ứng những đòi hỏi trọng đại của hiện tại và cũng phải phù hợp với xã hội tương lai mà chúng ta muốn đạt tới. Trong hiện tại ["hiện tại" có nghĩa là khi chế độ dân chủ chính thức được thành lập], ba ưu tư chính của chúng ta là bảo đảm một bối cảnh chính trị ổn vững, ngăn chặn sự trở lại của một chế độ độc tài dưới bất cứ hình thức nào và thực hiện hòa giải dân tộc. Trong tương lai, chúng ta muốn một nước Việt Nam hội nhập vào đà tiến chung của thế giới, một nước Việt Nam phát triển nhanh để bắt kịp sự chậm trễ so với các nước khác, một nước Việt Nam ngày càng thống nhất trong lòng người, một nước Việt Nam tản quyền để cho phép mỗi vùng được quản lý một cách phù hợp với điều kiện riêng của mình và phát huy được tối đa các ưu điểm của mình. Chúng ta cũng muốn một xã hội đa nguyên trong đó mọi sắc tộc và mọi tín ngưỡng được thỏa mãn những khát vọng chính đáng.

      Nếu những mục tiêu trên được chấp nhận thì một cách thực tế hiến pháp tương lai có thể gồm :

      1. Một lời nói đầu, được coi là có giá trị pháp lý cao nhất, trong đó các mục tiêu trên được nêu ra, với ít nhất những khẳng định sau đây :

      - Việt Nam coi bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và mọi công ước liên hệ, cùng với những tu chính sau này của chúng, là thành phần tạo thành và khắng khít của hiến pháp Việt Nam (khẳng định này nhắm mục đích cho phép Việt Nam đi cùng nhịp với tiến bộ của thế giới).

      - Trong nước Việt Nam không có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không có những đề tài cấm bàn đến (khẳng định này lấy tự do và sáng kiến làm sức mạnh dựng nước).

      - Xã hội Việt Nam được xây dựng trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc (hòa giải và hòa hợp không những là nhu cầu cấp bách của đất nước hiện nay mà còn là một triết lý chính trị mới trên thế giới).

      2. Các điều khoản về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Các điều khoản này không cần đi vào chi tiết vì những quyền công dân phần lớn đã nằm trong bản TuyênNgôn Quốc Tế Nhân Quyền và các công ước liên hệ, mặt khác nên theo tinh thần thực nghiệm, nghĩa là bổ túc dần dần hiến pháp, biến hiến pháp thành một suy tư thường trực trong quốc gia.

      3. Các điều khoản về tổ chức nhà nước, trong đó qui định :

      - Lãnh thổ Việt Nam thống nhất trong sự kết hợp các vùng. Chính quyền trung ương giữ độc quyền về quốc phòng, ngoại giao và tiền tệ. Mỗi vùng được có chính quyền riêng do dân chúng bầu ra. Các chính quyền vùng không được có quân đội và tiền tệ riêng, không được ký kết những hiệp ước với nước ngoài và với các vùng khác, không được làm chủ các cơ sở có mục đích kinh doanh. Chi tiết về biên giới các vùng và cách tổ chức chính quyền vùng sẽ do một đạo luật riêng do quốc hội biểu quyết.

      - Chính quyền trung ương gồm một quốc hội trong đó không dưới 80% đại biểu được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, phần còn lại bầu theo tỷ lệ, một thượng viện mà vai trò chính là đại diện cho các vùng, trong đó mỗi vùng có một số thượng nghị sĩ bằng nhau; một tổng thống, hay chủ tịch nước, do quốc hội và thượng viện bầu ra với vai trò chủ trì những nghi lễ và bảo đảm sự liên tục, ổn vững và đoàn kết quốc gia; một chính phủ gồm một thủ tướng do quốc hội bầu ra và những bộ trưởng do thủ tướng chỉ định; và một tòa án tối cao có quyền phán quyết tính hợp hiến của các đạo luật do quốc hội biểu quyết và các nghị định của chính phủ, trọng tài các tranh tụng giữa những cơ quan quyền lực, xét xử các cấp lãnh đạo cấp cao, và xét lại các phán quyết của các tòa án trung ương cũng như địa phương.

      - Mỗi vùng sẽ có một nghị viện riêng và một chính quyền vùng do nghị viện vùng bầu ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.

      - Các chính đảng được nhìn nhận là có vai trò quan trọng trong sinh hoạt quốc gia và được tài trợ theo luật pháp.

      4. Một số điều khoản đặc biệt có mục đích nhấn mạnh mục tiêu dài hạn của quốc gia để thu hút sự chú ý của dân chúng, thí dụ như qui định chức năng của Việt Nam là một nước thương mại, công nghiệp và du lịch; Việt Nam vận động mọi cố gắng để chung sống trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với các quốc gia khác, đóng góp củng cố hòa bình trong vùng và trên thế giới; trách nhiệm đặc biệt trọng đại của mọi công dân Việt Nam là gìn giữ và không ngừng cải thiện môi trường sinh sống, không khí, cây rừng, bờ biển, lãnh hải và thềm lục địa.

      Hiến pháp chỉ dừng lại ở những nguyên tắc và tinh thần chỉ đạo; những chi tiết cụ thể, có thể rất quan trọng, như việc qui định các đơn vị bầu cử, tổ chức chính quyền địa phương, số lượng và thể thức chỉ định các thẩm phán tòa án tối cao, số lượng và thể thức bầu cử các thượng nghị sĩ, v.v... do các đạo luật đặc biệt.

      Về mặt kỹ thuật, hiến pháp chỉ có một bó buộc chính là đừng có mâu thuẫn giữa các điều khoản. Điều này các luật gia có thể đóng góp, nhưng thực ra chỉ đòi hỏi ở người soạn thảo một khả năng lô-gích vừa phải.

      Một lời sau cùng về hiến pháp: hiến pháp là hợp đồng về một dự án sống chung và xây dựng một tương lai chung; dự án ấy có thể đòi hỏi nhiều suy tư trong nhiều năm của rất nhiều người, nhưng một khi chúng ta đã biết mình muốn gì, cho mình và cho con cháu, việc soạn thảo thành văn bản có thể chỉ đòi hỏi vài ngày.



      Nguyễn Gia Kiểng
      (trích Tổ Quốc Ăn Năn)

      Facebook Digg Stumbleupon Favorites More