Hà Sĩ Phu
- Hà Sĩ Phu: Chia tay ý thức hệ - Phần 1
- Hà Sĩ Phu: Chia tay ý thức hệ - Phần 2
- Hà Sĩ Phu: Chia tay ý thức hệ - Phần 3
- Hà Sĩ Phu: Chia tay ý thức hệ - Phần kết
- Suy nghĩ về tính cách Việt Nam (Đôi điều suiy nghĩ của một công dân - Hà Sĩ Phu)
Lời Mở Đầu
Kỷ nguyên Văn minh Tin học chẳng đem lại một cuộc canh tân tuyệt vời về thông tin và điều khiển, một thị trường năng động toàn cầu, một trào lưu dân chủ đa nguyên, một chủ nghĩa quốc tế mới nhân bản và khoa học... mà bao trùm lên hết thảy là ánh sáng của một phương pháp tư duy mới tương xứng với thời đại. Nhưng cùng với một nền Nhân văn mới thì một cục diện đấu tranh sinh tồn mới và một phản lực thú hóa mới cũng bắt đầu. Một sự đảo lộn ghê gớm với cả mặt phải, mặt trái. Và từ cả hai mặt đều cần một hệ tư duy mới để ứng xử, để thích nghi. xã hội chẳng may bị lịch sử buộc chặt vào khuôn vàng thước ngọc của quốc giáo, ý thức hệ, thì về lý luận đang đùng trước một cuộc khủng hoảng sinh tử về phương pháp luận, và về thực tiễn đang đứng trước một cuộc đấu tranh về phương pháp ứng xử để tìm lối ra
Để giữ yên cái ghế thống trị của mình, giới tăng lữ hoặc lãnh tụ của các nước ấy một mặt cố sức trói buộc xã hội ở tình trạng ngu dân bằng phương pháp tư tưởng cũ và nhất là đạo đức cũ dưới bàn tay bảo trợ của bạo lực, nhưng một mặt họ cũng như tất cả mọi người, đang lao như điên vào cuộc "đổi mới" kinh tế và ngoại giao mà thực chất là cuộc đấu tranh sinh tồn để mau chóng thích nghi, để khỏi phải bị gạt ra bên lề dòng chảy. Miệng nói một đằng tay làm một nẻo. Chẳng cần thông minh gì lắm cũng nhận ra rằng "sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, dưới ánh sáng Mác-Lê và tư tưởng Hồ chí Minh, làm kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa" chính là một ví dụ điển hình của cái cục diện xã hội ấy.
Ở nước ta, hệ tư tưởng Mác xít cũng không khác gì một quốc giáo thực
chất chỉ là biến tướng của tư tưởng phong kiến. Nhân dân mang tiếng là
người làm chủ xã hội, nhưng không được biết gì về sự thật to lớn ấy; ai
nói sự thật ấy là làm lộ bí mật quốc gia. Người dân không có thông tin
ắt không hiểu vì sao giữa lúc bộ mặt đất nước đang rạng rỡ chưa từng có,
(như vẫn hiện ra trên mọi phương tiện truyền thông nhà nước) thì Ông
Cộng sản Ba-Son Nguyễn Hộ, cả nhà và cả đời làm Cộng sản, đã từng sát
cánh với các ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, lại quyết ly khai Đảng vì
đã "chọn nhầm lý tưởng" ; không hiểu vì sao ông Cộng sản trí thức Ba-Lê
Nguyễn Khắc Viện, người đã rời nước Pháp hoa lệ để theo cụ Hồ về nước
kháng chiến, bỗng dưng lại kêu lên "Hãy bước vào cuộc kháng chiến mới"!
Tiếng kêu chìm nghỉm như tiếng sỏi rơi xuống ao tù lạnh tanh.
Cuộc kháng chiến nào? Mỉa mai thay cho người Cộng sản bảy tám mươi
tuổi gần đất xa trời ấy phải chống gậy bước vào "cuộc kháng chiến từ bỏ ý
thức hệ". Nhưng khốn thay, ý thức hệ đang trói buộc ta ấy không phải từ
trên trời rơi xuống, lúc đầu không do ai áp đặt. Nó là sản phẩm lịch sử
của nhân loại trong cơn Khủng hoảng tăng tốc (thế kỷ 18-19) của con tàu
Văn Minh. Về lý luận, nó không là gì cả (sẽ phân tích sau), nhưng về
thực tiễn nó đã là người mang "thông điệp Giải phóng" của Nhân dân. Hơn
thế nó đã luyện khát vọng và sức mạnh của Nhân dân thành chiếc gậy thần
của Tôn Ngộ Không, giáng vào mặt bọn vua chúa Tư bản, và dạy cho chúng
(cũng là dạy cho cả nhân loại) biết rằng: không thể hướng sức mạnh của
nền văn minh mới để phục vụ cho mưu đồ cá nhân, hòng thiết kế ngai vàng
mới trên đầu nhân loại! Và dẫu còn điều này điều khác thì vai trò lịch
sử ấy của trào lưu Cộng sản mãi mãi vẫn được ghi nhận. Và cùng với hiệp
sĩ ấy, nhân dân ta đã có ngày sống đẹp thanh khiết như thần tiên. Và
phải nhận rằng Người anh hùng áo vải này đã ôm trong vòng tay của mình
cả mấy thế hệ người Việt nam tử tế, rất tử tế, số đông đến hôm nay vẫn
còn tử tế và tội nghiệp!. Bi kịch là: sứ giả mang "thông điệp giải
phóng" ấy lại lên ngôi báu. Ở ngôi báu ấy anh đã phản lại chính thông
điệp này. Trừ một số tồi tệ ma quái ra, nhìn chung sự phản bội lúc đầu
không tự ý thức. Bởi tất cả đã được chương trình hóa ở trong cẩm nang,
mà chính người viết cẩm nang thì cũng không vượt ra khỏi được sự chương
trình hóa của thời đại. Chỉ có cái khát vọng là vượt bay lên phía trước.
Theo điều tôi nhận thức được thì bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về
xã hội là dòng tư tưởng Phong kiến phục hưng cộng với ảo tưởng Cộng sản
nguyên thủy (hoặc ảo tưởng Nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền
Văn minh Công nghiệp.
Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là cái
hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới của cái mốt công nghiệp
của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua trước đây nhiều thế kỷ.
Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính súc tích huyền bí đến
mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là dự đoán lẩm cẩm
không bao giờ có thực trên đời. Một hệ tư tưởng như thế, trong thế giới
Văn minh Tin học chẳng cần ai đánh cũng tự tan rã.
Về mặt hệ tư tưởng mà nói, chủ nghĩa Mác-Lê đang rút chạy ra khỏi đời
sống xã hội, Đảng Cộng sản vẫn còn đó, nhưng cái hồn Mác-Lê cứ từng
bước rút chạy khỏi Đảng viên của mình. Có hương khói, chiêng trống thanh
la gọi hồn cũng không ích gì. Chủ nghĩa Mác-Lê suy tàn, chạy về cố thủ ở
vùng còn ít ánh sáng dân chủ, nơi mà tư tưởng phong kiến vẫn cứ sống
lai rai trong núi rừng châu Á hết đời nọ sang đời kia. Trong cuộc sống
lưu vong này của chủ nghĩa Mác-Lê (vì quê hương của chủ nghĩa ấy không
dung nạp nó nữa), nó đã mất tư cách là ngọn cờ để tuyên chiến với cái
gọi là Chủ nghĩa Tư bản giẫy chết, mà được dùng như một thuật trị dân,
một công cụ để trị dân. Từ một chủ nghĩa Quốc tế nó thu dần về thành một
thể chế Quốc gia, mang tính quốc nội là chính. Nó trút bỏ tính mục đích
mà nhận lấy làm tính phương tiện.
Chẳng là phương tiện để trị dân, nó chuyển sang làm phương tiện chở
những người Vô sản cầm quyền vào cõi Tư bản, phản lại mục đích tự thân
ban đầu của nó. Giai cấp cần lao không sớm ý thức được điều này thì sẽ
đắm đuối như kẻ bị phụ tình, bơ vơ trước hang hùm nọc rắn của một thế
giới cạnh tranh như điên của Tư bản buổi đầu tích lũy, nhất là khi thế
hệ người Cộng sản khởi lập không còn nữa. Sự lộn ngược tình thế như vậy
mới thực là một cuộc "diễn biến hòa bình" vĩ đại, nó "lật đổ" hết thảy
một cách êm đềm. Sự thể của lịch sử đã như thế thì chút lòng thương
người của cái chủ nghĩa đạo đức liệu sẽ xoay chuyển được gì, hay chỉ là
sự vỗ về, là liều ma túy, là tấm màn che cho cuộc diễn biến hòa bình
kia, cho cuộc phụ tình vĩ đại kia được muôn phần êm thấm, và để lại sau
nó cả một khoảng trống ghê rợn?... Che đậy điều ấy là bất nhân. Không
nhận thức tới nơi, không có phút dừng... để nghe thêm điều khác với báo,
với đài..., để sống với cái gì đó xa hơn, lớn hơn cuộc sống cá nhân
trước mắt thì người trí thức, cán bộ, đảng viên... chúng ta bây giờ khó
có thể tìm cho mình một phép ứng xử đàng hoàng, đẹp đẽ trước cuộc chia
tay ý thức hệ lịch sử này.
Dầu cho bạn chưa hài lòng với lời nói của tôi... Nhưng sự đời, cái gì
phải đến cứ đến, bịn rịn nữa cũng không được.Đánh xong giặc Ấn, thánh
Gióng phải lên trời, Gióng ở lại Gióng sẽ gây tội ác, và ta sẽ mất thánh
Gióng. Tôn Ngộ Không của Ngô Thừa Ấn "nhân bản" hơn Tôn Ngộ Không của
Mác, dạy xong bài học cho các vua chúa và thánh thần, Ngộ Không không
tiếp tục múa cây thiết bảng để đập vào đầu đàn khỉ của mình ở Hoa quả
sơn, để thiết lập ở đấy một thiên đường nhất khoảnh. Tôi, chúng ta, các
anh các chị... Chúng ta vẫn sống với nhau hòa thuận. Chỉ cái ý thức hệ
của chúng ta chắc chắn phải ra đi, đang ra đi rồi. Đây là cuộc chia tay
bi tráng. Bậc anh hùng hãy chọn cái một thứ bi kịch của nhận thức, bi
kịch của khát vọng nhân văn, bi kịch trong tự tôn nhân phẩm! Bi kịch
trong sự trưởng thành, biểu hiện của trưởng thành, mở đầu cho trưởng
thành!
Trào lưu Cộng sản đã xuất hiện như một tất yếu lịch sử và vô cùng
chính đáng, nhưng phải nhận rằng đó chỉ là một nấc thang văn hóa thấp
của tiến trình đấu tranh bất tận cho Quyền Con Người muốn tìm lối ra lại
phải bắt đầu bằng cái nhìn văn hóa, ở tầm văn hóa cao hơn. Nếu đủ tầm
văn hóa, chúng ta sẽ làm cho Ý thức hệ ấy một dấu son để lại. Bằng
không, nếu chúng ta không đủ tầm văn hóa, Ý thức hệ sẽ được chia tay
trong uất hận, hoặc ngược lại, cứ len lén rút lui khỏi lịch sử không một
lời tuyên bố như một kẻ khôn vặt hay một tên đại bịp nào đó ra đi,
không trống không kèn, để lại trên non nước này một món nợ. Tôi là người
Việt nam, tôi không muốn cái lịch sử Tiên Rồng lắm thông minh và nhiều
quằn quại này của chúng ta, giữa vận hội hôm nay lại chọn cách "hóa
rồng" lươn lẹo đó.
Triết Học Mác-Lê: Khủng Hoảng Phương Pháp Luận
Trước cảnh đổ vỡ ý thức hệ, một số nhà lý luận Mác xít thức thời nhất
đã chịu lùi tới cỡ này. Cứ cho mọi điều đã nói là sai hết đi, thì
Mác-Lê vẫn còn để lại cho nhân loại một tài sản tư tưởng vô giá là
phương pháp luận Mácxít-Lêninít. Tôi thấy nên nhận thức lại rằng: Cứ cho
mọi điều Mác-Lê đã nói là đúng hết đi (để khỏi cần kiểm tra) thì vẫn
còn một sai lầm không thể chối cãi là sai lầm về phương pháp luận!
(Trước khi trình bày nội dung tôi xin phép được lưu ý người đọc mấy
điểm:
- Việc phân tích Mác-Lênin của tôi dù triệt để đến đâu cũng không
nhằm mục đích "đánh đổ" Mác-Lênin, vì tôi hiểu trên nhận thức toàn nhân
loại thì Mác-Lê là cái đã đổ rồi. Vả lại lý luận mà lúc nào cũng nhằm để
"phục vụ chính trị" thì không còn tỉnh táo để thấy quy luật khách quan,
lý luận ấy có thể phục vụ một "sự nghiệp" chính trị nào đó rất đắc lực
nhưng dùng xong người ta vứt nó đi. Bởi vậy việc phân tích Mác-Lê hoặc
phân tích Khổng Mạnh hay các tôn giáo ở đây chỉ nhằm lấy cái điểm tựa để
trình bày tư duy mới.
Vì mục đích ấy, chưa cần tách bạch Mác với Ắng-ghen, Lênin, Xtalin...
hay người khác, khi ta đã biết tất cả vẫn thuộc một dòng, và sự chuyển
hóa từ người nọ sang người kia, về cả điều kế thừa và sai biệt, đều là
hệ quả tất yếu của cái gốc ban đầu. Mặt khác do tính không nhất quán
trong hệ lý luận Mác xít nên khi khảo sát một nguyên lý cũng không cần,
và không nên động vào đó tất cả biện giải về sau thiên kinh vạn quyển,
xuôi ngược đủ màu, có tính chất chữa cháy, có khi chống lại chính nguyên
lý đó.
Các nhà lý luận Mác-xít thường cứng nhắc, không cho ai cựa quậy ra
ngoài khuôn mẫu, nhưng khi ở thế bị phê phán thì lại viện dẫn từ trong
chủ nghĩa của mình tính linh động mềm đến mức có thể uốn được. Chúng ta
sẵn sàng linh động nên chỉ xoay quanh cái gốc nguyên lý thôi. Nếu cái
nguyên lý cũng linh động nốt thì còn gì nữa mà lý luận. Trước hết, chúng
ta cần nhận biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Còn cái sai đúng ấy
thuộc về ai, đó là công việc các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng và
chính trị chuyên nghiệp.Tuy về nội dung, không tán thành thứ triết học
thực dụng nhưng trong cách trình bày, trừ phần Vật chất và ý thức vẫn
còn dài, nói chung tôi giữ cách viết vắn tắt: HỎI và ĐÁP.
* * *
Khi tìm quy luật khách quan, người khoa học không được định hướng
trước theo ý muốn của nhà chính trị. Nhưng khi nhận thức khách quan ấy
đã đi đến kết luận rồi, thì người khoa học cũng như mọi người khác hoàn
toàn có quyền ứng dụng kết luận khoa học ấy vào thực tế đời sống, trong
đó có đời sống chính trị, mà không sợ mâu thuẫn với tính khoa học khách
quan. Có làm được cả hai điều ấy hay không là tùy thuộc khả năng phân
thân của người khoa học. Tôi đã cố gắng và tự tin vào khả năng phân thân
ấy của mình, còn kết quả đến đâu xin người đọc phân xét. Trước hết hãy
đẩy nhận thức tới tận cùng xem chân lý ra sao, chân lý không thể uốn.
Sau đó ứng xử với thực tế thế nào lại là chuyện mềm dẻo. Không sợ nhận
thức rành mạch thì thái độ sẽ cực đoan. Trái lại có hiểu thấu đáo mới
tránh được cực đoan và tùy tiện. Mục đích bài viết của tôi trước hết là
trình bày nhận thức. Mong muốn dùng nhận thức ấy để làm tốt xã hội trước
mắt lại là chuyện sau. Nếu chỉ nhằm mục tiêu thực tế trước mắt ấy thì
không ai dại dột đi theo con đường dài dòng từ "vật chất và ý thức" trở
đi làm gì cho mất thì giờ vô ích. Con đường kinh tế và chính trị nhanh
gọn hơn nhiều!)
HỎI: Nên đánh giá khái quát thế nào về phương pháp luận Mác xít?
ĐÁP: So với dòng triết học Duy tâm và Siêu hình trước đây thì quan
điểm Duy vật Biện chứng hiển nhiên là hướng triết học tiến bộ xét cả về
tính khoa học, tính nhân bản và tính thực tiễn. Trong đó đâu là phần Mác
kế thừa, đâu là phần Mác sáng tạo, đâu là điểm thống nhất và sai biệt
giữa Mác và Ắng-ghen... đều đã được nghiên cứu khá đầy đủ.
Điều cần nói là: Ngay trong cái gốc Duy vật và Biện chứng Mácxít rất
tiến bộ ấy đã có kẽ hở mang màu sắc phân tích cực đoan, duy tâm chủ
quan, tách rời, máy móc, mà quan niệm "vật chất và ý thức" là một ví dụ
điển hình. Càng đem vận dụng thì cái khiếm khuyết ấy cứ lớn mãi ra, từ
chỗ tưởng như vô hại đến chỗ trở nên trầm trọng không cứu vãn được n"a.
Cái tiến bộ khi xưa, nay không còn là tiến bộ. Người đầu tiên chịu tác
hại của khiếm khuyết ấy chính là Mác và Ắng-ghen, khi các ông phát triển
tinh thần và biện chứng của mình vào xã hội để hình thành nên phương
pháp luận duy vật lịch sử. Có thể nói Duy vật lịch sử đã phản lại duy
vật biện chứng. Duy vật biện chứng về cơ bản là tích cực, duy vật lịch
sử về cơ bản là tiêu cực.
Trên đà trượt ấy, người Mác xít về sau đã rơi tuột vào một cõi vừa
duy tâm giáo điều vừa duy vật thực dụng, lại mang thêm hội chứng thần
kinh phân lập và phát xít. Càng về sau triết học Mác xít càng chìm sâu
vào con đường chính trị hóa, đại chúng hóa và tôn giáo hóa. Tha hóa đến
mức không còn là triết học. Về mặt chính trị thì chủ nghĩa Mác đã chịu
các quá trình Lênin hóa, Xtalin hóa, Mao hóa... và Việt Nam hóa nữa. Một
nhà Mác-học than phiền với tôi rằng chỉ tại người ta không trung thành
với lý thuyết của Mác. Tôi nói: Ngay cả Mác cũng không thể trung thành
với một lý thuyết như thế. Lý thuyết ấy như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn
thẩn, chắc chắn sẽ được người ta vồ lấy và sau đó tất yếu là sự phản
bội.
HỎI: Nghĩ gì về phạm trù "vật chất và ý thức"?
ĐÁP: Đây là vấn đề cơ bản của triết học mà các triết gia vẫn dùng để
phân biệt triết học duy vật với triết học duy tâm. Các triết gia Mác xít
cho mình là đúng khi khẳng định Vật chất là "cái có trước", ý thức là
"cái có sau". Vật chất "quyết định" ý thức. Vật chất "phản ánh" vào ý
thức, sau đó ý thức tác động trở lại vào thế giới vật chất...v ...v.
Triết học ngày nay còn phải thảo luận tiếp tục về quan niệm này. Quan
niệm ấy rõ ràng vẽ ra hai thế giới. Càng "phản ánh" vào nhau, càng "tác
động" vào nhau mãnh liệt bao nhiêu, cái thế giới "thứ nhất" càng "quyết
định" cái thế giới "thứ hai" bao nhiêu thì điều ấy càng khẳng định đó là
hai chứ không phải là một! Tin vào sự tồn tại vững chắc của cái cặp vật
chất và ý thức ấy, các ông đã dùng cái này làm chỗ tựa để định nghĩa
cái kia một cách lẩn quẩn: "ý thức của con người là cái tồn tại (tức vật
chất) được ý thức, còn cái vật chất (tức tồn tại) kia thì chính là cái
thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh...".
Như vậy, nói cho dễ hiểu thì ý thức là cái vật chất đã được phản ánh
vào trong đầu óc con người, còn vật chất thì là cái tồn tại bên ngoài mà
ý thức đã phản ánh. Sự phản ánh ấy ngày càng tiệm cận với sự thật.Tinh
thần cơ bản của phản ánh luận Mác xít là vậy. Cứ song song như một người
thật và cái bóng của hắn ta trên tường. Bóng là cái hình của hắn in vào
tường, còn hắn thì là cái bản thể mà cái bóng kia phản ánh. Hắn ta có
trước, cái bóng có sau, hắn quyết định cái bóng của hắn...v.v... (chỉ có
điều khác là cái bóng ở đây là ý thức thì nó năng động, nó có thể vươn
ra khỏi tường và tu sửa lại hình dung của hắn ta). Phạm trù về cái cặp
vật chất và ý thức ấy bắt nguồn từ một ý niệm rất rành mạch nhưng rất sơ
khai khi ta phân biệt cái bên trong với cái bên ngoài, phân biệt cái ta
với cái khác ta, phân biệt con người có ý thức với cái thế giới vật
chất vô ý thức, phân biệt chủ thể nhận thức với đối tượng bị nhận thức,
phân biệt vật chất với tinh thần, phân biệt quy luật khách quan với ý
chí chủ quan.
Trong trực cảm, tất cả ranh giới ấy tồn tại hiển nhiên đến mức chẳng
cần bàn cãi, song thực ra tất cả ranh giới đó là vớ vẩn cả, khẽ nhích
vấn đề sang một bình diện khác lập tức ranh giới ấy biến mất. Nếu đã
hiểu thuộc tính quan trọng nhất của ý thức là tính "phản ánh" và tính
"tác động" thì phải biết rằng thuộc tính ấy là của vật chất nói chung,
biểu hiện ở tất cả mọi mức độ từ thấp lên cao. Cục sắt và thanh nam
châm, vật nọ phát tín hiệu và phản ánh vào vật kia và tác động trở lại
vào vật kia. Giữa phân tử ôxy và hydro cũng như vậy... chúng nhận thức
lẫn nhau và tác động lẫn nhau. Đã đành quan hệ ấy còn rất đơn giản nhưng
từ cái đơn giản ấy đến ý thức của con người đã có vô vàn mức độ tiến
hóa trung gian nối liền lại. Không thể tách ý thức của con người ra khỏi
khả năng "phản ánh" và "tác động" của thế giới vật chất nói chung.
Không phải đến con người thì cái "ý thức" thiêng liêng ấy mới đột nhiên
xuất hiện. Ý thức không phải là chuyện riêng của thế giới con người (nếu
mang nghĩa hẹp ấy thì nó chỉ tương ứng với quy mô xã hội thôi, sao có
thể đem đọ với quy mô vật chất được?)
Ý thức tinh thần chính là thuộc tính chung của thế giới vật chất.
Không thể có cái thứ vật chất không có tinh thần, cũng không có cái thứ
tinh thần ngoài vật chất: Tách thành vật chất và tinh thần để rồi cho
rằng cái này có trước, cái kia có sau tức là tách "vật chất" ra khỏi
chính thuộc tính của nó thì vô nghĩa biết chừng nào! Thử hỏi thanh nam
châm và cái thuộc tính hút sắt của nó thì cái nào có trước? Vật chất và
tính phản ánh của nó cũng vậy. Không thể có vật chất và ý thức, chỉ có
thế giới vật chất đang vận động, đang tự ý thức, tự phản ánh, tự tác
động phần này vào phần kia và tự biến đổi. Con người của ta lẫn ý thức
của ta cũng hoàn toàn thuộc vào cái thế giới ấy rồi. Không phải cái xác
của ta thì thuộc thế giới vật chất, còn ý thức của ta lại như cái gì đó
đứng bên ngoài để chụp ảnh... Và như vậy thì cả triết học duy tâm lẫn
triết học duy vật đều đã bị thời đại của chúng ta vượt qua rồi.
Muốn cho nhận thức luận được sáng tỏ trước hết phải đưa vào đó khái
niệm "lát cắt" hay "mặt cắt" mà nội hàm của nó là cái ranh giới giả tạo
mà con người bịa ra để làm một phương tiện nhận thức thế giới. Đứa trẻ
nhìn cái bánh chưng chỉ thấy cái bề ngoài, nó cắt đôi cái bánh ra, và từ
đó trí tưởng tượng của nó về cái bánh đầy đủ hơn trước, thấy cả ruột
bánh bên trong, nhưng trong nhận thức của nó cái mặt cắt nhân tạo kia
phải được xóa đi. Cái bánh vẫn nguyên vẹn mà vẫn bộc lộ được cái ruột
bên trong, đó là sự khác nhau căn bản giữa nhận thức và thực nghiệm. Mỗi
kiểu lát cắt cung cấp thêm cho ta mẫu nhận thức khác nhau, nhưng rồi
tất cả các lát cắt đều cần được xóa đi khỏi nhận thức, nếu không nó làm
sai lệch đối tượng ta muốn nhận thức. Ranh giới giữa vật chất và ý thức
cũng là một "lát cắt" nhân tạo thông minh mà ta bịa ra, không hề có thật
bao giờ.
Ranh giới giữa ta với thế giới ngoài ta, ranh giới giữa chủ thể tác
động và đối tượng hay kết quả tác động... cũng chỉ rất tạm thời, rất
"tương đối", suy cho cùng cũng đều giả tạo. Cái ta là chủ thể nhận thức
nhưng đồng thời cũng đang bị cái bên ngoài nhận thức. Đừng tưởng mình là
đại diện cho ý thức đang đem quy luật đi cải tạo cái thế giới vật chất
mà quên mình đang là cái sản phảm rất vật chất, đang là nạn nhân, nạn
vật một cách rất vô ý thức. Đừng tưởng mình là cái bên ngoài mà quên
mình cũng đồng thời là cái bên trong. Tất cả cứ đổi chỗ cho nhau liên
lục không lúc nào dứt. "Sắc" đấy, mà thoắt lại thành "Không" và ngược
lại. Có nghĩa đấy mà thoắt thành vô nghĩa. Đương nhiên sự hoán đổi ấy
không phải lung tung, mỗi biến đổi có điều kiện của nó.
Nói khác đi, "vật chất, ý thức" đều chỉ là sản phẩm trong ý niệm, mà
ngay trong ý niệm chúng cũng đổi chỗ cho nhau liên tục. Chia làm sao
được. Về điều này, theo hiểu biết của tôi thì Mác nhận thức sâu sắc hơn
so với Ắngghen và Lênin, song cũng chưa đủ để bứt phá, nên cứ quanh quẩn
để cuối cùng vẫn bị cuốn vào một quyết định luận Mác xít mang nhiều
tính chất phân ly máy móc và cực đoan. Tôi trộm nghĩ nếu Mác được ảnh
hưởng nhiều hơn của lối tư duy tổng hợp Đông phương (đừng lầm với chất
phong kiến và cù nhầy của Đông phương) và quy luật tiến hóa Sinh học thì
tình hình có thể khá hơn. Chẳng hạn, nếu vậy... thì làm sao Mác có thể
tưởng tượng ra một "Đảng tiên phong" với một "ý thức" trong suốt như pha
lê và kiên định như kim cương, để nhân loại có thể trao hết vận mệnh
của cái thế giới "vật chất" ngoắt ngoéo đầy sự tha hóa bẩn thỉu này cho
Đảng dìu dắt tới thiên đường Cộng sản xa xôi kia?. Nếu thực sự duy vật
và biện chứng hẳn các ông phải hiểu như thế là gửi trứng cho ác, là treo
miệng mèo, nửa đường nó không xài luôn thì làm gì? (Bất giác tôi nghĩ
tới chuyện Mã Giám Sinh hộ tống Kiều). Tưởng quá duy vật khách quan mà
thành duy tâm chủ quan!
HỎI: Tại sao nói Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử mang tính Duy tâm và Siêu hình?
ĐÁP: Nói cách khác: Chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mác xít đã chống lại
tinh thần Duy vật Biện chứng. Cái nhìn của Chủ nghĩa Duy vật lịch sử
Mácxít đối với con người và xã hội luôn cắt rời, cực đoan và phiến diện.
Ví dụ: "Con người" có thuộc tính cá nhân và thuộc tính xã hội thì về lý
luận Mác-Lê để cho "con người xã hội" nuốt chửng mất "con người cá
nhân", để trong thực tế tạo tiền đề cho một vài cá nhân nuốt chửng xã
hội. Đảng Cộng sản cũng như Con Người, có mặt phải mặt trái, mặt thiện
mặt ác thì Mác-Lê chỉ thấy mặt thiện.Trong khi đó xã hội tư bản cũng có
hai mặt thì Mác-Lê chỉ thấy mặt trái. Nhà nước bao giờ cũng có hai mặt
công ích và tư lợi, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy bản chất tư lợi xấu của
Nhà Nước nên phấn đấu làm tiêu vong Nhà Nước kết quả là cái Nhà Nước quá
độ mà các ông tạo ra lại quá nhiều tính tư lợi mà không ai làm tiêu
vong nó được. (trừ khi xã hội ấy nhất tề từ chối chủ nghĩa Mác-Lê như
Liên xô và Đông Ấu).
Sở hữu tư nhân hay sở hữu tập thể đều có hai mặt tích cực và tiêu
cực, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của tư hữu và chỉ nhìn thất
mặt tích cực của công hữu, nên phá tư hữu, lập công hữu. Hệ quả là tạo
điều kiện cho một số người chiếm của công thành của tư và đang trở thành
nhà tư sản thực thụ. Sự chiếm hữu trong xã hội như cái sào huyệt mafia
gồm hai buồng: chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu quyền lực. Nhưng
Mác-Lê chỉ nhìn thấy một kẻ thù là chiếm hữu tư liệu sản xuất, bèn nâng
cái quyền lực lên để dùng nó diệt cái chiếm hữu tư liệu sản xuất. Ai ngờ
cái chiếm hữu quyền lực còn tai ác gấp vạn lần. Vấn đề "giá trị thặng
dư" cũng vậy. Cũng có mặt phát triển kinh tế và tạo nguy cơ mất công
bằng. Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt bóc lột của giá trị thặng dư mà
không thấy mặt tích cực và hợp lý của nó. Kết quả là bây giờ các đảng
viên vừa được khuyến khích làm giầu (thực chất là bằng cách bóc lột giá
trị thặng dư chứ gì nữa), lại vừa phải nói khéo để khỏi làm tủi vong
linh tác giả Tư bản luận.
Vấn đề "đấu tranh giai cấp" cũng có 2 mặt, mặt làm đối trọng tích cực
để làm xã hội phát triển và mặt phá phách làm nhiễu xã hội. Nhưng
Mác-Lê tâng bốc đấu tranh giai cấp thành động lực duy nhất thúc đẩy tiến
hóa để có sức mạnh mà giành chính quyền, đến lúc mình cầm quyền rồi,
quan hệ giai cấp vẫn còn đó thì xử lý với chuyện "đấu tranh giai cấp là
động lực của tiến hóa" ra sao để cái ghế của mình được yên? Cái thuyết
"đấu tranh giai cấp" và chống kinh tế thị trường của cụ Mác bấy giờ lại
làm ta kẹt quá, vậy thì có phải "mềm đến mức có thể uốn được". Nếu bây
giờ cụ Mác đang bị uốn, và xem chừng khi cụ Mác chịu uốn không nổi nữa
thì đến lượt cụ Hồ. Chủ nghĩa Mác-Lê nói :"Trong xã hội có giai cấp thì
đấu tranh giai cấp là động lực của tiến hóa". Nhưng xã hội có giai cấp
chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người (chính Mác-Lê đã nói thế).
Vậy xin hỏi: Trong toàn bộ lịch sử loài người nói chung, kể cả khi có
giai cấp và khi không có giai cấp thì động lực của tiến hóa nói chung là
gì?
Bởi chưa quan tâm đúng mức đến cái toàn bộ đã quyết đoán cái cục bộ
nên tiến trình cách mạng vô sản lên chủ nghĩa Cộng sản cứ như một ngoại
lệ ngang phè phè trật khớp ra khỏi lịch sử Ắng-ghen lại biện bạch điều
đó bằng tính cách mạng "đoạn tuyệt một cách triệt để nhất" (!) Nếu biết
nhìn lịch sử một cách thật biện chứng như một quá trình thống nhất ắt
các ông phải thấy "trí tuệ" mới là động lực (động lực mang tính khách
quan, khác với động cơ mang tính chủ quan), và không dựng ra một học
thuyết đấu tranh giai cấp rùm beng như thế.Tính cực đoan phiến diện ấy
khi thì gây ra bệnh quá tả như trên vừa nói, khi thì gây bệnh hữu
khuynh. Đấu tranh sinh tồn (trong đó đấu tranh giai cấp là một biểu
hiện) là quy luật phổ biến bao giờ bớt được. Vậy mà các ông định làm một
"cuộc chiến đấu cuối cùng" là nghĩa làm sao? Dựa vào lý tưởng hữu
khuynh về đấu tranh giai cấp ấy người cầm quyền Cộng sản đã kìm hãm tối
đa sự đấu tranh giai cấp của giai cấp và tầng lớp lao động mới.
Công trình lớn nhất của Mác là tập "Tư bản", rất công phu, rất nhiều
kiến thức nhưng điều mấu chốt thì lại không giúp gì cho việc giải bài
toán xã hội. Chẳng thừa mà còn có hại cho mục đích này bởi nó gây sự
hiểu lầm, tưởng rằng tội lỗi sinh ra là ở chỗ có giá trị thặng dư. Nhà
triết học đập vào giá trị thặng dư thì khác nào người công nhân trút căm
thù vào máy móc. Tách bài toán phân chia sản phẩm ra khỏi bài toán phân
chia quyền lực và bài toán phát triển sản xuất thì làm sao tìm ra đáp
số cho bài toán xã hội? Nhiều người vẫn nghĩ rằng việc đề cao yếu tố như
trên và việc tìm ra một lực lượng vật chất là giai cấp công nhân là
bằng chứng về tính duy vật của chủ nghĩa. Song, như đã phân tích trong
phần "vật chất và ý thức" nếu duy vật một cách phiến diện cắt rời, mang
tính định hướng chủ quan và lãng mạn thì lại chạy sang duy tâm. Nói "duy
vật", "duy tâm" là dùng hệ ngôn ngữ chúng ta đã quen dùng. Theo ý riêng
tôi trong hệ tư duy mới thì ranh giới duy vật duy tâm không thể tồn tại
như ta quan niệm, và khi ấy vấn đề sẽ được diễn đạt một cách khác.
Tóm lại toàn bộ nhãn quan "duy vật lịch sử" Mác xít là một nhãn quan
phi biện chứng, đầy tính duy tâm chủ quan. điều này tôi đã phân tích
trong một tài liệu có tính chất lý luận cơ bản: "Đôi điều suy nghĩ của
một công dân" (ĐĐSN...) (1). Nhiều luận lý Mác xít là tam đoạn luận máy
móc, xuất phát từ một tiền đề chủ quan nên kết thúc phi lý. Ra đời trong
giai đoạn chưa chín của Văn Minh Công Nghiệp, phương pháp luận Mác xít
đã mang nhiều dấu ấn của "bệnh Công nghiệp", công nghiệp hơn cả công
nghiệp, thể hiện ở xu hướng thích quy mô lớn, thích đồng loạt, thích cơ
chế một cách máy móc (thậm chí biện chứng một cách máy móc,"uyển chuyển"
một cách máy móc), thích kinh tế, cực đoan hóa tính "vật chất", cực
đoan hóa sự phân tích và loại trừ. Nói công nghiệp hơn cả Công nghiệp là
vì Công nghiệp sản xuất đại trà trên cơ sở sản xuất chính xác từng đơn
vị sản phẩm. Còn Mác quan tâm đến "tổng thể quan hệ xã hội", quan tâm
giải phóng xã hội, mà vi phạm sự giải phóng cá nhân (nên coi nhẹ vấn đề
Quyền Con Người, vì nghĩ rằng Xã hội là đã có Con người nằm trong đó
rồi! ) (2).
Nói "công nghiệp" hơn cả Công nghiệp là vì trong quy trình vận hành
của Công nghệ bao giờ cũng phải có "cơ chế ngược" (feedback) để tự kiểm
tra, tự khống chế, tự dừng, tự sửa chữa..., nhưng Chuyên chính Vô sản là
bộ máy chỉ vận hành theo tiêu chuẩn và hoàn toàn không có cơ chế ngược
ấy, nên lúc đầu thì ổn mà về sau quyền lực cứ bành trướng vô hạn độ đến
nỗi người thiết kế ra nó cũng trở thành nạn nhân. điều này cùng với đặc
điểm mang tính lãng mạn và phong kiến (sẽ phân tích sau) chắc cũng đủ
cho nhận định rằng Chủ nghĩa Xã hội Mácxít chỉ là đại biểu cuối cùng của
dòng các chủ nghĩa Xã hội không tưởng.
Hệ lý luận Mác xít càng phát triển càng tự mâu thuẫn, càng xa thực tế
và càng lúng túng, bởi xây dựng trên tiền đề và phương pháp luận chủ
quan, phiến diện. Nói đến sai lầm của học thuyết này thì sai lầm đầu
tiên và bao trùm hết thảy, chính là sai lầm về phương pháp luận! Đảng
Cộng sản buộc phải thừa nhận sai lầm khác nhưng lại kiên quyết bảo vệ
phương pháp luận (1). Xem cái cung cách mà cả một đội ngũ các nhà chính
trị và lý luận Mác xít bây giờ đang hì hục nai lưng ra vá víu, che chắn,
người ta không khỏi phì cười vì thấy hiện ra một đám anh hề, cố sức lau
nhà cho khô nhưng lại cứ để cái rô-bi-nê phía sau ồ ồ phun nước!
HỎI: Nhận định gì về tính Tiền phong và Dự đoán Mác xít?
ĐÁP: Tính khoa học, tính tiền phong và khả năng dự đoánlà một bộ ba
liên hoàn. Nếu có tính khoa học thật sự, ắt có tính tiền phong và khả
năng dự đoán. Ngược lại nếu Dự đoán luôn luôn sai hay chủ yếu là sai thì
bản chất khó lòng là tiền phong và khoa học được. Một khi chủ nghĩa
Mác-Lê đã tự xác định mình là "Chủ nghĩa Xã hội khoa học" thì việc tự
xưng là Đảng Tiền phong và tiến hành Dự đoán như đinh đóng cột cũng là
hợp với tư duy lôgic và phép biện chứng tự nhiên. Nhưng ngược lại, nếu
dự đoán như đinh đóng cột ấy đổ thì đương nhiên không ai dám nhận mình
là khoa học và tiền phong nữa, vì đó cũng là lôgic tự nhiên và là sự tự
trọng tối thiểu. Người Cộng sản rất tài giỏi trong thực tế tranh đấu
trong đó có sự ứng dụng khoa học thật sự, do đó dự đoán chiến thuật
thường là đúng, nếu không thì sao thắng được. Nhưng dự đoán chiến lược,
lại là một vấn đề khác hẳn.
Dự đoán Mác xít có tính chiến lược bao trùm nhất, kết tinh của tư duy
Cộng sản toàn thế giới là tuyên bố của 81 đảng Cộng sản về nội dung
thời đại :"Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên
Chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Xã hội
chủ nghĩa tháng 10 vĩ đại; là sự sụp đổ của chủ nghĩa Đế quốc và sự tan
rã của hệ thống thuộc địa; là sự xuất hiện ngày càng nhiều dân tộc tiến
lên con đường XHCN. Giai cấp Công nhân quốc tế, mà đại diện là Đảng
Mácxít Lêninít chân chính, đang đứng ở vị trí trung tâm của Thời đại mới
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa Xã hội".
Đảng Cộng sản Việt nam còn đi xa hơn không phải dự đoán nữa mà đã nhìn
thấy "ba dòng thác" : dòng thác tan rã của chủ nghĩa Tư bản, dòng thác
sinh sôi của chủ nghĩa Xã hội và dòng thác của thế giới thứ ba. Đối
chiếu với thực tế ngày nay liệu còn gì để bình luận?
Hãy chú ý rằng đây là trí tuệ tập trung của cả thế giới Cộng sản, trí
tuệ ở vào lúc khá nhất của phong trào Cộng sản (khá nhất vì trong đó
tính giai cấp kiêu ngạo cực đoan phi thực tế đã được điều chỉnh đi rất
nhiều), khá đến mức bị người Cộng sản khác lên án là "xét lại" mà còn
sai đến mức lộn ngược như thế thì hệ thống lý thuyết ấy ở dạng chân
chính còn khủng khiếp biết chừng nào? Vậy mà đến hôm nay, trí thức gọi
là tiên tiến nhất của thế giới tư duy Cộng sản vẫn chưa nhìn ra được cái
sai từ nơi gốc rễ, vẫn cứ xưng là "Khoa học", là "Tiền phong" thì đủ
biết khả năng "ngu hóa" của lý thuyết ấy đã đến độ tuyệt hảo vậy. Có
người không đồng ý với tôi, lại bảo người ta chẳng dốt đâu, người ta
biết cả đấy!
Nếu vậy thì còn kinh khủng hơn. Đẩy được trí tuệ ra khỏi đầu người
vốn thông minh đã là điều tài tình, thì việc đẩy được lương tâm và danh
dự ra khỏi trái tim vốn đầy tính lương thiện và lý tưởng quả là một siêu
ma lực đáng để loài người muôn đời nghiền ngẫm. Kẻ làm chính trị mà
dùng được "ngu lực" hay ma lực này thì lo gì không vô địch? Và người vô
địch không bao giờ ngu dốt, trái lại, tinh khôn tuyệt vời. Thông minh và
ngu dốt luôn song song trong mỗi con người, bởi lượng trí khôn mà Tạo
Hóa ban cho mỗi con người bình thường gần là một hằng số như nhau (Trừ
người bất thường thì không kể. Chỉ số thông minh cũng chỉ là một mặt của
trí khôn thôi). Dùng hết tinh khôn cho việc này thì ngu dốt trong việc
khác. Vô địch trong điều kiện này đại bại trong điều kiện khác. Thoạt
nhìn thì Chân lý mang tính "cù nhầy".
Nhưng nếu lấy sự tiến hóa và hạnh phúc chung của cả nhân quần làm
chuẩn thì chân lý có tiêu chuẩn xác định không thể lộn ngược. Trong cuộc
chiến tranh Vệ quốc, Đảng Lao động Việt nam gồm người yêu nước nhất,
dám hy sinh, biết tổ chức và có sách lược nên có vai trò tiền phong thật
sự. Nhưng bước vào giai đoạn "cách mạng" tức cuộc đấu tranh giai cấp
nhằm mục đích tối hậu là xây dựng chủ nghĩa Cộng sản thì tình hình dần
dần xoay ngược trở lại. Dựa trên một lý thuyết phi khoa học thì chủ
trương và hành động sẽ chống quy luật, sẽ bị thực tế phủ định. Bản chất
lạc hậu, không tiền phong, nhưng muốn giành vị trí tiền phong thì quy
trình giành lấy tiền phong phải diễn ra theo 4 bước tuần tự:
Bước 1: Thấy cái tiền phong thật ngược với mình, nên coi là phản động.
Bước 2: Không chống được, đành buông lỏng, để cái tiền phong thật tồn tại không chính thức.
Bước 3: Thấy cái tiền phong thật hữu hiệu, hợp lý nên phải làm theo.
Bước 4: Tuyên bố cái tiền phong thật ấy là do mình khởi xướng.
Trong thực tiễn Cách mạng Việt nam, từ việc to việc nhỏ đều có thể
dẫn ra vô số sự kiện đã diễn ra theo kiểu ấy, tức là lếch thếch chạy
theo thực tiễn để đoạt lấy tiền phong, từ chủ trương khoán sản, thị
trường tư nhân, tự do luyến ái, y phục thời trang, quan hệ với người
nước ngoài, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, nhân quyền, pháp trị, xã
hội công dân, tự do lập hội, trí tuệ là động lực..., rồi chẳng bao lâu
nữa sẽ là thứ mà ngày hôm nay đang coi là phản động, như: từ bỏ Chuyên
chính Vô sản, Dân chủ đa nguyên, tự do báo chí, tự do truyền bá tư
tưởng, thông tin Internet, tự do xuất bản, hủy hệ thống trường Đảng,
nhìn nhận lại bản chất tư tưởng Mác-Lê, nhìn nhận lại vấn đề tư tưởng Hồ
chí Minh và lăng Hồ chủ tịch, Đảng đối lập, Tổng thống chế, tự do vận
động tranh cử...vân..vân... (xin nhắc lại: nhiều vấn đề ấy đang bị coi
là cấm kỵ, nhưng xin chưa thảo luận ở đây).
Ngay bài viết của tôi cũng như của nhiều trí thức tiến bộ, hôm nay
còn bị thông báo nội bộ coi là phản động thì rồi đây chắc chắn sẽ được
coi là quan điểm của Đảng. Nếu rồi đây Đảng cũng nghĩ như thế thật thì
rất đáng mừng, vì điều quan trọng đối với xã hội không phải ở chỗ quan
điểm ấy là của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được thực hiện như thế
nào, do thực tâm muốn đổi mới vì đất nước hay vì buộc phải thích nghi để
duy trì được quyền lợi của tập đoàn. Và từ đó sẽ phát sinh hệ quả rất
khác nhau. Trong phần sẽ trình bày sau, có đề cập đến một số Dự đoán
mang tính hiện thực vàTiền phong bởi nó dựa trên tư duy khoa học thực
sự.
1 nhận xét:
hay
Đăng nhận xét