"Văn minh có nghĩa là đạt được cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của con người. Nhưng cái tạo ra những tiện nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người là kiến thức và đạo đức, bản chất của văn minh chính là quá trình phát triển kiến thức và đạo đức con người" - Fukuzawa Yukichi
"Thích điều nhân mà không thích học thành ra người ngu, thích mưu lược mà không thích học thành ra người tặc, thích điều thẳng mà không thích học thành ra người giảo, thích đức dũng mà không thích học thành ra người loạn, thích cương cường mà không thích học thành ra người cuồng!" - Khổng Tử
"Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự bạo ngược bất công là soi sáng đến hết mức có thể tâm trí của quần chúng và đặc biệt là cho họ tri thức và sự thật." - Thomas Jefferson
"Hòa bình không có nghĩa là hết xung đột; sự khác biệt luôn hiện diện trong quan hệ giữa người và người. Hòa bình là giải quyết sự khác biết đó thông qua những phương pháp ôn hòa; bằng đối thoại, giáo dục, sự hiểu biết; và bằng những cách thức khác mang tính nhân bản." - Dalai Lama

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Nhìn lại phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục

1. Đỉnh cao của phong trào duy tân

Bỏ lối học từ chương khoa cử, tập trung cho thường thức và thực nghiệm, dạy cả tiếng Việt, Pháp và Hán văn. Chủ trương này lại xuất phát từ tầng lớp nho gia cuối cùng của Việt Nam. Không chỉ thế, chấn hưng công thương, khai mỏ, lập đồn điền, cắt tóc, xuất dương du học… cũng là chủ trương của họ. Dù chỉ tồn tại trong 9 tháng (5.1907 – 1.1908), nhưng trường Đông Kinh Nghĩa Thục thực sự là đỉnh cao của cuộc cách mạng xã hội to lớn đầu thế kỷ 20 có tên là Duy Tân

Cánh chim đầu đàn

Theo Nguyễn Hiến Lê: “Cụ Tây Hồ (Phan Châu Trinh) là người mở đường cho phong trào Duy Tân ở nước nhà. Lập Nghĩa Thục một phần công lớn là của cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là cụ, đi khắp nơi diễn thuyết là cụ, khuyên quốc dân cắt tóc là cụ, liệng cái phó bảng ra mà lập hiệu buôn cũng là cụ, bỏ tục nhuộm răng, vận Âu phục bằng nội hoá thì người đầu tiên cũng là cụ”. Thế nhưng, khi Đông Kinh Nghĩa Thục thành lập, Phan Châu Trinh chỉ nhận làm người tham gia giảng dạy bình thường.

Nhiều tài liệu cho rằng Đông Kinh Nghĩa thục là trường học miễn phí và dạy theo lối cải cách đầu tiên ở Việt Nam. Thực ra trước đó, năm 1905 tại Bình Thuận đã ra đời một ngôi trường tương tự, cũng từ chủ trương của cụ Phan Châu Trinh, đó là trường tư thục Dục Thanh, do ông Nguyễn Trọng Lội mở, ông Lương Thúc Kỳ (nhạc phụ của Phan Khôi) giảng dạy. Phí tổn đều do công ty Liên Thành (cũng do ông Lội lập) chu cấp. Một số thanh niên Nam kỳ (đất thuộc Pháp) cũng ra đây học. Nguyên cuối năm 1904 Phan Châu Trinh cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc kháng chu du mấy tỉnh miền Trung. Đến Bình Thuận, Phan Châu Trinh bị bệnh phải ở lại. Thời gian này ông cùng với Hồ Tá Bang lập một thư xã ở đình Phú Tài để giảng sách Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Nguyễn Trọng Lội nhiệt thành dự khán những cuộc thuyết trình ấy. Đây chính là bước tập dượt để Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời.

Đem nhà làm trường

Những cuộc bàn bạc đầu tiên cho sự ra đời của Đông Kinh Nghĩa Thục bắt đầu từ năm 1906 tại nhà ông Lương Văn Can, số 4, phố Hàng Đào, Hà Nội. Chính ra đó là những cuộc luận bàn “quốc sự”. Trong những cuộc luận bàn ấy, Phan Châu Trinh có kể khá cặn kẽ về hoạt động của Kháng Ứng Nghĩa Thục, nơi đào tạo các nhà tiền bối duy tân của Nhật, mà ông có dịp khảo sát tường tận trong thời gian ba, bốn tháng qua Nhật.

Hôm quyết định thành lập, cũng tại số 4 Hàng Đào có mặt các ông Lương Văn Can, Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học… nhưng lại vắng mặt Tăng Bạt Hổ và Phan Châu Trinh. Người cao tuổi hơn cả là Lương Văn Can được các đồng chí nhất trí tôn làm thục trưởng.

Về tài chánh, hội viên tự ý góp bao nhiêu cũng được và quyên thêm ở những chỗ quen, hảo tâm. Tiền - thục trưởng quản chi, nhưng sổ sách do Nguyễn Quyền giữ. Dự kiến sẽ lập một trường tại Hà thành, sau đó sẽ phát triển ra các tỉnh. Đến khi chọn địa điểm, do tài chánh còn eo hẹp, Lương Văn Can đề nghị lấy nhà mình làm cơ sở ban đầu, vì nhà có một cái gác tẩu mã (1), chứa được vài trăm học sinh, mặc dù dưới đất đang là cửa hàng kinh doanh tơ lụa của vợ ông. Dự kiến khi học sinh đông hơn, sẽ mướn thêm nhà số 10 ở bên cạnh. Nhà này còn rộng hơn nhà ông Can, vốn là của ông Hương cống Sùng, một phú gia bậc nhất đất Hà thành hồi trước, giờ đã bán lại cho ông Phạm Lẫm và đang rất trống vì ông Lẫm đi làm Bố chánh ở Vĩnh Lại, Hưng Hoá. Nhà này ăn thông từ Hàng Đào sang Hàng Quạt, dài trên 50m, có chỗ rộng hơn 30m, cũng có gác tẩu mã và cả một hoa viên. Về sau trường đã thuê được địa điểm này để phát triển theo dự kiến.

Hai người đảm nhiệm việc lập các thủ tục xin phép lập trường tại phủ Thống sứ Bắc Kỳ là Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn.

Cả nhà cùng “Nghĩa Thục”


Dù chỉ bằng truyền miệng, nhưng tin tức trường Đông Kinh Nghĩa thục sắp ra đời lan rất nhanh khắp cả hai vùng đất bảo hộ, miền Bắc và miền Trung. Việc học trò đi học không phải mất tiền là một việc chưa từng có. Nhưng điều mà người ta chú ý nhiều hơn cả là về các vị giáo sư sẽ giảng dạy ở đây. Họ là những danh sĩ tâm huyết của đương thời, không chỉ có những tú tài, cử nhân nhưng bất cần áo mão cân đai, mà còn có cả những nhà trí thức tây học tên tuổi. Danh sách ứng sinh đăng ký theo học dồn dập đổ về địa chỉ số 4 Hàng Đào. Trong khi đó thủ tục xin phép đã nộp gần hai tháng mà nha Thống sứ vẫn cứ im lặng. Nguyên do là vì… cái tên. Nghĩa thục là trường dạy không lấy tiền, nhưng mật thám Pháp lại thấy nó gần với hai chữ nghĩa quân, là từ mà dân chúng đang gọi quân gia của ông Hoàng Hoa Thám trên Yên Thế! Một phụ huynh, là dân Tây học, nóng lòng xin cho con học, mách nước với ông Lương Văn Can: Theo lệ Tây, chưa cho phép mà không bác bỏ, xem như mặc hứa. Vì vậy có thể mở lớp ngay được. Nhưng để an toàn, nên mở ngay hai lớp nhỏ nhất, một lớp cho con trai, một cho con gái và chỉ dạy chữ quốc ngữ. Quốc ngữ là lợi khí để khai dân trí, nhưng hợp với chiêu bài “khai hoá” mà người Pháp không có lý do gì cấm.

2. Chấn hưng công thương, kỹ nghệ

“Tôi cầm bút ký tờ đoạn mãi mà tay run lên. Từ nhỏ, có bao giờ dám động tới di sản của tổ tiên đâu”. Đó là lời thuật lại sau này của bà Lương Văn Can khi bà ký vào giấy tờ bán hiệu buôn Quảng Bình An ở Hàng Ngang, lấy 7.000 đồng đưa chồng tiêu vào việc trường

Những tấm lòng vàng

Theo Nguyễn Hiến Lê, những nhà quyên tiền nhiều nhất là hiệu kim hoàn Thế Xuân ở Hàng Bạc và hiệu hàng tấm (tơ lụa) Phúc Lợi ở Hàng Ngang. Hồi mới phát động, dân khí đang lên, ai nghe nói giới cựu học và tân học bắt tay nhau mở mang dân trí, chấn hưng đất nước cũng hăm hở kẻ góp công người góp của. Nhưng việc chi tiêu cho Đông Kinh Nghĩa Thục đâu phải nhỏ mà chỉ dựa vào lòng hảo tâm, thành ra không bao lâu, việc tiền bạc trở thành gánh nặng to lớn. Chỉ sau nửa năm hoạt động, bà Lương Văn Can phải bán đi hiệu buôn như phần trên đã nói.

Đưa môn kinh tế vào trường


Điều này chính Phan Châu Trinh cũng đã tiên lượng, khi bàn đến việc quyên tiền, ông có nói: “Chúng ta có cái dũng khí độc lập cả ngàn năm rồi, trăm lần bẻ mà không gãy. Tôi có dịp chu du các nơi, những người hưởng ứng có tới số ngàn, chỉ tiếc một điều, người có hằng sản thì không có hằng tâm, người có hằng tâm thì hầu hết là bần sĩ, mỗi khi nghĩ tới việc đó, tôi thường thở dài, biết làm sao đây?”. Trước đó, chính Phan Châu Trinh cũng là người đầu tiên nêu gương chấn hưng thực nghiệp khi cho khai trương Quảng Nam thương hội, mở xưởng dệt rồi may cho mình một bộ Âu phục bằng chính thứ vải tự dệt ấy.

Cho nên mở mang công thương nghiệp lúc đó là vấn đề cấp bách, trước mắt là kiếm tiền trang trải cho Đông Kinh Nghĩa Thục và ủng hộ các học sinh Đông du. Về lâu dài, nó là nền tảng của toàn bộ công cuộc duy tân đất nước.

Những chủ trương phát triển công thương, kỹ nghệ này trước hết được đưa vào trong chương trình học của nhà trường. Sách Quốc dân độc bản, một tài liệu giáo khoa quan trọng của trường, có 79 bài thì có tới 24 bài (từ bài 56 đến bài 79) đề cập trực tiếp đến các vấn đề thuộc về kinh tế, kỹ nghệ. Cho đến nay chưa biết được các soạn giả đã tham khảo các nguồn tài liệu nào để viết về các vấn đề kinh tế học. Theo phỏng đoán có thể họ tham khảo từ các sách Tân văn, Tân thư và Tân báo (từ Trung Quốc, Nhật Bản), các sách báo kinh tế của người Pháp, và từ chính các vấn đề kinh tế nổi cộm đang diễn ra ở Việt Nam lúc đó. Trong các luận điểm về kinh tế mà các soạn giả nêu ra khá nhiều dẫn chứng từ các nước Âu, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

Khi nhà nho đi buôn

Tiên phong trong việc này ở đất Bắc là ông Đỗ Chân Thiết. Năm 1904, nhân vua Thành Thái ra bái yết lăng tẩm tổ tông ở làng Gia Miêu, Thanh Hoá, Đỗ Chân Thiết cùng Phương Sơn thảo Hưng Quốc sách, nhảy xe lửa vào tận Thanh Hoá định dâng vua, nhưng bị viên tổng đốc Thanh Hoá gàn cản, việc không thành. Hai ông trở về Hà Nội, rủ nhau đi buôn, mướn thuyền về Hải Dương chở gạo lên Hà Nội bán. Thuyền về đậu bến cột Đồng Hồ mấy ngày, dân buôn thấy thuyền của ông Cử, ông Nghè không ai dám tới mua, sau nhờ một bà xuống bán dùm, chỉ nửa buổi đã hết. Sau hai ông gọi thêm vài người đồng chí hùn vốn được vài ngàn bạc, mở hiệu Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, chuyên bán hàng nội hoá và tiệm thuốc bắc, hiệu Tuỵ Phương gần ga Hàng Cỏ.

Ông Hoàng Tăng Bí mở hiệu Đông Thành Xương ở Hàng Gai, vừa buôn bán vừa làm công nghệ, lần đầu dùng khung cửi rộng dệt xuyến bông nhuộm đen; chế các loại trà mạn, trà tàu, trà ướp sen. Hiệu Các Thành ở Hàng Gai, hiệu Hồng Tân Hưng ở Hàng Bồ cũng mở vào lúc ấy.

Phong trào từ đó lan ra các tỉnh. Ông Tùng Hương mở hiệu Phúc Lợi Tế ở Phúc Yên và Hưng Lợi Tế ở Hưng Yên. Ở Việt Trì, ông Nguyễn Trác mở hiệu Sơn Thọ. Hai hiệu Sơn Thọ và Đông Thành Xương có vốn lớn nhất, trang hoàng đẹp, bán nhiều đồ nội hoá như quạt lông, đồ tre đan Đại Đồng Sơn, khai trúc Nghệ An, giày Kinh, lãnh Bưởi, lãnh Sài Gòn…

Lập đồn điền, khai mỏ

Nghĩa Thục còn khuyến khích đồng chí lập đồn điền để khuếch trương nông nghiệp. Ông Bùi Đình Tá cùng hùn vốn với người bạn là Phan Tứ, khai phá một đồn điền ở Mỹ Đức, gần chùa Hương. Ông Tá là dân Tây học, đỗ đạt, được bổ thông ngôn rồi thăng tham tá. Chẳng những là người nhiệt tâm dạy giúp Nghĩa Thục từ khi mới mở, ông còn là người lập ra một cô nhi viện đầu tiên ở Việt Nam. Việc ông mở đồn điền ở Mỹ Đức là để có phương tiện nuôi trẻ mồ côi. Trên Yên Bái còn có một đồn điền được khai phá ở Yên Lập, rộng 50 mẫu, khai rừng đốt than và trồng ngô, lúa. Vì đây là vùng rừng âm, nước độc, nhân công từ xuôi lên lần lượt ngã bệnh, rồi cũng phải bỏ dở.

Một việc ít ai biết là những người trong Nghĩa Thục còn có nhiều chuyến sục sạo trên vùng thượng du Bắc Việt và đã tìm được một số mỏ như than, chì, kẽm, lưu huỳnh… Một đoạn ghi chép của Nguyễn Hiến Lê: “Các cụ lên miền rừng núi, hỏi dò thổ dân, thấy chỗ nào nghi có quặng là đem về ít cục đá, đất, giao cho phòng thí nghiệm phân tích sau khi đóng tiền 5 đồng mỗi lần. Nếu phòng thí nghiệm bảo là có quặng, các cụ đóng thêm tiền, đón kỹ sư đến tận nơi xem xét, sau cùng mướn người cắm mốc bốn bên, vẽ bản đồ xin đóng thuế khai mỏ”.

Nói chung, giới nho sĩ chủ trương đều thiếu kinh nghiệm quản trị, thiếu vốn, thiết bị kỹ thuật nên các công trình chỉ để lại tiếng vang, kích thích lòng yêu nước là chính. Tuy nhiên, các cơ sở kinh tế nói trên còn là nơi gặp gỡ thuận tiện để họ bàn bạc chuyện khác, quan trọng và cao cả hơn.

3. Người mở cửa Đông Du

Không chỉ góp tiền của và công sức cả nhà cho Đông Kinh Nghĩa Thục, trong bốn thanh niên Việt Nam đầu tiên xuất dương qua Nhật mở màn cho phong trào Đông du, còn có hai người là con trai của ông Lương Văn Can.

Tiếng khóc mất nước trước Nhật hoàng

Chiến thắng vẻ vang của Nhật trong cuộc chiến tranh với Nga (1904-1905) dẫn đến hoà ước Postsmouth, đem lại cho Nhật hải cảng Lữ Thuận, phía nam Sakhaline và con đường xe lửa phía nam Mãn Châu. Sự kiện trên khiến các nước châu Âu giật mình vì một châu Á đang trỗi dậy, nó còn đem lại niềm khích lệ lớn cho giới sĩ phu yêu nước Việt Nam là theo gương tự cường của nước Nhật để đánh đuổi thực dân Pháp.

Trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật ấy, có một người Việt tham dự trong lực lượng thuỷ quân của Nhật và lập công lớn trong các trận Đại Liên, Lữ Thuận, được nước Nhật thưởng huy chương quân công. Người đó là Tăng Bạt Hổ. Được mời dự trong bữa đại yến do Nhật hoàng đãi các tướng sĩ mừng chiến thắng, khi đỡ chén rượu do vua Nhật ngự rót, Tăng Bạt Hổ uống một hơi cạn rồi khóc lớn. Thấy lạ, Nhật hoàng hỏi, thì ông nói rằng ông khóc mừng cho nước Nhật thắng trận và cũng khóc vì cái nhục của nước ông là Việt Nam còn trong ách xâm lược của thực dân Pháp.

Tăng Bạt Hổ người Bình Định, tham gia quân đội triều đình, làm đến chức cai cơ, ông cùng với Phạm Toàn mộ nghĩa quân chống Pháp. Sau nhiều trận thất bại, nghĩa quân tan rã, không chấp nhận dụ hàng, ông trốn qua Thái Lan, rồi sang Trung Quốc xin làm thuỷ thủ cho một tàu buôn. Nhờ đó ông thường có dịp qua lại các hải cảng Nhật, tự học và nói thông tiếng Nhật. Khi chiến tranh Nga - Nhật xảy ra, vì lòng căm hờn người Âu, ông đăng ký vào thuỷ quân Nhật.

Rước Phan Bội Châu sang Nhật

Dù được an ủi và khen là chân ái quốc, nhưng vua Nhật cũng không hứa hẹn gì. Nhưng tiếng khóc của ông tại hoàng cung Nhật đã gây được cảm tình lớn với nhiều tướng lĩnh và chính khách, đặc biệt với hai nghị sĩ Nhật là Khuyển Dưỡng Nghị và Đại Ôi Trọng Tín. Hai ông nghị này rất muốn tranh thủ Nhật hoàng viện trợ cho Việt Nam kháng Pháp, nhưng do tình hình khi đó Nhật còn muốn hoà hoãn với Pháp, nên họ khuyên Tăng Bạt Hổ nên tìm cách phát triển phong trào duy tân trong nước để nâng cao dân khí, dân trí cho đại sự về sau dễ thành và hứa tận lực giúp cho học sinh Việt Nam sang Nhật được phép cư trú và miễn học phí.

Cuối 1904, Tăng Bạt Hổ về Hải Phòng rồi vào Quảng Nam. Qua giới thiệu của ông Nguyễn Thành (2), ông nhiều lần gặp gỡPhan Bội Châu và Kỳ ngoại hầu Cường Để. Đầu năm 1905, ông đưa Phan Bội Châu sang Nhật bằng tàu thuỷ, từ Hải Phòng.

Mở ra con đường Đông Du


Sang Nhật, qua Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu nhiều lần hội kiến với Khuyển Dưỡng Nghị, Đại Ôi Trọng Tín và đại tướng Phúc Đảo. Để tránh những rắc rối về ngoại giao có thể xảy ra với thực dân Pháp, các nhân vật trên nhất trí giao phó việc huấn luyện học sinh Việt Nam cho Đông Á đồng văn hội, vì hội này là hội phi chính phủ, lấy danh nghĩa một tổ chức của dân Nhật giúp đỡ một tổ chức của dân Việt Nam, là một việc làm hợp pháp, không liên can gì tới chính quyền Nhật. Việc học, tập trung vào hai phần: 1/Quân sự chuyên môn; 2/ Phổ thông tri thức. Đông á đồng văn dành năm phòng học để dạy riêng cho học sinh Việt Nam.

Cao điểm của phong trào Đông du (1907–1908), con số du học sinh Việt Nam ở Nhật ước lượng chừng 200, Nam kỳ hơn 100 người, Trung kỳ chừng 50 người, Bắc kỳ hơn 40 người. Sở dĩ phong trào Đông du phát triển mạnh ở Nam kỳ là do ông Phan Bội Châu có nhiều mối quan hệ đồng chí với những nhà cách mạng ở vùng đất thuộc địa này. Năm 1903, trong chuyến du Nam, vào tận vùng Thất Sơn (An Giang), căn cứ địa cuối cùng của lực lượng cần vương miền Nam, trên đường trở về, ghé qua Sa Đéc, Phan Bội Châu có hội kiến với hai ông Đặng Thúc Liên và Nguyễn Thần Hiến. Sau này ông Hiến là người lập ra Khuyến du học hội ở Nam kỳ và cho con trai là Nguyễn Như Bích qua Nhật, khiến sĩ phu ở đây hưởng ứng rất đông và đóng góp cho phong trào rất nhiều tiền bạc, vì phần đông họ là những đại điền chủ.

Hổ phụ sinh hổ tử

Trong Ngục trung thư Phan Bội Châu có kể, sau chuyến về nước thu xếp cho ông Cường Để sang Nhật, khi trở qua nhà trọ cũ ở Hoành Tân thì gặp Lương Ngọc Quyến (con ông Lương Văn Can) đang đợi ở đó. Anh thanh niên này đã vượt biển trốn sang Nhật, khi lên bờ trong túi chỉ còn vỏn vẹn 3 xu. Rồi một hôm Quyến nhịn đói một mình từ Hoành Tân lên Đông Kinh, mất 1 ngày, 1 đêm. Không có chỗ ngủ, anh đi vào sở cảnh sát. Sáng ra, cảnh sát hỏi gì anh cũng không biết, vì không biết tiếng Nhật. Sau khi cảnh sát cho “bút đàm” thì biết anh là thiếu niên… Ấn Độ. Thấy lạ, thương tình, cảnh sát cho tiền để anh đi xe lửa về Hoành Tân. Quyến dùng tiền ấy chu du khắp Đông Kinh mấy ngày và tình cờ vào toà báo Dân Báo của những nhà cách mạng Trung Quốc tại Nhật. Khi rõ hết tình cảnh, chủ bút Chương Thái Viêm đã nhận Quyến vào làm việc, ngạch tam đẳng thư ký.

Trở lại Hoành Tân, Lương Ngọc Quyến đưa hai thanh niên mới từ nước nhà qua là Nguyễn Thức Canh và Nguyễn Điển lên Đông Kinh. Phan Bội Châu giữ Lương Nghị Khanh (3) ở lại Hoành Tân với mình.

Sau khi đưa Phan Bội Châu sang Nhật, Tăng Bạt Hổ về nước đi khắp Bắc, Trung, Nam vận động Đông du. Một lần tiếp kiến Lương Văn Can, ông Can nói: “Chúng ta đã vào hàng lão, nên đặt hy vọng vào bọn hậu tiến”. Được lời như cởi tấm lòng, Tăng Bạt Hổ bày tỏ mục đích về nước của mình. Do cuộc hội đàm đó mà hai người con cụ Lương có mặt trong số bốn thanh niên đầu tiên của phong trào Đông du.

4. Thực hành ở Nam kỳ

Khi vào đến Nam kỳ, phong trào Duy Tân có tên gọi là Cuộc Minh Tân (công cuộc minh đức, tân dân). Trụ cột của phong trào là ông Trần Chánh Chiếu

Sợi dây liên hệ

Ông Trần Chánh Chiếu sinh 1867 tại Rạch giá trong một nhà điền chủ khá giả. Sau khi học hết trường tỉnh, được một linh mục giới thiệu, ông lên Sài Gòn vào học ở trường Collège d’Adran. Vì nhập quốc tịch Pháp nên ông còn được gọi là Gilbert Trần Chánh Chiếu (viết tắt là G. Chiếu).

Thời đó, ông Chiếu có người con là Trần Chánh Tiết du học tại Hương Cảng, trường Saint Joseph, dạy tiếng Anh. Ông Chiếu do có Pháp tịch nên dễ dàng qua lại Hương Cảng thăm con. Do đó, ông có được nhiều dịp gặp và luận đàm cùng ông Phan Bội Châu tại Hương Cảng, rồi bí mật sang Nhật để gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Lề lối làm việc của ông khá thiết thực vì là người chịu ảnh hưởng tân học. Ngoài ông Chiếu, các nhân vật quan trọng của phong trào ở Nam kỳ còn có Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Khương (thân phụ nhà cách mạng Nguyễn An Ninh)…

Những hoạt động nổi bật ở Nam kỳ là khuyến khích người Việt tự cường bằng cách liên kết với nhau thành lập các công ty, các cơ sở thương mại, tài chánh tín dụng, phát triển công nghệ, dịch vụ… hòng cạnh tranh với tư bản Pháp và Hoa kiều lúc ấy đang thống lãnh nền kinh tế Nam kỳ

Ý tưởng có một tập đoàn kinh tế

Trong những chủ trương phát triển công kỹ nghệ của ông Trần Chánh Chiếu thì việc thành lập công ty Nam Kỳ Minh Tân công nghệ có thể được xem là táo bạo nhất. Đây là công ty gồm nhiều cổ phần, đa số người đóng góp là giới điền chủ và công chức, cổ động đầu 1908, thành lập công khai theo luật hiện hành vào 1.6.1908 trong buổi họp ở văn phòng viên chưởng khế Aymard tại Sài Gòn, với bản điều lệ gần giống như các công ty của người Pháp lúc bấy giờ. Đến tháng 8.1908 đã quy tụ hơn 3.000 cổ đông. Điều lệ ghi rõ: “1/Lập lò nghệ tại Nam kỳ: lò chỉ (kéo sợi bông vải), lò dệt, lò savon (xà bông), thuộc da và pha ly (thuỷ tinh)… 2/Dạy con nít làm các nghề ấy. M.Gilbert Chiếu làm tổng lý công ty. Quán chánh công ty ở tại thành Mỹ Tho”.

Tháng 9.1908 xà bông công ty Minh Tân tung ra thị trường, cạnh tranh rất hiệu quả với xà bông trên thị trường đồng thời, khiến hút thêm số lượng khá lớn cổ đông mới.

Báo Lục Tỉnh Tân Văn số 39 (30.8) thấy rao: “Tổng lý là G. Chiếu ra thông cáo cho biết ai có hùn vốn thì có quyền gởi con đến học nghề, thời hạn học là 7 năm, công ty nuôi cơm nước còn quần áo, mùng mền thì cha mẹ phải chịu. Công ty lo nhà ngủ, nhà ăn cho học trò, đứa nào học giỏi sẽ được hưởng lương tháng, sau đó, khi biết nghề rồi phải giúp việc cho công ty 7 năm”. Trong thời gian biểu học tập thấy ghi rõ các phần học nghề, học chữ quốc ngữ, học chữ “Lang sa”, thời gian luyện tập thể thao và dọn dẹp vệ sinh, cả phần: “Ngày lễ theo đạo Thiên Chúa hoặc theo đạo Thích Ca, học trò được đi làm việc bổn phận”.

Ngoài công ty lớn trên đây, đáng chú ý là hai khách sạn hoạt động với mục đích làm kinh tài cho phong trào, đồng thời cũng là nơi tụ họp để che mắt nhà cầm quyền thực dân: Minh Tân khách sạn ở Mỹ Tho và Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn.

Sôi nổi “công nghiệp hoá”

Cùng với Nam Kỳ Minh Tân công nghệ, một phong trào đưa ra những đề án, những cuộc vận động để thành lập những cơ sở công kỹ nghệ hưởng ứng cuộc Minh Tân nở rộ ở Sài Gòn và nhiều tỉnh Nam kỳ. Xin nêu ra vài cơ sở có tiếng vang đương thời.

Ông Nguyễn An Khương lập ra Chiêu Nam Lầu, tầng dưới bán cơm theo lối bình dân, tầng trên bán cơm sang trọng hơn, tầng trên cùng làm khách sạn.

Công ty nhà in: “Hội này lập ra là có ý muốn mua một cái nhà in để mà in nhật trình, cùng là sách vở và in công việc cho quan làng và người mua bán, sách nói đủ việc cơ xảo, bán giá rẻ cho mọi người, lớn, nhỏ, già, trẻ, nghèo, giàu đều đọc được” (Lời rao trên Lục Tỉnh Tân Văn).

Mỹ Tho Minh Tân túc mễ tổng cuộc: được hình dung như là một tổng công ty xuất khẩu lúa gạo. Người khởi xướng là ông phó tổng Trần Văn Hài ở làng Lương Phú, tổng Thạnh Quới, hạt Mỹ Tho.

Y Dược công ty: hình thức như một cơ sở bào chế Đông Nam dược, làm ra các loại thuốc ta dạng tán, dạng nước, dạng viên, ngâm rượu…

Nam Hoà Thạnh: Hội thương mãi này nhóm đại hội ngày 19.4.1908 tại châu thành Biên Hoà, có mặt 130 ông, góp vốn được 11.500 đồng.

Chợ Lớn Nam Chấn Thành thương xã: số vốn 40.000 đồng, người góp vốn khắp 6 tỉnh Nam kỳ.

Tân Thành thương cuộc: tiệm này ở Bến Tre mua lúa với số lượng nhiều để bán cho nhà máy và xay ra để bán lẻ.

Ngoài việc kêu gọi góp vốn thành lập các cơ sở kinh doanh của người Việt, ông G. Chiếu còn chủ trương lập ở Sài Gòn một tổ chức kinh doanh tài chánh, dạng như một ngân hàng tín dụng. Gọi là Hãng cho vay Sài Gòn – Chợ Lớn.

Sử dụng công cụ báo chí

Để yểm trợ phong trào, một tờ báo công khai ra đời lấy tên là Lục Tỉnh Tân Văn ra hàng tuần. Báo ra ngày 14.11.1907 do ông F.H. Schneider - một chủ nhà in người Pháp sáng lập, ông Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Nhiều nhân sĩ ở các tỉnh Nam kỳ góp bài vở, có người ở miền Trung (ông Hồ Tá Bang) hoặc ở Cao Miên (ông Trương Duy Toản) cũng gởi bài.

Một chi tiết đáng chú ý: năm 1907 ở Hà Nội, Đăng Cổ Tùng Báo, là tờ báo tích cực yểm trợ cho Đông Kinh Nghĩa Thục, đăng tải những bài kêu gọi lòng yêu nước, chống tục lệ phong kiến… Nhưng báo này chỉ ra được 8 tháng thì bị chánh quyền đóng cửa vào ngày 11.11.1907. Vài ngày sau khi Đăng Cổ Tùng Báo chết, tờ Lục Tỉnh Tân Văn ra mắt số 1 tại Sài Gòn.

5. Tan rã và lan tỏa

Đầu năm 1908 (tháng chạp năm Đinh Mùi) Toàn quyền Beau lệnh rút giấy phép Đông Kinh Nghĩa Thục, lấy cớ nơi này có nhiều hoạt động mờ ám, có thể làm cho lòng dân náo động

Nghĩa Thục bị đóng cửa


Trước đó, cuối 1907, thấy nhiều đồng chí hoạt động quá kịch liệt, không còn trong khuôn khổ Nghĩa Thục (mua khí giới chở về Hà thành, đưa thanh niên lên Yên Thế với Đề Thám…), sợ Nghĩa Thục bị đổ vỡ, trong một cuộc họp, Lương Văn Can đề nghị với các hội viên tách làm hai phe, ai ôn hoà thì ở lại, ai muốn bạo động thì biệt lập ra. Đề nghị được mọi người tán thành. Nhưng thực dân Pháp đã nhanh tay hơn.

Cùng với việc rút giấy phép là cuộc bố ráp lục soát, nhưng vì đoán được trước nên trường đã cho thủ tiêu hết những giấy tờ quan trọng, như bản in các bài ca ái quốc và nhất là những sách do Phan Bội Châu từ hải ngoại gởi về. Hầu hết tài liệu này được bí mật chuyển qua nhà ông Phương Sơn ở số 2, ngõ Phất Lộc để thiêu hủy. Không còn bằng cớ gì cụ thể, nên các thầy giáo và học viên chưa ai bị giam cầm.

Ba biến cố quan trọng

Các nhà nho tưởng như thế đã yên, không ngờ chỉ vài tháng sau những biến cố dồn dập xảy ra, khiến hầu hết các nhân vật của Đông Kinh Nghĩa thục đều bị liên lụy.

Trước hết là vụ kháng thuế ở Quảng Nam. Vụ này có ảnh hưởng rất lớn, mở đầu cho những cuộc biểu tình vĩ đại về sau. Hàng vạn quần chúng kéo nhau đến vây Toà sứ ở Quảng Nam, đưa yêu sách đòi giảm thuế. Viên Công sứ không chấp đơn, ra lệnh bắn vào đám đông làm một số người chết. Phong trào nhanh chóng lan ra khắp các tỉnh Trung kỳ. Chính phủ Pháp đổ tội cho Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng xúi giục. Trần Quí Cáp bị bắt đem ra chém tại Nha Trang, Huỳnh Thúc Kháng bị giam ở Hội An, Phan Châu Trinh lúc đó đang ở Hà Nội bị còng tay giải về Huế, chỉ có Phan Bội Châu đang ở Nhật, chúng không làm gì được.

Thứ hai là âm mưu bạo động của Đề Thám. Tháng 6.1908 Pháp dò la biết Đề Thám vẫn liên lạc với Phan Bội Châu, thu dụng thêm nghĩa binh ở miền Thanh Nghệ, lập thêm đồn, mua thên vũ khí, nên ra tay trước: bắt và xử tử 12 người hoạt động cho Đề Thám, sau đó tấn công nghĩa quân. Khi người Pháp cho Đề Thám lập ấp ở vùng Nhã Nam, đó chỉ là giải pháp tạm thời để thăm dò lẫn nhau, chứ không khi nào họ chấp nhận có một khu vực ở Yên Thế lại được tự trị với quân đội, tài chính và hành chính riêng.

Nhưng đáng kể nhất là vụ đầu độc lính Pháp tại Hà Nội ngày 26.6.1908. Đây là một phần trong kế hoạch tấn công Hà Nội của nghĩa quân Đề Thám, nhưng chỉ thực hiện được việc đầu độc, cơ sự bị bại lộ, cuộc tấn công dự kiến từ Sơn Tây và Gia Lâm kéo về đã không thành. Viên Toàn quyền và tướng Tư lệnh tối cao quân đội Pháp cho lập toà án quân sự, gọi là Hội Đồng Đề Hình, quyết xử thật nặng vụ này: bếp Hiên cùng 6 người nữa coi việc nấu ăn trong trại lính Pháp bị xử tử. Nhiều nhà yêu nước của Đông Kinh NghĩaThục cũng bị bắt và đem ra xét xử. Trong bản án của Hội Đồng Đề Hình tuyên ngày 15.10.1908 xử phạt các ông Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại chung thân khổ sai; ông Dương Bá Trạc 15 năm tù; Dương Trọng Nho, Hoàng Tăng Bí 5 năm tù, vì các ông đã liên hệ không ít thì nhiều với âm mưu đầu độc. Tất cả các ông đều bị đày đi Côn Đảo. Khi ra đảo, họ gặp hai ông Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng cũng bị đày ra đây. Người đứng đầu Đông Kinh Nghĩa Thục là Lương Văn Can cũng bị bắt, vì không đủ chứng cứ buộc tội nên được thả ra sau đó. Nhưng đến sau vụ ném tạc đạn ở Hà Nội ngày 23.4.1913 cụ lại bị buộc tội và đày lưu xứ qua Nam Vang 10 năm. Một số nhà chí sĩ có cảm tình với Nghĩa Thục cũng bị vạ lây: Ngô Đức Kế bị đày ra Côn Đảo 14 năm, Nguyễn Thượng Hiền phải trốn qua Trung Quốc…

Bế cửa Đông du

Chính phủ Pháp muốn tiêu diệt hẳn phong trào cách mạng, nên không chỉ đàn áp ráo riết phong trào trong nước mà còn tìm mọi cách triệt phá tận gốc phong trào Đông du. Dựa vào hiệp ước đã ký, Pháp đề nghị Nhật giao cho họ những người lãnh đạo phong trào, giải tán và trục xuất các học sinh Việt Nam. “Vì gặp nhiều khó khăn tài chánh sau chiến tranh Nga – Nhật, chánh phủ Nhật phải nhìn nhận tất cả các thuộc địa của Pháp tại Á châu với hiệp ước ngày 10.7.1907, để đổi lấy một ngân khoản là 300 triệu quan tiền mà Pháp đã cho Nhật vay. Không bao lâu sau, chánh phủ Nhật tỏ ý không muốn sung nạp các cựu học sinh Việt Nam nữa” .

Trước tình thế trên, Phan Bội Châu thu xếp cho nhiều thanh niên Đông du tiếp tục sang Trung Quốc và Thái Lan. Năm 1909 Phan Bội Châu qua Bangkok, Kỳ ngoại hầu Cường Để cải trang làm bồi bàn về nước, được Nguyễn An Khương và Nguyễn An Cư đón ở Vũng Tàu, đưa về Sài Gòn và sau đó chu du nhiều nơi ở Nam kỳ để vận động tiền bạc và tổ chức lực lượng.

Dư âm

Trừ ông Lê Đại, do thực dân căm ghét tài làm thơ nôm châm chọc của ông mà đày ông đến 15 năm ở Côn Đảo, còn lại, năm 1910, những nhân vật của Nghĩa Thục đều được tha về đất liền nhưng đều phải biệt xứ. Ông Nguyễn Quyền bị an trí ở Bến Tre, Dương Bá Trạc ở Long Xuyên, Võ Hoành ở Sa Đéc. Cũng trong năm đó, nhờ những vận động của Hội nhân quyền Paris, Phan Châu Trinh được ân xá nhưng phải an trí ở Mỹ Tho, sau đó, khi được trả tự do hoàn toàn, ông đã tìm đường sang Pháp.

Nhờ tư cách cùng chí khí, các nhà cách mạng Nghĩa Thục khi bị an trí trong Nam đều được đồng bào kính trọng. Đông đảo những người ngưỡng mộ đã cho con em theo học. Một số đông các nhà cách mạng từ 1925 trở về sau vẫn tự hào là hồi nhỏ đã được các ông dạy bảo. Thực dân Pháp đâu ngờ án đày biệt xứ lại giúp các ông gieo mầm cách mạng ở nơi khác.
 
Nguyễn Trọng Tín (Sài Gòn tiếp thị)
_________________________________
Chú thích:

(1) Gác tẩu mã: gác lớn mà các nhà Hà Nội xưa thường có. Sở dĩ gọi là gác tẩu mã, vì nó rộng và dài, như có thể cho ngựa chạy trên đó được. 

(2) Ông còn có tên là Nguyễn Hàm, hiệu Tiểu La, người làng Thạnh Mỹ (Quảng Nam), vừa là sáng lập viên Duy Tân hội, vừa là người phụ trách phong trào Đông du, năm 1908 bị đày ra Côn Đảo, mất ngoài đảo năm 1911. 

(3) Lương Nghị Khanh là con thứ tư của Lương Văn Can, rất thông minh, 17 tuổi đã đậu tú tài, người quen thường gọi là Tú con.

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

Viết từ ngục Birmingham

Lời Giới Thiệu: Đây là lá thư Mục sư Martin Luther King (MLK) viết từ nhà tù tại Birmingham để trả lời những mục sư da trắng trong Giáo hội Tin Lành về chủ trương và hành động "đấu tranh bất bạo động" cho dân quyền của người Da Đen tại Mỹ. Lá thư viết từ Ngục Birmingham có đầy đủ tính chất của một bài diễn văn tuyệt tác, dù MLK không trình bày bài diễn văn này trước công chúng.

 _________________________________________

Ngày 16 tháng Tư, năm 1963

Quý vị Mục sư thân mến,

 
Trong lúc này đây, khi tôi đang ngồi trong phòng giam của thành phố Birmingham, tôi đọc được bản tuyên bố gần đây nhất của quý vị cho rằng những hoạt động hiện nay của tôi là "thiếu khôn ngoan" và "không đúng lúc." [Trong công việc hàng ngày,] rất ít khi tôi dừng lại để trả lời những lời chỉ trích về công việc tôi đang làm hay những ý tưởng của tôi. Nếu tôi mà trả lời tất cả những thư từ chỉ trích, thì có lẽ cô thư ký của tôi sẽ chẳng còn thì giờ làm việc gì khác ngoài việc đánh máy thư trả lời suốt ngày, và tôi cũng chẳng còn thì giờ để làm những công việc có tính cách xây dựng. Nhưng vì tôi cảm thấy rằng quý anh em là những người thực sự có thiện ý và những lời chỉ trích của anh em là những lời lẽ chân thành, tôi muốn trả lời thư của anh em bằng những lời lẽ chừng mực và có tình có lý.

Tôi nghĩ rằng tôi phải nêu lên lý do tại sao tôi lại có mặt ở Birmingham, vì quý anh em đã bị ảnh hưởng bởi cái quan điểm chống lại "những người ngoài xía vô." Tôi được vinh dự làm chủ tịch của Hội đồng Lãnh đạo Giáo hạt miền Nam, một tổ chức hoạt động trên mọi tiểu bang miền Nam, có trụ sở trung ương tại thành phố Atlanta, bang Georgia. Chúng tôi có khoảng 85 các chi hội trải khắp miền Nam, và một trong những tổ chức này là Phong trào Cơ đốc Đòi Nhân quyền tại Alabama. Chúng tôi thường xuyên chia sẻ với các chi hội những phương tiện tài chánh, giáo dục, và cả nhân sự nữa. Cách đây vài tháng, chi hội Birmingham đã yêu cầu chúng tôi chuẩn bị tham gia vào một chương trình hành động trực tiếp bất-bạo động, nếu tình hình đòi hỏi. Chúng tôi đã sẵn lòng đồng ý tham gia, và khi thời điểm đến, thì chúng tôi thực hiện như đã hứa. Như vậy, tôi, và vài thành viên trong văn phòng của tôi tới đây, vì chúng tôi được mời tới đây. Tôi có mặt ở đây vì tôi có mối quan hệ về tổ chức với chi hội ở đây.

Nhưng căn bản hơn, tôi có mặt tại Birmingham bởi vì sự bất công đang diễn ra ở đây. Cũng giống như những nhà tiên tri vào thế kỷ thứ tám trước Thiên Chúa giáng sinh đã bỏ làng mạc của họ và mang theo lời tiên tri "Chúa đã phán rằng" để rao giảng ra ngoài biên giới quê hương của họ, và cũng giống như Thánh tông đồ Phao-lô đã rời bỏ làng Tarsus của mình để rao truyền phúc âm của Chúa Jesus tới tận cùng biên giới của thế giới Hy-La, tôi bị thôi thúc phải rao truyền phúc âm của tự do ra bên ngoài làng mạc của tôi. Cũng như Thánh Phao-lô, tôi phải luôn luôn đáp ứng lời kêu gọi giúp đỡ của anh em ở Macedonia.

Hơn nữa, tôi biết rõ mối quan hệ hỗ tương giữa tất cả mọi cộng đồng và tiểu bang. Tôi không thể ngồi rỗi ở Atlanta và chẳng hề bận tâm gì đến những chuyện đang xảy ra tại Birmingham. Một sự bất công ở bất cứ nơi nào cũng là mối de dọa đến công lý ở mọi chốn. Chúng ta khi sinh ra đã bị mắc míu vào một mạng lưới hỗ tương không thể nào tránh được, bị dệt chung vào trong cùng một tấm vải của định mệnh. Bất cứ điều gì xảy đến trực tiếp cho một ai cũng đều có ảnh hưởng gián tiếp đến mọi người. Trong thời đại này, chúng ta không thể sống với cái tư tưởng địa phương, hẹp hòi phân biệt "kẻ khuấy động bên ngoài" với người trong một xứ nữa. Bất cứ ai đang sống trong nước Mỹ không thể bị coi là kẻ lạ tại bất kỳ nơi nào nằm trong vòng biên giới của quốc gia.

Quý anh em chê trách cuộc biểu tình diễn ra tại Birmingham. Nhưng trong tuyên bố của anh em, tôi rất tiếc phải nói rằng, đã không thể hiện mối quan tâm một cách tương xứng với điều anh em chê trách; đó là những điều dẫn đến những cuộc biểu tình này. Tôi chắc chắn rằng không một ai trong anh em lại hài lòng với những phân tích xã hội hời hợt chỉ nhìn tới hậu quả mà không chú trọng đến những nguyên nhân cơ bản. Rất tiếc là đã có những cuộc biểu tình diễn ra ở Birmingham, nhưng điều đáng tiếc hơn là hệ thống chính quyền thành phố nằm trong tay những người Da trắng đã khiến cho cộng đồng Da đen không còn lựa chọn nào khác.

Trong bất kỳ một chiến dịch bất bạo động nào cũng có bốn bước: thứ nhất, thu thập dữ kiện nhằm xác định quả thật đang có những bất công; thứ hai, đàm phán; thứ ba, tự thanh tẩy; và cuối cùng, hành động trực tiếp. Chúng tôi đã tuần tự đi qua hết bốn bước vừa kể tại Birmingham. Một sự thật không thể chối cãi được là sự bất công chủng tộc đang bao trùm cộng đồng này. Birmingham có lẽ là một trong những vùng có sự tách biệt chủng tộc triệt để nhất tại Mỹ. Cái hồ sơ xấu xí về sự tàn bạo của Birmingham ai ai cũng biết. Những người Da đen đã chịu những sự đối xử cực kỳ bất công nơi tòa án. Rất nhiều vụ ném bom vào nhà và nhà thờ của dân Da đen mà không biết ai là thủ phạm đã xảy ra tại Birmingham nhiều hơn bất kỳ thành phố nào trong nước. Đó là những sự thật tàn bạo và vững chắc của sự bất công [đang diễn ra tại đây]. Trên căn bản của những điều này, những nhà lãnh đạo Da đen đã tìm cách thương thuyết với các nhà lãnh đạo của thành phố. Nhưng họ đã một mực từ chối thương thảo với thành ý.

Thế rồi tháng Chín vừa rồi chúng tôi có cơ hội nói chuyện với những nhà lãnh đạo kinh tế của Birmingham. Trong quá trình đàm phán, những nhà buôn này đã hứa một số điều, thí dụ như là dẹp bỏ những tấm bảng có tính chất lăng mạ sắc tộc treo trước cửa tiệm của họ. Trước những hứa hẹn này, Mục sư Fred Shuttlesworth và các vị lãnh đạo Phong trào Cơ đốc Alabama Đòi Nhân quyền đã đồng ý ngưng tất cả những cuộc biểu tình. Nhưng những tuần và tháng trôi qua, chúng tôi mới thấy mình là nạn nhân của một sự bội ước. Một vài tấm bảng được tháo xuống trong chốc lát, rồi lại được treo lên. Những tấm bảng khác vẫn còn nằm nguyên trước cửa tiệm. Cũng giống như bao nhiêu kinh nghiệm trong quá khứ, niềm hy vọng của chúng tôi bị vỡ tan, và bóng tối của sự thất vọng sâu xa bao trùm lên tất cả mọi người. Chúng tôi không còn cách nào khác hơn là chuẩn bị cho những hành động trực tiếp, để qua đó, dùng chính thân xác chúng tôi làm phương tiện trình bày nguyện vọng của mình trước lương tâm của cộng đồng địa phương và lương tâm của cả nước. Biết trước những khó khăn chờ đợi, chúng tôi quyết định thực hiện một tiến trình tự thanh tẩy. Chúng tôi bắt đầu học tập về đấu tranh bất bạo động, và liên tục tự hỏi chính mình là "Tôi có sẵn sàng chịu sự đánh đập mà không phản ứng không?" "Tôi có sẵn sàng chấp nhận tù đầy chăng?" Chúng tôi quyết định chọn ngày cho chiến dịch hành động trực tiếp vào dịp Lễ Phục Sinh vì ngoài Lễ Giáng Sinh, đây là mùa lễ và dịp mua sắm lớn trong năm. Chúng tôi biết rằng chương trình hành động trực tiếp sẽ có ảnh hưởng phụ đến việc mua bán, cho nên đây là thời điểm tốt nhất để tạo áp lực lên những chủ tiệm nhằm đòi hỏi những đổi thay cần thiết.

Nhưng rồi chúng tôi biết được là sẽ có cuộc bầu cử thị trưởng Birmingham vào tháng Ba, thế là chúng tôi quyết định ngưng các hoạt động lại cho đến sau ngày bầu cử. Khi chúng tôi biết được Chủ tịch Ủy ban An ninh Công cộng, ông Eugene "Bull" Connor, có đủ số phiếu để vào vòng bầu cử kỳ hai, chúng tôi lại quyết định dừng các cuộc biểu tình cho đến sau kỳ bầu cử lần thứ hai để khỏi ảnh hưởng đến cuộc bầu cử. Cũng như nhiều người khác, chúng tôi chờ kết quả ông Connor bị thất cử, và chúng tôi đã phải đình hoãn hết lần này sang lần khác. Vì đã tham gia giúp đỡ cho nhu cầu của cộng đồng ở đây, chúng tôi cảm thấy rằng chiến dịch hành động trực tiếp không thể bị đình hoãn nữa.

Quý anh em sẽ hỏi rằng: "Tại sao lại hành động trực tiếp? Tại sao lại diễn hành, tại sao lại biểu tình ngồi lì tại chỗ, vân vân? Chẳng phải thương thảo là con đường tốt đẹp hơn chăng?" Các anh em rất có lý khi kêu gọi thương thuyết. Thực ra, đó chính là mục đích của hành động trực tiếp. Hành động trực tiếp bất bạo động là nhằm tạo ra một tình trạng căng thẳng và tạo ra một bước ngoặt khiến cho một cộng đồng đã từng liên tục từ chối thương thuyết phải đối phó và giải quyết vấn đề. Hành động trực tiếp nhằm gây ấn tượng và xúc động mạnh mẽ khiến vấn đề của chúng tôi không còn tiếp tục bị bỏ qua. Khi nói tạo căng thẳng là một mục tiêu của những người tranh đấu bất bạo động, tôi biết có một số anh em sẽ khó chịu. Nhưng tôi phải thú thật là tôi không e ngại gì hết khi dùng đến từ "căng thẳng." Tôi đã từng nhiệt liệt chống lại sự căng thẳng của bạo động, nhưng cũng có một loại căng thẳng bất bạo động có tính chất xây dựng rất cần thiết cho sự trưởng thành. Điều này cũng giống như khi Socrates thấy rằng cần phải tạo ra sự căng thẳng trong tâm trí để người ta có thể vượt lên khỏi sự trói buộc của những điều hoang tưởng và những sự thật nửa vời hầu tiến tới một tâm tư được giải phóng bởi những phân tích sáng tạo và đánh giá khách quan. Vì thế chúng tôi thấy có nhu cầu tạo ra những khó chịu bất bạo động để tạo ra một sự căng thẳng trong xã hội hầu giúp cho ta vượt lên khỏi trũng tối tăm của thành kiến và kỳ thị chủng tộc để tiến tới được đỉnh vinh quang của cảm thông và tình huynh đệ. Mục đích của chiến dịch hành động trực tiếp là tạo ra một tình trạng chứa đầy tiềm năng gây ra khủng hoảng để rốt cuộc sẽ mở ra được cánh cửa thương thảo. Tôi nhất trí với lời kêu gọi thương thảo của anh em. Đã quá lâu rồi miền Nam thân yêu của chúng ta bị sa vào một vũng lầy thê thảm phải sống trong độc thoại chứ không được đối thoại.

Một trong những điểm căn bản trong bản tuyên bố của quý anh em là hành động mà tôi cùng những cộng sự viên của tôi đã làm tại Birmingham là không đúng lúc. Có người đã hỏi: "Tại sao các anh không để cho chính quyền mới của thành phố có đủ thì giờ để trả lời?" Câu trả lời duy nhất mà tôi có thể đưa ra là cái chính quyền mới này cũng phải bị hối thúc liên tục như chính quyền tiền nhiệm, trước khi nó có một hành động nào đó. Chúng tôi đã lầm lẫn một cách tội nghiệp khi cảm thấy rằng sự đắc cử thị trưởng của ông Albert Boutwell sẽ mang lại một kỷ nguyên mới cho Birmingham. Dù ông Boutwell là một người được xem là hòa nhã hơn ông Connor nhiều, cả hai đều là những người theo chủ nghĩa phân cách [chủng tộc], cùng dùng hết sức mình để bảo vệ cho cái tình trạng phân chủng hiện nay. Tôi đã hy vọng là ông Boutwell sẽ là người biết điều để thấy được tính vô vọng của những nỗ lực, dù rất lớn lao, nhằm chống lại tiến trình xóa bỏ phân biệt chủng tộc. Nhưng ông ấy sẽ không nhận thức được điều này nếu không có áp lực từ phía những người đấu tranh cho dân quyền. Thưa quý anh em, tôi phải thưa với quý anh em rằng chúng tôi chưa đạt được một thành quả đơn độc nào về dân quyền mà lại không sử dụng đến áp lực bất bạo động và những hành động pháp lý kiên quyết. Tiếc thay, có một sự thật lịch sử là những nhóm đặc quyền sẽ chẳng bao giờ tự ý từ bỏ những đặc quyền của họ. Những cá nhân có thể thấy được ánh sáng của đạo đức và tự nguyện từ bỏ địa vị bất công của họ, nhưng cũng như Reinhold Niebuhr đã từng nhắc nhở chúng ta, những nhóm người được hưởng đặc quyền lại thường tỏ ra vô lương hơn những cá nhân rất nhiều.

Chúng tôi đã biết qua những kinh nghiệm đau thương rằng tự do chẳng bao giờ được những kẻ đàn áp tự nguyện trao trả mà phải do những người bị đàn áp đòi hỏi. Thực ra, đối với những ai chưa từng bị đau khổ quá mức từ căn bệnh phân biệt chủng tộc, thì chưa bao giờ có một chiến dịch hành động trực tiếp nào mà tôi đã tham gia được xem là "đúng lúc" cả. Hàng bao nhiêu năm qua, tôi đã nghe lời kêu gọi "Đợi đã!" Lời kêu gọi này vang vọng trong tai của mỗi một người Da đen với âm thanh nhức nhối. Lời kêu gọi "Đợi đã" hầu như luôn luôn có nghĩa "Không bao giờ." Chúng tôi phải đến, cùng với một trong những nhà luật học của chúng tôi, đến để thấy rằng "công lý bị đình hoãn quá lâu tức là công lý đã bị phủ nhận."

Chúng tôi đã đợi để có cái quyền mà hiến pháp và Thượng Đế ban cho chúng tôi hơn 340 năm qua. Những nước Á và Phi châu đang nhanh chóng giành được độc lập chính trị với vận tốc phản lực, còn chúng tôi vẫn ì ạch bò với tốc độ của chiếc xe thổ mộ ngõ hầu có được một chỗ ngồi uống cà phê tại quầy bán cơm trưa. Có lẽ đối với những người chưa từng chịu những mũi tên nhức nhối của phân chủng thì rất dễ dàng cho họ thốt lên câu "Hãy đợi đã." Nhưng khi quý anh em thấy cha mẹ của mình bị đám côn đồ ác ôn treo cổ bất cứ khi nào chúng thích; thấy anh chị em của mình bị chúng dìm chết dưới nước tùy theo hứng; thấy những cảnh sát viên lòng chứa đầy thù hận chủi bới, đánh đập và ngay cả giết những người anh em da đen của mình; thấy đa số trong số 20 triệu anh em da đen đang bị bóp nghẹt trong cái cũi nghèo khó ngột ngạt của một xã hội giàu có; thấy lưỡi mình líu lại không nói nên lời khi phải giải thích cho đứa con gái sáu tuổi của mình tại sao cháu không được vào khu giải trí công cộng đang được quảng cáo trên TV, và  nhìn thấy mắt lệ đoanh tròng của cháu khi biết là khu hội chợ không cho trẻ em da màu vào chơi, và thấy đám mây tự ti mặc cảm làm vẩn đục trí óc ngây thơ, rồi thấy cháu bóp méo nhân cách của mình vì trong vô thức đã trở nên thù hận và cay đắng đối với người da trắng; thấy mình phải bịa ra câu trả lời đứa con trai năm tuổi khi cháu hỏi, "Bố ơi, sao người da trắng đối với người da màu lại ác độc như thế?"; thấy mình phải ngủ lại qua đêm trên băng ghế chật hẹp trong xe trong những chuyến viễn hành vì không một quán trọ nào chịu chứa; thấy mình bị lăng nhục hết ngày này qua ngày khác bởi những tấm bảng "da trắng" và "da màu;" thấy mình bị gọi là "thằng mọi đen" họ "John" và vợ và mẹ của mình không bao giờ được gọi bằng "bà;" thấy mình bị xách nhiễu ngày đêm chỉ vì là người da đen, luôn luôn bất an vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra và bị ám ảnh bởi một nỗi sợ hãi tự nội tâm và phẫn uất đối với hoàn cảnh bên ngoài; thấy mình luôn luôn phải chiến đấu với cảm giác mình chỉ là những kẻ thấp hèn, vô dụng--thì quý anh em mới hiểu được tại sao chúng tôi thấy khó mà chờ đợi thêm nữa. Sẽ có lúc khi chén chịu đựng đã đầy tràn và người ta không còn chịu được cảnh bị dìm vào đáy vực của tuyệt vọng. Tôi hy vọng, thưa quý anh em, rằng quý anh em thông cảm được sự thiếu kiên nhẫn hợp pháp và tất yếu phải xảy ra của chúng tôi.  Quý anh em đã tỏ ra rất lo âu khi thấy chúng tôi sẵn sàng vi phạm luật pháp. Đó là nỗi lo âu hợp lý. Vì chúng tôi cố gắng khuyên nhủ mọi người tuân theo phán quyết của Tối cao Pháp viện năm 1954[1] ngăn cấm sự phân cách chủng tộc trong học đường, thành thử bảo chúng tôi cố tình vi phạm luật pháp là một điều có vẻ mâu thuẫn. Quý anh có thể hỏi rằng: "Các anh làm thế nào để vừa kêu gọi vi phạm một số luật lệ này, vừa tuân theo một số luật khác?" Câu trả lời nằm trong một sự thật hiển nhiên là đã có hai loại luật pháp: công bằng và bất công. Tôi sẽ là người đầu tiên kêu gọi mọi người hãy tuân phục những điều luật công bằng. Và ngược lại, ta có trách nhiệm đạo đức để bất tuân những luật lệ bất công. Tôi đồng ý với Thánh Augustine khi cho rằng "một đạo luật bất công thì không phải là luật pháp."

Thế thì đâu là sự khác nhau giữa hai đạo luật này? Ta làm thế nào để xác định thế nào là một luật lệ công bằng hay bất công? Luật pháp công chính là những quy phạm con người đặt ra mà phù hợp với quy luật đạo đức và luật của Thượng Đế. Luật pháp bất công là những điều không hòa hợp với quy luật đạo đức. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Thomas Aquinas: Luật pháp bất công là những luật do con người làm ra mà không xuất phát từ luật tự nhiên và luật của vĩnh cửu. Bất cứ luật lệ nào nâng cao nhân cách của con người là luật công chính. Bất cứ luật lệ nào làm mất phẩm giá của con người là luật pháp bất công. Tất cả những đạo luật về phân cách chủng tộc đều bất công vì phân cách chủng tộc làm biến dạng tâm hồn và hư hoại nhân cách. Những đạo luật đó tạo cho kẻ phân cách một cảm tưởng sai lầm là họ cao cả và những người bị phân cách một cảm giác sai lầm là họ thấp hèn. Sự phân cách chủng tộc, nói theo thuật ngữ của triết gia Do Thái Martin Buber, đã thay thế quan hệ "Tôi và Anh" bằng quan hệ "Ta và Nó," và cuối cùng đưa đến sự thay thế nhân vị bằng vật vị. Như thế sự phân cách chủng tộc không những không chính đáng về phương diện chính trị, kinh tế và xã hội, nó còn là sự sai lầm mang tính đạo đức và là tội lỗi nữa. Paul Tillich[2] đã nói rằng tội lỗi chính là sự phân cách. Chẳng phải sự phân cách chủng tộc là sự thể hiện bi thảm của sự phân cách của con người, sự xa rời Thượng Đế, và là một tội lỗi kinh khủng của con người hay sao? Chính vì thế mà tôi kêu gọi mọi người hãy tuân theo phán quyết 1954 của Tối cao Pháp viện, vì đó là phán quyết đúng đắn về đạo lý, và tôi kêu gọi anh em hãy bất tuân những điều luật phân cách chủng tộc vì chúng là những điều sai trái về đạo lý.

Hãy xét một thí dụ cụ thể hơn về luật lệ công chính và bất công. Một đạo luật bất công là một đạo luật mà một nhóm đa số hay có quyền lực buộc một nhóm thiều số phải tuân theo nhưng chính mình thì lại không bị điều luật đó ràng buộc. Đó là sự khác nhau đã được hợp pháp hóa. Tương tự như thế, một đạo luật công chính là một đạo luật mà đa số buộc thiểu số phải tuân theo và đa số cũng sẵn lòng tuân theo đạo luật ấy. Đó là sự đồng nhất đã được hợp pháp hóa. Hãy xem một thí dụ nữa. Một đạo luật bất công là đạo luật gây thương tổn cho một thiểu số, khiến cho họ không có quyền bầu cử, và kết quả là không được dự phần vào việc làm luật và thi hành luật pháp. Ai dám bảo rằng cơ quan lập pháp của Alabama, cơ quan đã ban hành luật phân cách chủng tộc, là một cơ quan được bầu ra một cách dân chủ? Trong toàn tiểu bang Alabama đủ mọi mánh khóe đã được sử dụng để ngăn không cho người da đen ghi danh trở thành cử tri, và ngay cả ở một số quận mà người da đen chiếm đa số, không có được một cử tri người da đen. Ta có thể cho rằng những luật lệ được ban hành trong những tình trạng như vậy là dân chủ không?

Cũng có khi một đạo luật trên bề mặt thì công chính nhưng khi áp dụng thì bất công. Thí dụ, tôi đã bị bắt về tội đi biểu tình không có giấy phép. Không có điều gì sai trong việc đòi hỏi phải có giấy phép đi biểu tình hết. Nhưng một điều luật như vậy trở nên bất công khi nó được sử dụng để duy trì tình trạng phân chủng và để phủ nhận quyền được phản đối và hội họp ôn hòa của công dân, một quyền đã được Tu chính án thứ Nhất ghi nhận.

Tôi hy vọng quý anh em thấy được sự khác biệt tôi vừa nêu ra. Tôi chưa hề bao giờ cổ võ cho sự tránh né hay bất tuân luật pháp như những người chủ trương phân chủng điên cuồng đang cáo buộc. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ. Những ai muốn chống lại một đạo luật bất công phải công khai thực hiện với tấm lòng yêu thương và sẵn sàng chấp nhận hình phạt. Tôi trịnh trọng thưa rằng bất cứ một cá nhân nào chống lại một đạo luật mà lương tâm cho là bất công, và sẵn sàng chấp nhận đi tù để đánh thức lương tâm của cả cộng đồng về sự bất công của đạo luật đó, thì người đó mới thực sự là người thể hiện tinh thần trọng pháp cao độ nhất.

Dĩ nhiên, dân sự bất phục tùng không phải là điều gì mới lạ. Một thí dụ hùng hồn là sự từ chối của ba anh em Shadrach, Meshach và Abednego khi họ không tuân theo luật lệ của vua Nebuchadnezzar,[3] vì làm như vậy là phạm vào một điều luật đạo đức cao hơn. Những con chiên của Chúa từ thưở xa xưa đã thực hiện những hành vi dân sự bất phục tùng một cách hiên ngang trước hàm sư tử và trước cọc xử trảm chứ không khuất phục trước những luật pháp bất công của Đế quốc La Mã. Ta có thể so sánh, sự tự do trong học thuật trở thành một thực thể hôm nay là bởi vì Socrates đã thực thi dân sự bất phục tùng. Trong đất nước của chúng ta, Nhóm Phản đối Thuế Trà ở Boston đại diện cho một hành vi dân sự bất phục tùng vĩ đại.[4]

Chúng ta cũng không bao giờ nên quên là mọi điều Hitler làm ở nước Đức đều "hợp pháp" và mọi điều những người Hung tranh đấu cho tự do đang thực hành tại Hungary đều bị xem là "bất hợp pháp." Giúp đỡ và cưu mang một người Do Thái trong nước Đức của Hitler là "bất hợp pháp." Dù vậy, tôi dám chắc rằng nếu tôi sống tại nước Đức vào thời đó, tôi cũng sẽ giúp đỡ và cưu mang những người anh em Do Thái. Nếu ngày hôm nay tôi sống trong một nước Cộng sản, nơi mà những nguyên tắc chính yếu, thiết thân đến đức tin Ky-tô bị đàn áp, thì tôi cũng sẽ công khai kêu gọi bất phục tùng những đạo luật phi tôn giáo của nước đó.

Tôi có hai điều phải thú thật với quý anh em tín hữu và Do thái. Trước hết, tôi phải thú nhận rằng trong vài năm qua tôi đã thất vọng cực độ với những người Da trắng ôn hòa. Có lúc gần như tôi đã phải đi đến một kết luận đáng tiếc là vật chướng ngại lớn nhất trên bước đường tiến tới tự do của người Da đen không phải là Ủy ban Công dân Da trắng hay nhóm Ku Klux Klan, mà chính là những người da trắng ôn hòa, những người quan tâm nhiều đến "trật tự" hơn là công lý; những người đó thích sự yên ổn tiêu cực hơn, một sự yên ổn trong đó không có những căng thẳng của một sự yên ổn tích cực tức là có sự hiện hữu của công lý; những người đó luôn nói rằng: "Tôi đồng ý với mục đích của các anh, nhưng không đồng ý với phương thức hành động trực tiếp;" những người đó là những người có thái độ "kẻ cả" nghĩ rằng họ có thể sắp đặt thời biểu ban phát tự do cho người khác; những người đó sống trong một khái niệm thời gian hoang tưởng và luôn luôn khuyên nhủ người Da đen hãy đợi "một lúc nào thuận tiện hơn." Sự hiểu biết nông cạn của những người có thiện tâm còn làm cho ta uất ức hơn là sự hiểu lầm tuyệt đối của những người có ác ý. Sự chấp nhận hời hợt còn gây hoang mang nhiều hơn là sự cự tuyệt thẳng thừng.

Tôi đã hy vọng là những người da trắng ôn hòa hiểu rằng mục đích của luật pháp và trật tự là để tạo ra công lý và khi thất bại trong mục đích này, thì luật pháp và trật tự lại trở thành một con đê nguy hiểm ngăn chặn dòng tiến hóa của xã hội. Tôi đã hy vọng những người da trắng ôn hòa hiểu rằng sự căng thẳng hiện nay tại miền Nam là một giai đoạn chuyển tiếp cần thiết từ một sự bình an tiêu cực và xấu xa, một sự bình an mà những người Da đen đành chấp nhận số phận bất công của họ, sang một sự bình an tích cực và có thực, một sự bình an mà nhân cách và phẩm giá của mọi người đều được tôn trọng. Thực sự mà nói, chúng tôi, những người tham gia đấu tranh bất bạo động không phải là những người tạo ra căng thẳng. Chúng tôi chỉ phơi bầy ra cho mọi người thấy một sự căng thẳng đang bị che dấu. Chúng tôi phơi bày sự căng thẳng này ra ánh sáng để mọi người cùng thấy và phải cùng giải quyết. Giống như một mụt nhọt sẽ không bao giờ được chữa lành nếu ta cứ giấu giếm nó mà phải được phơi bày ra với đầy đủ những ung thối của nó để được liều thuốc thiên nhiên là ánh sáng và không khí chữa lành, sự bất công cũng phải được phơi bày ra trước ánh sáng của lương tâm con người và không khí của công luận, dù sự phơi bày này có tạo ra rất nhiều căng thẳng, trước khi căn bệnh này được chữa lành.

Trong lời tuyên bố, quý anh đã xác quyết rằng hành động của chúng tôi, dù mang tính chất hòa bình, cũng phải bị lên án vì những hành động đó sẽ dẫn đến bạo động. Nhưng sự xác quyết này có hợp lý không? Chẳng phải lý luận này cũng giống như lên án người bị cướp vì tiền bạc của anh ta dẫn đến hành vi xấu xa của kẻ cướp? Chẳng phải lý luận này cũng giống như lên án Socrates vì sự kiên định trên đường tìm chân lý và những thắc mắc triết học của ông dẫn đến hành động mù quáng của đám đông khi bắt ông phải uống thuốc độc? Chẳng phải lý luận này cũng giống như lên án Jesus vì thiên tính của Người và sự hiến thân không ngừng nghỉ để phụng sự ý chỉ Thiên Chúa của Người lại dẫn đến kết quả bị đóng đinh trên thập giá? Chúng ta phải thấy rằng, như toà án liên bang đã liên tục khẳng định, đó là một điều sai trái khi ép buộc một người ngừng nỗ lực đòi hỏi những quyền hiến định căn bản của mình chỉ vì sự đòi hỏi này sẽ dẫn đến bạo động. Xã hội phải bảo vệ nạn nhân và trừng trị kẻ cướp.

Tôi đã hy vọng rằng những người da trắng ôn hòa sẽ từ khước thẳng thừng cái huyền thoại cho rằng sự đấu tranh cho tự do phải đợi đúng thời điểm. Tôi nhận được một lá thư từ một người anh em da trắng ở Texas. Lá thư viết như thế này: "Tất cả Ky-tô hữu biết rằng những người da màu rồi ra sẽ nhận được quyền bình đẳng, nhưng có lẽ anh đã quá hấp tấp trong đức tin. Thiên Chúa giáo đã phải mất gần hai ngàn năm mới đạt đến trình độ ngày hôm nay. Những điều đức Jesus dạy không đến với trần gian này trong một sớm một chiều." Thái độ của người anh em này phát xuất từ một sự ngộ nhận về thời gian, từ một ý niệm phi lý một cách lạ lùng là trong dòng chảy của thời gian, rốt cuộc sẽ có một điều gì đó chữa lành mọi tật bệnh. Thực ra, thời gian tự nó không thiên về đâu hết; nó có thể được dùng để xây dựng hay phá hoại. Càng ngày tôi càng cảm thấy rằng những người có ác ý sử dụng ý niệm thời gian một cách hữu hiệu hơn những người có thiện tâm. Ta phải thay đổi thế hệ này không phải chỉ vì những lời lẽ hận thù hay vì hành động của những người xấu, nhưng vì sự im lặng đáng kinh ngạc của những người tốt. Sự tiến bộ của con người chưa bao giờ lăn trên bánh xe tất yếu của lịch sử mà trên những nỗ lực không ngừng nghỉ của những người sẵn lòng trở thành những người thợ đồng lao với Thiên Chúa, và nếu không có những nỗ lực này, thì thời gian, chính nó sẽ trở thành đồng minh của những lực cản xã hội. Ta phải sử dụng thời giờ một cách sáng tạo, với ý thức rằng làm việc phải thì luôn luôn đúng lúc. Bây giờ là lúc để thể hiện lời hứa của dân chủ và chuyển hóa khúc bi ca của quốc gia chúng ta thành khúc thi thiên của tình huynh đệ. Bây giờ là lúc phải vực dậy cái chính sách của quốc gia chúng ta ra khỏi vũng lầy của bất công chủng tộc và đặt nó lên trên hòn đá tảng của phẩm giá của con người.

Quý anh em cho rằng hoạt động của chúng tôi ở Birmingham là cực đoan. Trước hết phải nói là tôi khá thất vọng khi thấy có những anh em tu sĩ cho là những nỗ lực bất bạo động của tôi là những hoạt động của một kẻ cực đoan. [Điều này khiến tôi] phải suy nghĩ về một sự kiện là tôi đang đứng ở giữa hai lực đối nghịch trong cộng đồng người da đen. Một bên là sự tự mãn, một phần tạo nên bởi những người da đen mà sau những năm dài bị đàn áp đã bị "xuất huyết" hết lòng tự trọng và ý thức nhân vị của mình và đã tự điều chỉnh để sống với sự phân cách chủng tộc; một phần khác tạo nên bởi những người da đen trung lưu, những người nhờ vào học vị và có sự bảo đảm về kinh tế, và một cách nào đó thủ lợi nhờ sự phân chủng, đã trở nên dửng dưng trước những vấn nạn của đa số người da đen. Bên kia là lực của lòng thù hận và cay đắng đã dâng lên gần đến mức nguy hiểm của bạo động. Nguồn lực này được thể hiện qua những nhóm quốc gia da đen đang mọc lên trên khắp nước. Nhóm lớn nhất và nhiều người biết đến nhất là Phong trào Hồi giáo Elijah Muhamad.

Tôi đã cố gắng đứng giữa hai thế lực đối nghịch đó, và nói với hai phe rằng chúng ta không cần bắt chước thái độ "vô cảm" của những kẻ tự mãn hay sự thù hận và tuyệt vọng của thành phần quốc gia da đen quá  khích. Bởi vì có một phương cách tuyệt hảo hơn, phương cách của lòng yêu thương và phản đối bất bạo động. Tôi cảm tạ ơn Chúa, vì nhờ ảnh hưởng của Giáo hội Da đen mà con đường bất bạo động đã trở thành bộ phận chính yếu trong cuộc tranh đấu của chúng tôi. Nếu triết lý này không nổi bật lên thành tư tưởng chủ đạo, thì cho đến giờ này, tôi tin rằng máu đã đổ ra trên rất nhiều những con đường ở miền Nam. Và tôi cũng tin rằng, nếu những người anh em da trắng tiếp tục xem chúng tôi, những người áp dụng những hành động trực tiếp bất bạo động, là những kẻ "gây rối" và từ khước yểm trợ những nỗ lực bất bạo động của chúng tôi, thì hàng triệu người da đen sẽ, vì tuyệt vọng hoặc bực tức, tìm kiếm sự yên ủi và an ninh từ những tư tưởng quốc gia da đen quá khích. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến một cơn ác mộng chủng tộc thật là khủng khiếp.

Những người bị đàn áp không thể mãi mãi chịu đàn áp. Sự khao khát tự do cuối cùng rồi cũng sẽ tự thể hiện, và đó là những gì đang xảy ra cho người Mỹ Da đen. Đã có một điều gì đó trong thâm tâm nhắc cho họ nhớ về quyền được hưởng tự do từ thuở lọt lòng, và một điều gì đó ngoài xã hội nhắc cho họ nhớ rằng đó là quyền mà họ có thể thủ đắc được. Dù do ý thức hay vô thức, người Mỹ Da đen đã chịu ảnh hưởng của trào lưu tự do hiện đại, và cùng với những người anh em da đen từ Phi châu, anh em da vàng, da nâu từ Á châu, Nam Mỹ châu, và vùng biển Caribbê, đang mạnh mẽ tiến bước về vùng đất hứa của công bằng chủng tộc. Nếu ta nhận ra được sự thôi thúc đòi hỏi tự do mang tính chất sinh tử này, một sự thôi thúc đang bao trùm lấy cộng đồng Da đen, thì ta sẽ hiểu được tại sao lại có những cuộc biểu tình đang diễn ra trên đường phố. Người Da đen đã có những sự bất mãn bị dồn nén cùng với những nỗi thất vọng tiềm tàng từ lâu đời, và họ phải tìm cách giải tỏa những uất ức này. Cho nên, xin hãy để cho người da đen tuần hành; hãy để cho người da đen đi hành hương đến tòa thị chính; hãy để cho người da đen tiếp tục bước đi trên con đường dẫn đến tự do, và xin hãy hiểu cho tại sao họ phải làm như vậy. Nếu những thôi thúc tình cảm bị dồn nén đó không được giải tỏa qua những phương cách bất bạo động, họ sẽ tìm cách giải tỏa bằng bạo động. Đây không phải là điều đe dọa mà là một sự thật của lịch sử. Vì thế, tôi đã không bảo những người anh em của tôi là "hãy dẹp bỏ những điều anh em bất mãn." Thay vào đó, tôi đã cố gắng thuyết phục rằng sự bất mãn bình thường và lành mạnh này có thể được chuyển dòng qua những lối thoát đầy sáng tạo của những hành động trực tiếp bất bạo động. Và bây giờ phương cách này lại bị "chụp mũ" là quá khích. Nhưng mặc dù lúc đầu tôi có thất vọng vì bị coi là kẻ quá khích, nhưng khi tiếp tục suy nghĩ về vấn đề này, dần dà tôi cũng có đôi phần thỏa mãn vì bị chụp mũ quá khích. Chẳng phải đức Jesus là đấng có lòng yêu thương quá khích hay sao: "Hãy yêu kẻ thù của các con, chúc phước cho những kẻ chửi bới các con, làm những điều lành cho kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ xấu xa đã lợi dụng và bách hại các con." Chẳng phải Amos[5] là người có lòng công chính quá khích hay sao: "Hãy để cho sự công bình như nước chảy xuôi và sự chính trực như suối nguồn trôi chảy mãi." Chẳng phải tông đồ Paul là kẻ giao truyền phúc âm quá khích hay sao: "Tôi mang trên thể thân thể tôi dấu ấn của Chúa Jesus." Chẳng phải Martin Luther là kẻ quá khích: "Tôi đứng ở nơi đây. Tôi không thể làm khác được. Xin Chúa hãy giúp đỡ tôi." Và John Bunyan: "Tôi sẽ ở tù cho đến ngày tôi chết trước khi tôi tôi phải bán đứng lương tâm." Và Abraham Lincoln: "Đất nước này không thể tồn tại với một nửa dân chúng tự do và một nửa nô lệ." Và Thomas Jefferson: "Chúng tôi công nhận đây là những sự thật hiển nhiên, rằng người ta sinh ra được bình đẳng..." Do đó, câu hỏi được đặt lại là liệu chúng tôi có trở thành những kẻ cực đoan hay không mà là sẽ trở thành những kẻ cực đoan loại nào. Liệu chúng tôi sẽ trở thành những kẻ cực đoan vì thù hận hay vì tình yêu thương? Cực đoan để duy trì sự bất công hay để mở rộng công lý? Trong quang cảnh bi thảm trên đồi Calvary có ba người bị đóng đinh trên thập giá. Chúng ta không được quên rằng cả ba bị đóng đinh vì phạm cùng một tội--tội quá khích. Hai tên cướp là những kẻ quá khích vì phi đạo đức, do đó, bị rơi xuống vũng bùn tội lỗi. Còn đấng Jesus, kẻ quá khích vì tình yêu thương, chân lý, và điều thiện, nên đã vượt lên khỏi thân phận của mình. Có lẽ miền Nam của chúng ta, quốc gia của chúng ta, và cả thế giới đang cần có những kẻ quá khích đầy sáng tạo.

Tôi đã hy vọng rằng những người da trắng ôn hòa nhận thức được nhu cầu này. Có lẽ tôi hơi quá lạc quan; có lẽ tôi mong mỏi quá nhiều. Lẽ ra, tôi phải nhận thức được là trong sắc dân cai trị chỉ có một vài người có thể hiểu được tiếng rên xiết sâu thẳm và lòng khao khát tự do nhiệt thành của sắc dân bị trị, và có lẽ còn ít người hơn nữa có được viễn kiến để thấy rằng chỉ có hành động quả quyết, kiên trì và mạnh mẽ mới nhổ bật được sự bất công đã bám rễ sâu xa. Tuy nhiên, tôi xin cám ơn là đã có những anh em da trắng ở miền Nam hiểu được ý nghĩa và dấn thân vào cuộc cách mạng xã hội này. Tuy số lượng những anh em này còn ít ỏi, nhưng họ là những người ưu tú. Một số, thí dụ như Ralph McGill, Lillian Smith, Harry Golden, James McBride Dabbs, Ann Braden và Sarah Patton Boyle đã diễn tả cuộc đấu tranh của chúng tôi bằng những lời lẽ hùng hồn và thuyết phục. Những người khác đã cùng bước với chúng tôi trên những con đường không tên của miền Nam. Họ cũng đã bị giam cầm trong những nhà tù bẩn thỉu, đầy chuột bọ, chịu đựng sự hành hạ về thể xác cũng như tinh thần của những viên cảnh sát xem họ là bọn dơ bẩn đi "thương những người da đen." Không giống những anh chị em ôn hòa khác, những người này nhận thức được tính chất khẩn cấp của phong trào và cảm nhận được nhu cầu phải có một "hành động" mạnh mẽ mới có thể giải độc được căn bệnh phân chủng. Tôi cũng muốn nói về một sự thất vọng lớn lao khác. Tôi cực kỳ thất vọng về giáo hội da trắng và thành phần lãnh đạo của giáo hội. Dĩ nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ đáng ghi nhận. Tôi không thể không ghi nhận sự kiện là mỗi anh em đã có một lập trường rõ ràng về vấn đề này. Tôi xin tuyên dương Mục sư Stalling về lập trường Cơ-đốc-nhân của ngài trong ngày Lễ Chủ nhật vừa qua đã mở rộng cửa nhà thờ đón nhận người da đen vào dự lễ mà hoàn toàn không có sự phân biệt chủng tộc. Tôi xin tuyên dương những linh mục lãnh đạo Công giáo tại tiểu bang này đã hủy bỏ chính sách phân chủng tại Đại học Spring Hill trong những năm trước đây.

Nhưng, dù đã có những ngoại lệ đáng ca ngợi như vậy, tôi phải thành thực nhắc lại rằng tôi đã từng thất vọng vì thái độ của giáo hội da trắng. Tôi không nói điều này như những lời chỉ trích tiêu cực mà người ta vẫn thường dùng để tấn công giáo hội. Tôi nói điều này trong cương vị một mục sư của phúc âm, của một người yêu quý giáo hội, một người đã được giáo hội cưu mang, một người đã giữ vững được tinh thần nhờ vào ân phước được ban và sẽ tiếp tục giữ vững niềm tin chừng nào mà cuống nhau còn được kéo dài.

Khi tôi bất ngờ bị đưa đẩy vào vai trò lãnh đạo cuộc biểu tình tẩy chay xe buýt tại Montgomery, Alabama, vài năm trước đây, tôi cảm thấy rằng chúng tôi sẽ được giáo hội da trắng ủng hộ. Tôi cảm thấy rằng những mục sư Tin lành hay Do thái giáo da trắng của miền Nam sẽ là những đồng minh mạnh mẽ nhất của chúng tôi. Nhưng thay vì vậy, một số đã trở thành những người phản đối kịch liệt, không chịu thông cảm với phong trào tự do và đã xuyên tạc thành phần lãnh đạo của phong trào. Còn rất nhiều những vị khác đã chọn thái độ cẩn trọng hơn là dũng cảm và họ đã im lặng hầu giữ cho cái lương tâm đã tê cứng của họ được yên ổn đằng sau những tấm cửa kính màu của nhà thờ.

Dù những giấc mơ của tôi đã bị tan vỡ, tôi đã đến Birmingham với hy vọng rằng hàng giáo phẩm da trắng tại địa phương này thấy được chính nghĩa của chúng tôi và, với một mối quan tâm đạo đức sâu xa, sẽ là một ống dẫn để chuyển những ta thán chính đáng của chúng tôi tới trung tâm quyền lực. Tôi đã hy vọng rằng mỗi một anh em sẽ thông cảm cho chúng tôi. Nhưng một lần nữa tôi lại bị thất vọng.

Tôi đã nghe nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo miền Nam buộc những tín đồ của họ phải tuân theo quyết định chấm dứt phân chủng bởi vì đó là luật, nhưng tôi rất muốn nghe những mục sư da trắng tuyên bố rằng: "Hãy tuân theo quyết định này vì hợp nhất chủng tộc là một điều đúng đắn về đạo lý và bởi vì người da đen là những người anh em của chúng ta." Giữa những bất công trắng trợn mà người da đen phải chịu đựng, tôi đã thấy những tín đồ da trắng đứng bên lề và tuôn ra những lời đạo đức suông và vô giá trị. Giữa cuộc đấu tranh mãnh liệt để tẩy rửa sự bất công về chủng tộc và kinh tế của quốc gia chúng ta, mà đã có những mục sư nói rằng: "Đó là những vấn đề xã hội, không có liên quan gì đến phúc âm." Và tôi cũng đã thấy có nhiều giáo phái đi theo một thứ tôn giáo nào đó phân biệt một cách lạ kỳ giữa thể xác với linh hồn, giữa thế tục và linh thiêng.

Tôi đã đi khắp cùng tiểu bang Alabama, Mississippi và tất cả những tiểu bang miền Nam. Trong những ngày hè cháy bỏng và những sáng mùa thu lạnh giá, tôi đã thấy những nhà thờ đẹp đẽ với những tháp nhọn chĩa thẳng lên trời. Tôi đã chiêm ngưỡng vẻ nguy nga của những tòa chủng viện hùng vĩ. Và tôi luôn luôn tự hỏi rằng: "Những người đi thờ phượng nơi đây là ai? Ai là Thượng đế của họ? Tiếng nói của họ ở đâu khi Thống đốc Barnett[6] đưa ra những lời phản đối và tuyên bố luật liên bang vô hiệu lực? Họ ở đâu khi Thống đốc Wallace[7] công khai kêu gọi bất tuân luật liên bang và cổ võ thù hận? Tiếng nói ủng hộ của họ ở đâu khi những người Da đen bị bầm dập và mỏi mệt đã quyết định đứng lên từ những ngục thất tối tăm của tự mãn để tiến tới những ngọn đồi sáng chói của sự phản kháng đầy sáng tạo?"

Vâng, những câu hỏi này vẫn còn đầy ắp trong tâm trí tôi. Trong nỗi thất vọng sâu xa tôi đã khóc vì tình trạng lơ là của giáo hội. Nhưng quý anh em phải tin rằng những giọt nước mắt của tôi là nước mắt của tình yêu. Không thể có niềm thất vọng sâu xa nếu không có được tình yêu sâu thẳm. Vâng, tôi yêu thương giáo hội. Vì làm sao mà tôi có thể làm khác đi được? Tôi ở trong một tình trạng khá là độc đáo, là con, cháu, chắt của những vị mục sư. Vâng, tôi xem giáo hội như chính là Thân thể Chúa Jesus. Nhưng, than ôi! Vì sao nhãng những bổn phận xã hội và e sợ bị mang tiếng là không tuân theo giáo luật, chúng ta đã làm cho mình thánh Chúa bị ô uế và mang đầy thương tích.

Đã có một thời giáo hội rất là mạnh mẽ--thời của những Cơ đốc nhân đầu tiên hoan hỉ khi được công nhận là xứng đáng để chịu đựng những đau đớn vì đức tin của họ. Trong những ngày đó, giáo hội không phải chỉ là cái nhiệt kế để đo xem tư tưởng hay nguyên lý nào được quần chúng ủng hộ mà là cái điều-nhiệt-kế làm thay đổi cả luân lý của xã hội. Khi những Cơ đốc nhân đầu tiên đến một thành phố nào, thì những kẻ cầm quyền cảm thấy bị quấy rầy và lập tức tìm cách kết tội họ là những kẻ "phá rối trật tự" và là những "kẻ xui giục đến từ bên ngoài." Nhưng những Cơ đốc nhân này vẫn tiến bước, với một niềm tin họ là "con dân của thiên đàng," chỉ nghe theo mệnh lệnh của Chúa chứ không phải của con người. Số người thì ít ỏi, nhưng quyết tâm của họ thì vĩ đại. Họ đã quá say Chúa đến nỗi chỉ có những sự đe dọa long trời lở đất mới làm cho họ chùn bước. Qua những nỗ lực và những hành động  cho người khác noi theo, họ đã chấm dứt được những điều ác của thời cổ như giết trẻ con và sát nhân trong những giác đấu trường. Tinh thần đó nay đã đổi thay. Giáo hội thời hiện đại quá yếu đuối chỉ cất lên được những tiếng nói yếu ớt và run rẩy. Và đã quá nhiều lần giáo hội đã trở thành tác nhân triệt để bảo vệ cho tình trạng xã hội hiện nay. Thay vì khó chịu vì thái độ hiện tại của giáo hội, cơ chế quyền lực trong những cộng đồng lại được sự im lặng của giáo hội biểu đồng tình, và khi lên tiếng, thì lại để công nhận giữ nguyên tình trạng xã hội.

Nhưng Chúa sẽ phán xét giáo hội một cách nghiêm khắc mà chúng ta chưa từng thấy. Nếu giáo hội ngày nay mà không tìm lại được tinh thần hy sinh của những hội thánh tiên khởi, thì giáo hội sẽ đánh mất đi bản chất thật của mình, sẽ làm mất đi sự trung tín của hàng triệu tín đồ, và sẽ bị đào thải như một hội đoàn và chẳng còn ý nghĩa gì trong thế kỷ 20 nữa. Ngày nào tôi cũng gặp những thanh niên mà sự thất vọng với giáo hội đã biến thành sự ghê tởm.

Có lẽ tôi lại trở nên quá lạc quan thêm một lần nữa. Có phải những tôn giáo có hệ thống tổ chức đã quá bị ràng buộc với nguyên trạng xã hội để có thể cứu rỗi đất nước chúng ta và thế giới không? Có lẽ tôi phải quay đức tin của mình về giáo hội linh thiêng trong nội tâm, một giáo hội ở trong giáo hội, để tìm một nhà thờ và hy vọng đích thực cho thế giới. Nhưng một lần nữa tôi lại cảm tạ Chúa vì đã có những tâm hồn cao nhã từ bỏ hàng ngũ của tôn giáo có tổ chức, phá bỏ xích xiềng của sự quy phục đã làm người ta tê liệt để gia nhập hàng ngũ với chúng tôi và trở thành những thành viên tích cực tranh đấu cho tự do. Họ đã từ bỏ sự an toàn của hội thánh của họ và cùng bước trên đường phố tại Albany, Georgia, với chúng tôi. Họ đã đi trên những xa lộ miền Nam trên những chuyến xe gập ghềnh để tranh đấu cho tự do. Vâng, họ đã cùng vào tù với chúng tôi. Một số mục sư đã bị khai trừ khỏi hội thánh của họ, mất sự ủng hộ của những giám mục và mục sư đồng nhiệm. Nhưng họ đã hành động trong đức tin rằng làm điều phải mà thất bại thì vẫn còn mạnh mẽ hơn sự chiến thắng của cái ác. Sự làm chứng của họ đã là những hạt muối tâm linh để duy trì ý nghĩa đích thực của phúc âm trong thời đại gian truân này. Họ đã đào một con đường hầm hy vọng xuyên qua ngọn núi tối tăm của tuyệt vọng. Tôi hy vọng toàn thể giáo hội sẽ cùng nhau đương đầu với sự thử thách trong giờ phút quyết định. Nhưng nếu giáo hội không đến góp tay vào giúp đỡ cho công lý, tôi vẫn không tuyệt vọng về tương lai. Tôi không e ngại gì hết về kết quả của cuộc tranh đấu của chúng tôi tại Birmingham, dù cho ngay bây giờ chính nghĩa của chúng tôi đang bị hiểu lầm. Chúng tôi sẽ đạt được mục đích tự do tại Birmingham và trên toàn quốc, bởi vì mục đích của nước Mỹ là tự do. Dù cho bây giờ chúng tôi đang bị bạc đãi và khinh bỉ, định mệnh của chúng tôi gắn liền với định mệnh của Hoa Kỳ. Trước khi những người di dân đặt chân lên Plymouth, chúng tôi đã có mặt ở đây. Trước khi ngòi bút của Jefferson viết lên những dòng chữ oai nghiêm trong Tuyên Ngôn Độc Lập, những dòng chữ đã in hằn trên những trang lịch sử, chúng tôi đã ở đây. Hơn hai thế kỷ, ông cha chúng tôi đã làm lụng vất vả không lương trên đất nước này; họ đã tạo nên những ông vua bông vải; họ đã xây nhà cho chủ nhân của họ trong khi chịu đựng sự bất công và lăng mạ khủng khiếp. Nhưng dưới đáy thẳm của sự sống họ tiếp tục phấn đấu và phát triển. Nếu sự tàn bạo không bút mực nào tả xiết được của sự nô lệ đã không thể làm chúng tôi dừng bước, thì những chống đối chúng tôi đang phải đối diện ngày hôm nay cũng sẽ thất bại. Chúng tôi sẽ giành được tự do bởi vì di sản thiêng liêng của quốc gia chúng ta và ý chỉ trường tồn của Thượng đế đã được thể hiện trong những tiếng đòi hỏi đang vang vọng của chúng tôi.

Trước khi kết thúc, tôi buộc phải nhắc tới một điều trong bản thông báo của quý anh, một điều khiến cho tôi phải bứt rứt không nguôi. Quý anh nồng nhiệt ca ngợi cảnh sát ở Birmingham về những hành vi "giữ gìn trật tự" và "ngăn cản bạo động" xảy ra. Tôi nghĩ rằng quý anh sẽ không còn nồng nhiệt ca ngợi nữa nếu quý anh thấy tận mắt họ để cho chó ngoạm hàm răng sắc lẻm vào da thịt những người tay không, bất bạo động Da đen. Tôi nghĩ rằng quý anh sẽ không vội vã khen ngợi cảnh sát nếu quý anh mục kích cách đối xử vô nhân đạo và tàn tệ đối với người Da đen ngay tại trong nhà ngục này; tôi nghĩ rằng quý anh sẽ không vội vã khen ngợi cảnh sát, nếu quý anh thấy họ xô đẩy và chửi rủa những phụ nữ và bé gái Da đen; tôi nghĩ rằng quý anh sẽ không vội vã khen ngợi cảnh sát nếu quý anh thấy họ đánh đập những thanh thiếu niên Da đen; tôi nghĩ rằng quý anh sẽ không vội vã khen ngợi cảnh sát nếu quý anh thấy họ không cho chúng tôi thức ăn chỉ vì chúng tôi cùng nhau cầu nguyện tạ ơn. Tôi không thể cùng với quý anh ca ngợi lực lượng cảnh sát tại Birmingham được.

Tôi cũng phải công nhận là lực lượng cảnh sát đã tỏ ra là có kỷ luật khi đối phó với những  người biểu tình. Nghĩa là họ đã tỏ ra cho công chúng thấy những hành vi của họ có thể được coi là "phi bạo lực." Nhưng làm như vậy để làm gì? Để duy trì một hệ thống phân chủng ác độc. Trong những năm vừa qua tôi đã kiên trì rao giảng rằng những phương thức đấu tranh bất bạo động cũng phải trong sạch như những mục đích mà ta đòi hỏi. Tôi đã nhiều lần nhấn mạnh rằng sử dụng những phương tiện vô luân cho những cứu cánh đạo đức là sai lầm. Nhưng bây giờ tôi cần phải nhấn mạnh một điều nữa là sử dụng những phương tiện đạo đức để duy trì những mục đích vô luân lại còn là những điều sai lầm hơn nữa. Có lẽ ông Connor và những cảnh sát viên của ông ta đã không dùng tới phương tiện ‘bạo lực" nơi công cộng, cũng giống như Cảnh sát trưởng Pritchett ở Albany, Georgia, nhưng họ đã sử dụng những phương tiện đạo đức phi-bạo lực chỉ để nhằm duy trì cái cứu cánh phi luân của bất công sắc tộc. Như thi sĩ T. S. Eliot đã từng nói: "Điều cám dỗ cuối cùng là sự phản bội ghê gớm nhất: làm một việc đúng vì một lý lẽ sai."

Tôi ước gì quý anh em đã ca ngợi sự can đảm đáng kính của những người Da đen biểu tình và ngồi lì tại Birmingham, sự sẵn lòng chịu đau khổ và tinh thần kỷ luật chưa từng thấy khi bị bao vây và khiêu khích. Một ngày kia, miền Nam sẽ công nhận ai là những anh hùng thực sự của họ. Đó sẽ là những anh em gia đình James Meredith, những người mà ý thức cao nhã về mục đích của họ đã giúp họ đối diện với những lời chế nhạo của một đám đông thù nghịch, và chấp nhận nỗi cô đơn thống khổ của những người đi tiên phong. Đó sẽ là những người đàn bà Da đen già yếu, bị đàn áp tả tơi, điển hình là một người đàn bà bảy mươi hai tuổi ở Montgomery, Alabama, người đã đứng lên vì nhân phẩm và đã cùng với đồng bào của bà tẩy chay những chuyến xe buýt phân chủng, và cũng là người đã trả lời câu hỏi về sự mệt nhọc của bà một cách thâm thúy như sau: "Đôi chân tôi mệt mỏi, nhưng tâm hồn tôi được yên nghỉ." Đó sẽ là những học sinh và sinh viên đại học, những mục sư trẻ và cha anh của họ, những người đã can đảm và ngồi yên bất động tại những quầy ăn trưa và sẵn lòng đi tù vì tiếng nói của lương tâm. Một ngày kia miền nam sẽ biết rằng khi những người con bị tước quyền thừa kế của Chúa ngồi xuống quầy ăn trưa, thực ra là họ đang đứng lên đòi hỏi phần tốt đẹp nhất của ước mơ Hoa Kỳ và những giá trị thiêng liêng nhất của di sản Cơ đốc, và qua hành động đó đưa cả dân tộc tộc trở về với giếng nước dân chủ vĩ đại đã được những nhà quốc phụ khơi nguồn qua bản Hiến Pháp và Tuyên Ngôn Độc lập.

Tôi chưa bao giờ viết một lá thư dài như thế này. Tôi sợ nó dài quá làm mất thì giờ quý báu của quý anh em. Tôi có thể đoan chắc với quý anh em là lá thư này sẽ ngắn hơn nhiều nếu tôi được ngồi viết thoải mái trên bàn, nhưng tôi có thể làm được gì hơn, khi phải ở một mình trong phòng giam chật hẹp, là viết những lá thư dài, nghĩ những điều cao xa và gửi lên chúa những lời cầu nguyện. Nếu trong lá thư này tôi đã nói những điều quá sự thực và tỏ ra thiếu kiên nhẫn một cách không hợp lý, tôi xin quý anh em tha thứ cho tôi. Nếu tôi đã nói bớt đi về sự thực và nói những điều tỏ ra là tôi không chấp nhận giải quyết vấn đề trong tình huynh đệ, tôi xin Chúa tha tội cho tôi.

Tôi hy vọng lá thư này đến với quý anh em trong đức tin. Tôi cũng hy vọng là hoàn cảnh sẽ thay đổi để cho tôi có thể gặp mặt quý anh em, không phải trong cương vị một người đấu tranh cho sự hợp chủng hay một nhà lãnh đạo dân quyền, mà là trong cương vị một mục sư đồng nghiệp và là một người anh em trong Chúa. Xin chúng ta hãy cùng hy vọng là những đám mây đen của kỳ thị chủng tộc sẽ chóng bay đi và lớp sương mù dày đặc của sự hiểu lầm sẽ không còn che khuất những cộng đồng đang chìm trong sợ hãi của chúng ta, và trong một tương lai không xa, những ngôi sao rực rỡ của tình yêu thương và huynh đệ sẽ chiếu sáng trên quê hương vĩ đại của chúng ta với muôn ngàn vẻ đẹp lung linh.

Trong Tình Huynh đệ và chính nghĩa Hòa bình, nay kính,

Martin Luther King, Jr.


Nguồn: Học Viện Công Dân 2011

______________________________


[1] Phán quyết của Tối cao Pháp viện năm 1954 trong vụ án do Oliver Brown kiện Học khu Topeka, bang Kansas về sự phân chủng trong học đường tại Topeka là vi hiến (Brown v. Board of Education, 1954).

[2] Nhà thần học người Mỹ gốc Đức (1886-1965) có ảnh hưởng sâu xa đến hệ thống thần học của đạo Tin Lành.

[3] Trong Kinh thánh của Do Thái, sách Daniel chép rằng Vua Nebuchadnezzar ra lệnh mọi người phải quỳ lạy bức tượng của vua khi có nhạc tấu lên. Hình phạt cho tội bất tuân là bị nướng cho đến chết. Ba anh em Shadrach, Meshach và Abednego không tuân theo lệnh này vì quỳ lạy thần tượng là phạm vào điều răn của Thiên Chúa.

[4] Tea Party

[5] Amos là một trong số tiên tri trong Kinh thánh Cựu Ước.

[6] Ross Barnett là thống đốc tiểu bang Mississippi (1960-1964).

[7] George Wallace là thống đốc của Alabama (1963-1967).

Dân chủ và việc thực thi dân chủ

Bài viết này dành cho những người đang quan tâm đến tình hình đất nước hiện nay và đã đồng ý rằng dân chủ là giải pháp duy nhất cho tình trạng này. Nhưng chỉ đồng ý điều đó thôi chưa đủ. Con đường dân chủ gập ghềnh hơn sự tưởng tượng của những người mới bước chân vào. Những ý kiến viết dưới đây đều là những điều đã từng được nêu ra, tất cả mọi người đều có thể dễ dàng tìm kiếm chúng ở trên mạng Internet. Người viết chỉ nêu lại vì đã trực tiếp trải nghiệm và thấy những ý kiến đó là đúng. Người viết mong muốn các ý kiến đó được chấp nhận và thảo luận để càng đúng hơn.

Trân trọng!

Dân chủ là gì? Dân chủ khác độc tài như thế nào? Điểm mạnh và Điểm yếu của Dân chủ?

Phần lớn cuộc sống của con người đều gắn bó với một tập thể nào đó. Đó có thể là những tập thể có tính dài hạn và gắn bó như gia đình, trường học, cơ quan, câu lạc bộ. Hoặc đó cũng có thể là những tập thể ngắn hạn như một chuyến xe, chuyến tàu. Trong các tập thể này, các cá nhân luôn phải ra những quyết định có thể gây ảnh hưởng đến cá nhân khác. Những ảnh hưởng này có thể là tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Trong trường hợp tiêu cực, các quyết định này có thể sẽ gặpphải sự phản ứng từ phía những người bị thiệt hại. Làm thế nào để giải quyết tình trạng này?

Cách thứ nhất, người ra quyết định vẫn tiếp tục thực hiện quyết định của minh mặc kệ những phản ứng kia. Hoặc người ra quyết định có thể dùng các biện pháp khác nhau để không chế, cưỡng bức, khuất phục người khác phải tuân theo những quyết định của mình.Cách thứ hai, người ra quyết định sẽ tìm kiếm các giải pháp có lợi nhất cho cả đôi bên thông qua sự thỏa hiệp. Người ta gọi cách thức này là dân chủ, còn cách thức trên là độc tài. Rõ ràng, cách thức dân chủ mất rất nhiều thời gian. Nhưng chính vì phải mất rất nhiều thời gian nên cách thức dân chủ sẽ tránh cho tập thể khỏi những rạn nứt và đổ vỡ không cần thiết.

Vậy tóm lại, dân chủ là cách thức một tập thể ra quyết định và thực hiện quyết định dựa trên sự thỏa hiệp giữa tất cả các thành viên sao cho mọi người đều có lợi và chịu ít nhất những tổn thất. Vì không ai bị tổn thất một cách quá đáng nên dân chủ sẽ đảm bảo được sự hài hòa giữa các thành viên. Và vì ai cũng có lợi, ai cũng được quan tâm nên dân chủ cũng sẽ khiến các thành viên gắn bó nhiều hơn với tập thể của mình.

Vậy dân chủ cần những điều kiện nào để được đảm bảo thực hiện?

-  Điều kiện trước tiên, tất cả các thành viên trong tập thể phải có tư cách ngang bằng nhau, không ai đứng cao hơn tập thể. Người lãnh đạo tập thể được toàn bộ tập thể bầu ra, ủy nhiệm và chịu trách nhiệm trước tập thể. Mục đích của dân chủ là để đảm bảo ai cũng có lợi ích và ai cũng được quan tâm. Chính tính mục đích này quyết định tính hợp lý của dân chủ. Thật vô lý nếu một quyết định gây tổn thất quá nhiều cho một vài thành viên hoặc chỉ đem lại lợi ích cho một số khác. Tư cách ngang nhau của các thành viên được đảm bảo bằng các quy tắc. Đó có thể là nội quy lớp học, là nội quy xe bus, là các lề thói ở một làng quê hoặc là luật pháp trong một quốc gia. Không ai đứng trên và đứng ngoài các quy tắc. Bất kì ai, nếu vi phạm quy tắc, đều bị xử phạt. "Vương tử phạm pháp” cũng phải “chịu tội như thứ dân”.

Trong một tập thể mà các thành viên không ngang bằng nhau vềtư cách, ví dụ như quân đội, liệu các quy tắc dân chủ có thể thực hiện hay không? Trong đa số các trường hợp, các thành viên trong quân đội không thực hiện theo nguyên tắc dân chủ: cấp trên ra lệnh cho cấp dưới và cấp dưới phải thực hiện chỉ thị đó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi cấp bậc của những người lính không chênh lệch nhau nhiều lắm, quy tắc dân chủ vẫn có thể được thực thi. Ví dụ, trong một cuộc họp của các sĩ quan để lên kế hoạch cho một nhiệm vụ tác chiến, các sĩ quan có thể đưa ra các ý kiến của mình và tranh luận, nếu cần, để lấy ý kiến tốt hơn.

Một điều cần nhấn mạnh, để đảm bảo tư cách ngang bằng nhau, mọi thành viên đều cần phải cố gắng và có trách nhiệm. Thật khó có thể chấp nhận sự ngang bằng về tư cách khi một người nai lưng ra làm còn người khác thì ngồi chơi xơi nước. Bình đẳng, vừa là điều kiện, vừa là mục đích của dân chủ!

- Điều kiện thứ hai để đảm bảo dân chủ là quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin. Hai quyền này luôn đi song hành với nhau. Khi một quyết định của tập thể được đưa ra, nó có thể khiến một số thành viên chịu thiệt hại. Quyền tự do ngôn luận cho phép người bị hại lên tiếng để toàn bộ tập thể biết đến và chú ý đến những mặt chưa được của quyết định. Quyền tự do thông tin cho phép mọi người biết đến sự việc, sau đó, tỏ rõ thái độ quan tâm. Những người khác, dù không phải là bị hại, cũng có thể lên tiếng bảo vệ nạn nhân. Quyền tự do thông tin còn cho phép các thành viên giám sát sự hoạt động của lãnh đạo. Với sự giám sát như vậy, lãnh đạo không thể làm sai, không thể lạm quyền mà không bị lên án. Quyền tự do ngôn luận còn cho phép các ý kiến được nêu ra và được thảo luận, qua đó, tập thể sẽ chọn được các ý kiến đúng và tập thể sẽ có lợi.

Quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin bao gồm: quyền tự do ý kiến và biểu đạt ý kiến, quyền tự do báo chí và xuất bản, quyền tự do tiếp cận, phát tán thông tin, v.v... Thật dễ hiểu trong các tập thể độc tài, quyền tự do ngôn luận luôn bị cấm đoán và quyền tự do thông tin luôn bị ngăn cản. Và cũng thật dễ hiểu, các tập thể này cũng là các tập thể yếu kém. Sự cấm đoán và ngăn cản quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin khiến các tập thể sẽ đứng trước một nguy cơ nghiêm trọng. Vì nguyện vọng và ưu tư của các thành viên không được đếm xỉa; lợi ích và danh dự của các thành viên cũng không được quan tâm, nên tập thể không còn tư cách gì nữa với các thành viên và tập thể sẽ tan rã.

- Điều kiện thứ ba để dân chủ được bảo đảm là quyền tự do kết hợp. Những người có ý kiến hoặc sự quan tâm giống nhau có thể gặp gỡ, kết hợp và cùng nhau thực hiện các ý đồ hành động, mà không chịu sự cản trở nào. Vậy sự kết hợp có tác dụng gì? Trước hết, kết hợp làm cáccá nhân mạnh mẽ hơn. Về mặt tinh thần, sự kết hợplàm các cá nhân bớt cảm thấy cô đơn hơn. Về mặt trí tuệ, sự kết hợp cho phép các ý kiến sàng lọc và giao lưu để nâng cao chất lượng của các ý kiến. Nhiều ýkiến, nếu đứng riêng lẻ, sẽ ít có khả năng được nêu ra. Về mặt phương tiện, sự kết hợp đem lại nhiều nhân lực, vật lực và tài lực đảm bảo sự thành công của các ý định hành động.

Tác dụng thứ hai của kết hợp là đảm bảo sự tồn tại của tập thể. Một tập thể càng đảm bảo được sự tồn tại của các khác biệt càng có khả năng tồn tại trước những biến động của môi trường. Chính sự kết hợp đảm bảo sự tồn tại này của các khác biệt. Kết hợp tách các cá nhân khác biệt ra khỏi môi trường để khỏi bị đồng hóa bởi các yếu tố thịnh hành. Kết hợp cũng nuôi dưỡng các khác biệt để các khác biệt có thể đương đầu với các yếu tố chính thống đang thịnh hành và thay thế các yêu tố này khi chúng suy yếu.

Vì những tác dụng vô cùng quan trọng trên của quyền tự do kết hợp mà các chế độ độc tài luôn cấm đoán và trừng phạt nặng nề nhất những ý muốn kết hợp. Nhưng rõ ràng, phản xạ trên của độ tài là vô cùng ngu ngốc và thiếu tầm nhìn vì các kết hợp không hề đe dọa ai. Các kết hợp đem lại tương lai cho mọi thànhviên của tập thể. Các chế độ độc tài vì cấm đoán các ý muốn kết hợp và trừng trị nặng nề các ý định kết hợp nên khi có biến động thì chính chế độ là nạn nhận của cơn giận dữ từ quần chúng. Bài học nhãn tiền từ các chế độ độc tài Bắc Phi và Arab trong cách mạng Mùa Xuân Arab không biết đã được các chế độ toàn trị ở Việt Nam và Trung Quốc tiếp thu hay chưa?

Cũng vì những tác dụng quan trọng trên của sự kết hợp nên cần phải đầu tư nhiều nhất việc tạo ra các kết hợp. Đó có thể là các tổ chức quần chúng, các tổ chức chính trị trong các cuộc cách mạng nhằm đảm bảo cho các cuộc cách mạng đó diễn ra êm thấm và ít đổ máu. Đó có thể là các tổ chức xã hội dân sự đảm bảo một bệ đỡ cho thể chế dân chủ. Người ta nhận xét chính quyền nước Mỹ là một chính quyền dở. Nhưng chính vì đầu tư cho xã hội dân sự, ngay từ thời lập quốc, nên dù có một chính quyền dở ẹc như vậy mà nước Mỹ vẫn là cường quốc sô một toàn cầu. Quyền tự do kết hợp xứng đáng là điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo dân chủ.

- Điều kiện thứ tư và là điều kiện cuối cùng đảm bảo dân chủ là quyền tự do ứng cử và bầu cử những vị trí quan trọng của tập thể. Dự án lãnh đạo hiện hành dù tồi dở và chứa đựng đầy nguy cơ mà không thể bị thay thế thì mọi ý thức dân chủ còn có ý nghĩa gì? Sự tự do kết hợp cung cấp cho tập thể những dự án lãnh đạo thay thế khác. Thành viên trong tập thể sẽ lựa chọn dự án lãnh đạo nào mà họ cho là khả thi và đem lại cho họ nhiều lợi ích nhất. Tự do ứng cử và bầu cử đảm bảo khả năng thay thế dự án lãnh đạo mà không phải sử dụng đến các biện pháp bạo lực như chiến tranh, đảo chính, v.v... có thể gây tổn hại cho toàn bộ tập thể.

Tiến Từ Từ

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Phẩm chất quan trọng nhất của người thành đạt

Chịu trách nhiệm 100% về bản thân mình phải là phẩm chất đầu tiên mà những người muốn đạt đến đỉnh cao thành công cần rèn luyện. Phần lớn chúng ta là những người rất giỏi tìm ra những nguyên nhân bên ngoài để giải thích cho mọi kết quả xảy ra mà ít khi nhận lấy phần trách nhiệm về mình. Và cũng vì thế mà phần lớn chúng ta là những người thất bại, sống một cuộc đời tầm thường, luôn ngồi chờ những điều may rủi mà không đứng lên làm chủ cuộc đời mình.

Với mọi kết quả xảy ra, những người thành đạt luôn nhìn thấy “Tại tôi…” chứ không bao giờ  “Tại vì…”. Khi nhận lấy trách nhiệm về mình, họ liên tục thay đổi và rèn luyện để vững vàng và mạnh mẽ hơn. Họ biết cách làm chủ cuộc đời của mình, không trao quyền kiểm soát đời mình cho người khác hay lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. Họ hiểu rằng, có những điều không thể thay đổi được nên họ đón nhận và yêu thích tất cả những gì thuộc về mình. Họ chẳng bao giờ phàn nàn về thời tiết, đau khổ về ngoại hình, trách móc cha mẹ, hay càm ràm về đất nước. Họ dành thời gian để sống cuộc đời họ mơ ước.

Để làm được điều này bạn phải biết nhận 100% trách nhiệm cho mọi kết quả của đời mình. Bởi biết đến bao giờ mới có được một con đường thênh thang để chỉ mình bạn thong dong trên đó và chẳng có chướng ngại nào cản lối? Vì thời tiết xấu mà bạn bị bệnh? Vì công ty bạn đang làm không có được một môi trường làm việc lý tưởng nên bạn không thể tạo ra những kết quả tốt nhất? Vì bạn sinh ra trong gia đình nông dân cơ cực nên bạn chẳng thể khá nổi ư?... Chẳng phải cùng sống trong thời tiết đó mà những người xung quanh bạn vẫn khỏe khoắn đấy sao? Cũng trong môi trường đó mà những đồng nghiệp của bạn vẫn làm việc hiệu quả? Có biết bao nhiêu người thành đạt đi lên từ chân lấm tay bùn, đâu có hiếm để bạn không biết đến? Nếu còn tiếp tục bám víu vào những nguyên nhân bên ngoài, bạn sẽ còn có hàng núi lý do trì kéo bạn xuống thẳm sâu của thất bại.

Chỉ khi nhận trách nhiệm về mình, bạn mới biết được đâu là điều mình cần rèn luyện thêm, đâu là điểm mạnh cần phát huy hay điểm yếu cần cải thiện, đâu là những bài học kinh nghiệm cần rút ra cho những lần sau, đâu là điều có thể làm tốt hơn, và mình đã đi đến đâu trên con đường dẫn đến đích. Một khi bạn vẫn còn đổ trách nhiệm cho người khác hay cho hoàn cảnh thì bạn chẳng thể bước ra khỏi chỗ đứng hiện tại, vậy cách nào để bạn tiến lên sống một đời thành tựu? Phát triển bản thân là trách nhiệm của mỗi người, chẳng ai phát triển thay cho ai được, và cũng chẳng ai nhờ đẩy trách nhiệm ấy sang cho người khác mà bản thân mình có thể phát triển lên được.

Có một điều ngăn cản hầu hết mọi người đến với thành công là dù đổ lỗi cho hoàn cảnh xung quanh nhưng họ lại không dám tách mình ra khỏi môi trường hiện tại đang kiềm hãm họ. Bạn hãy ghi nhớ một quy luật quan trọng: Mức độ thành công của bạn bằng trung bình cộng của năm người mà bạn thân cận nhất trong cuộc sống. Bạn chịu tác động của số đông nên bạn sẽ tạo cho mình một môi trường thành công khi bạn chỉ chơi với những người thành công, chỉ nạp vào đầu những tư tưởng thành công, chỉ đón lấy những điều tích cực từ bên ngoài, chỉ tham gia những hoạt động mang lại những giá trị tốt đẹp cho bản thân và cuộc sống.

Người ta phát hiện ra rằng những người thành công chỉ chơi chung với những người thành công, và những người thất bại cũng chỉ chơi chung với những người thất bại giống họ. Người thành công và người thất bại không thể chơi chung với nhau vì họ không hợp nhau, nồi nào vung nấy. Nếu bạn muốn bước từ thất bại sang thành công thì bạn phải đổi môi trường xung quanh mình từ “mực” sang “đèn” để có thể từ trong bóng tối bước ra ánh sáng. Không có gì phải xấu hổ khi phải đổi bạn và có thể bị tẩy chay. Bạn chọn thành công và làm chủ cuộc đời mình hay bạn chọn giữ tình bạn với những người thất bại và sống một cuộc đời nhỏ nhoi? Người bạn đích thực là người mong muốn bạn mình phát triển chứ không phải là người giữ chặt lấy bạn mình trong sự thất bại cùng với họ. Những bạn bè thật tâm luôn cầu mong cho bạn mình phát triển và họ vui mừng khi bạn mình tiến đến thành công.

Môi trường xung quanh mang tính quyết định cho sự thay đổi của mỗi người, và môi trường xung quanh là một yếu tố bạn có thể chọn. Chính môi trường này sẽ quyết định bạn là ai. Hãy cầm lấy quyền quyết định đời mình và lựa chọn cho mình một môi trường ươm mầm và làm triển nở những tiềm năng và khát vọng vươn đến thành công.

Quách Tuấn Khanh

_________________________________
Cùng một tác giả:

Steve Jobs: Hãy luôn khát khao, hãy luôn dại khờ

Steve Jobs (1955 - 2011)
Đây là diễn văn lễ tốt nghiệp do Steve Jobs (Tổng quản trị hãng Apple Computer và Pixar Animation Studios) đọc ngày 12 tháng 6 năm 2005 tại trường đại học Stanford, California.

Tôi rất vinh hạnh được hiện diện hôm nay cùng các bạn tại lễ tốt nghiệp của (Stanford,) một trong vài trường đại học ưu tú nhất trên thế giới. Tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học. Thực vậy, dịp này có lẽ là dịp duy nhất tới nay tôi dự phần vào lễ ra trường. Hôm nay tôi muốn thưa với bạn ba câu chuyện của đời tôi. Chỉ đơn giản vậy thôi. Không có gì to tát cả, chỉ có ba câu chuyện.

Chuyện đầu tiên là về việc “nối các chấm lại với nhau.”


Tôi bỏ học trường Reed College chỉ sau sáu tháng theo học, nhưng cũng còn ráng nán lại gần một năm rưỡi để học thêm một số lớp nữa trước khi thực sự thôi học. Có lẽ bạn sẽ hỏi vì sao tôi bỏ học?

Chuyện đó bắt nguồn ngay từ truớc khi tôi chào đời. Mẹ ruột tôi là sinh viên trẻ đang theo học để lấy bằng cao học, rủi có bầu ngoài hôn thú, và đã quyết định cho tôi làm con nuôi người khác. Bà ấy rất muốn tôi được làm con của một gia đình khoa bảng, do đó tôi đã được thỏa thuận sẽ được làm con nuôi của một cặp gia đình luật sư. Có một trục trặc là khi tôi ra đời thì cặp vợ chồng này đổi ý vì họ thực sự muốn nuôi một đứa con gái. Khi đó thì cha mẹ nuôi tương lai của tôi nhận được một cú điện thoại lúc nửa đêm hỏi rằng nhà thương có một đứa con trai mới sinh, và rằng cha mẹ tôi có muốn nhận nó hay không? Họ trả lời “Dĩ nhiên rồi,” vì họ cũng đang trong danh sách chờ xin con nuôi. Mẹ ruột tôi sau đó phát giác rằng mẹ nuôi tôi chưa hề tốt nghiệp đại học, còn ba tôi cũng chưa hề tốt nghiệp trung học. Bà từ chối không chịu ký giấy cho con nuôi. Vài tháng sau bà mới ưng thuận khi ba mẹ nuôi tôi hứa với bà rằng sẽ cho tôi theo học đại học.

Mười bảy năm sau quả tình là tôi được học đại học. Nhưng tôi đã quá ngây thơ khi chọn một đại học cũng tốn phí ngang như trường Stanford, thế là cả món tiền lao động lam lũ mà ba mẹ tôi dành dụm đều tiêu vào tiền học cả. Sau sáu tháng học hành, tôi chẳng thấy việc theo học này ích lợi chi cả. Tôi không có một ý tưởng sự nghiệp sau này sẽ ra sao, và chẳng biết học đại học rồi có giúp cho tôi tìm ra được câu trả lời hay không, trong khi tôi đang tiêu sạch món tiền mà ba mẹ tôi khổ nhọc dành dụm bấy lâu. Thế nên tôi quyết định bỏ học và tin rằng mọi sự sẽ tốt đẹp sau này. Quả là khi đó thì quyết định này liều lĩnh thật, nhưng nhìn lại thì nó là một trong những quyết định tuyệt vời nhất của tôi. Ngay sau khi quyết định thôi học, tôi bỏ hết các môn bắt buộc và bắt đầu chỉ lấy những lớp tôi cảm thấy hay ho.

Đời sinh viên khi ấy cũng chẳng thơ mộng gì cho lắm. Tôi không có phòng trọ riêng, vì thế tôi ngủ tạm sàn nhà của các bạn học, rồi tôi đi lượm những lon nước ngọt để bán lại với giá 5 xu tiền ký thác mỗi lon, rồi dùng tiền này để mua thức ăn. Tôi còn nhiều lần đi bộ 7 dặm xuyên thành phố tới đền thờ Hare Krisna mỗi chủ nhật để được ăn tối miễn phí. Tôi (chẳng nề hà chi cả mà còn) cảm thấy thích thú nữa là đằng khác. Những điều tôi chạm trán khi theo đuổi trực giác cũng như thỏa mãn trí tò mò sau này lại trở nên vô giá. Để tôi lấy một thí dụ:

Trường Reed khi ấy có mở lớp dạy viết thư pháp (calligraphy) và có ban giảng huấn vào bậc nhất trên toàn quốc. Các biểu ngữ trong khuôn viên trường cũng như các nhãn tên trên ngăn tủ đều được viết bằng tay thật đẹp. Vì tôi đã bỏ học và không còn phải học các lớp bắt buộc nữa, tôi quyết định theo học lớp thư pháp để học cách vẽ như thế. Tôi học về các kiểu chữ serif và sans serif, về sự gia giảm khoảng cách giữa các ký tự không cùng kiểu chữ, và tại sao các kiểu chữ đẹp lại đẹp toàn hảo như vậy. Tôi cảm thấy bị quyến rũ bởi các kiểu chữ tuyệt đẹp này, chúng có một bề dày lịch sử, rất nghệ thuật với một độ tinh tế mà khoa học không tài nào lột tả được.

Lúc đó tôi nghĩ những điều tôi học kể trên chẳng có một ứng dụng thực tiễn nào cho đời tôi cả. Thế nhưng mười năm sau, khi chúng tôi thiết kế cái máy Macintosh thế hệ đầu tiên, những điều tôi học được lại hiện lên rõ ràng. Tôi đã đem hết những hiểu biết có được để ứng dụng vào máy Mac. Đấy là máy điện toán đầu tiên với các kiểu chữ thật đẹp. Nếu tôi không theo học lớp thư pháp, máy Mac có lẽ chẳng bao giờ có nhiều thiết kế khác nhau trong cùng một kiểu chữ (typeface) hay các kiểu chữ có khoảng cách thay đổi theo tỷ lệ(proportionally spaced fonts.) Và vì hệ điều hành Windows nhái hệt theo Mac, có lẽ sẽ chẳng có máy tính nào hiện nay sẽ có các kiểu chữ đẹp như ta đang quen dùng. Nếu tôi không bỏ học, có lẽ tôi chẳng theo học lớp thư pháp, và có lẽ sẽ chẳng có máy tính nào hiện nay sẽ có các kiểu chữ đẹp như vậy. Dĩ nhiên khi tôi còn đang đi học thì tôi chẳng tài nào nối các dữ kiện này với nhau để tiên đoán tương lai, nhưng mười năm sau nhìn lại thì mọi việc đều trở nên rõ ràng.

Chuyện thứ hai tôi sẽ kể là về tình yêu và sự mất mát.


Tôi là nguời rất may mắn – Tôi tìm thấy điều tôi muốn làm khi tôi còn rất trẻ. Woz (Steve Wozniak) và tôi sáng lập hãng Apple trong nhà xe của ba mẹ tôi khi tôi chỉ mới 20 tuổi. Chúng tôi làm việc cật lực, và chỉ trong 10 năm Apple đã lớn mạnh từ hai chúng tôi thành một công ty trị giá hai tỷ mỹ kim với trên 4000 nhân viên. Chúng tôi vừa cho ra lò sản phẩm tuyệt hảo nhất – máy Macintosh – chỉ một năm trước đó, và tôi thì vừa tròn 30 tuổi. Và tôi bị đuổi việc. Làm sao mà bạn lại bị đuổi việc từ chính công ty bạn sáng lập? Xin thưa rằng, khi Apple khuyếch truơng chúng tôi có mướn một người mà riêng tôi nghĩ là rất có tài để cùng chung điều khiển công ty, và quả nhiên trong năm đầu tiên thì mọi sự tiến triển tốt đẹp. Nhưng càng ngày thì tầm nhìn về tương lai giữa tôi và người ấy càng ngày càng cách biệt và rồi những bất đồng xảy ra. Hội đồng quản trị lại đứng về phe ông ta. Thế là tôi phải ra đi. Ra đi ê chề trước nhãn quan mọi người. Những gì tôi chú tâm vào làm trong cả đời đột nhiêu bị tan biến, tôi cảm thấy hoàn toàn thất bại.

Suốt mấy tháng sau đó, tôi thực sự chẳng biết phải làm gì nữa. Tôi cảm thấy là tôi đã làm thất vọng cả thế hệ doanh nhân trước thời của tôi, rằng tôi đã làm rớt ngọn đuốc Olympic khi nó được truyền cho tôi. Tôi gặp David Packard và Bob Noyce rồi tìm cách xin lỗi họ vì đã làm những sai lầm quá tệ hại. Tôi là một người nổi tiếng đã bị thất bại, và tôi cũng đã từng nghĩ đến chuyện chạy trốn khỏi thung lũng hoa vàng. Nhưng dần dà tôi nhận thức ra một điều, đó là tôi vẫn còn yêu thích những gì tôi đã làm. Những sự kiện liên tiếp xảy ra ở Apple chẳng làm thay đổi lòng đam mê của tôi chút nào. Tôi bị khước từ, nhưng tôi vẫn còn lòng say mê. Thế là tôi quyết định làm lại từ đầu.


Lúc đó tôi chẳng hề nhận thức rằng bị đuổi khỏi Apple lại chính là cái may lớn nhất trong đời. Cái sức ép ngàn cân như là một doanh nhân thành đạt trước kia nay được thế bằng cái cảm giác nhẹ tợ lông hồng của một người vừa khởi nghiệp, chẳng còn chắc mẩm về bất cứ cái chi nữa cả. Sự thanh thoát này đã giúp tôi bước vào một trong các giai đoạn sáng tạo lẫy lừng nhất trong đời tôi.

Trong năm năm sau đó, tôi sáng lập một công ty với tên gọi NeXT, rồi một công ty khác nữa có tên gọi Pixar, rồi tôi phải lòng một phụ nữ rất tuyệt vời, cô sau này cùng tôi nên duyên vợ chồng. Hãng Pixar sau đó phát triển không ngừng để sáng tạo ra phim hoạt hình vẽ bằng công nghệ điện toán đầu tiên trên thế giới với tựa đề “Chuyện của các đồ chơi” (Toy Story.) Hiện thời, Pixar là hãng làm phim hoạt hình thành công nhất trên thế giới. Tiếp theo đó, với những bước ngoặt thật đáng kể, Apple mua lại hãng NeXT, tôi trở lại Apple, và nay thì những công nghệ chúng tôi phát minh tại NeXT đang là cốt lõi của sự phục hưng tại Apple. Thêm vào đó, tôi và Laurence đang chung xây một mái nhà tranh với hai quả tim vàng.

Tôi đoan chắc những điều vừa kể trên chẳng thể nào xảy ra được nếu như tôi chẳng bị đuổi việc. Đúng là thuốc đắng dã tật. Đôi khi đời đá ta như bị bò đá. Đừng bao giờ mất niềm tin, các bạn ạ. Tôi đoan chắc là chỉ có lòng say mê với công việc mình yêu thích mới làm tôi vực dậy nổi sau khi đã ngã sóng xoài. Bạn phải tìm ra cho bằng được bạn say mê cái gì. Điều này cũng đúng cả khi bạn yêu thích một công việc cũng như khi bạn tìm kiếm người trong mộng. Vì công việc bạn làm sẽ chiếm trọn một phần đời của bạn, cách duy nhất khiến bạn có thể thực sự toại nguyện là khi bạn làm những gì bạn cảm thấy là việc to tát như vá biển lấp trời. Cách duy nhất để có thể làm những việc đội đá vá trời như vậy là bạn phải yêu thích những gì bạn đang làm. Nếu bạn chưa tìm ra những việc làm thỏa mãn như vậy, hãy tiếp tục tìm kiếm. Đừng thỏa hiệp với sự tầm thường. Cũng hệt như tiếng gọi của con tim, bạn sẽ tự cảm nhận được một khi nào bạn tìm ra được việc làm yêu thích. Và, cũng hệt như những mối tình lớn khác, lòng đam mê với việc đã chọn sẽ chỉ tăng dần theo năm tháng. Vì thế hãy gắng tâm tìm kiếm cho tới khi tìm thấy công việc làm bạn đam mê. Đừng thỏa hiệp với chính bạn.

Câu chuyện sau cùng là về sự chết.

Khi tôi mới 17 tuổi, tôi có đọc được một danh ngôn đại loại là: “Nếu bạn sống mỗi ngày như là ngày cuối đời bạn, dần dà đời bạn sẽ khá hơn lên.” Câu danh ngôn này để lại một dấu ấn trong tôi, rồi suốt 33 năm qua mỗi sáng tôi đều nhìn vào gương và tự hỏi mình: “Nếu hôm nay là ngày cuối cuộc đời tôi, tôi còn ham muốn làm những gì tôi sắp làm hôm nay không?” Mỗi khi tôi trả lời “Không” liên tiếp chừng tuần lễ, tôi tự biết tôi cần phải thay đổi một cái gì đó.

Luôn tự nhủ là tôi sẽ phải chết sớm thực là một tuyệt chiêu, nó giúp tôi nhiều phen khi phải làm những quyết định quan trọng trong đời. Bởi chưng mọi thứ quanh ta – từ những trông mong ngoại cảnh vào khả năng của ta, những tự mãn cùng nỗi sợ hãi bị làm mất thể diện hay sợ thất bại – những điều như trên chẳng còn nghĩa lý gì nữa khi ta chạm mặt tử thần. Lúc đó chỉ còn những gì tối hệ trọng mới đáng kể. Luôn ghi nhớ rằng tôi sắp chết là cách tốt nhất tôi dùng để tự đối phó mỗi khi tôi nghĩ tôi sắp thua một ván bài nào đó. Khi bạn bị dồn vào chân tường và bị lột trần như nhộng, còn gì mất nữa đâu và bạn an nhiên nghe theo tiếng lòng mình.

Khoảng một năm về trước, tôi bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư. Tôi được chụp quang ảnh ngay từ khoảng bẩy giờ rưỡi sáng hôm đó, kết quả cho thấy rõ ràng tôi bị bướu ở tụy tạng (pancreas.) Lúc ấy tôi cũng chả biết tụy tạng là cái gì. Các bác sĩ bảo tôi rằng loại ung thư này thuộc loại vô phương cứu chữa, và rằng tôi chỉ còn sống được cao lắm là từ ba tới sáu tháng mà thôi. Bác sĩ khuyên tôi nên về nhà “giải quyết chuyện gia đình cho có trước sau,” hàm ý bảo tôi về nhà chuẩn bị chết đi là vừa. Đối với tôi, điều này có nghĩa là tôi phải gom cho gọn lại những gì tôi sẽ dạy bảo cho lũ con tôi trong mười năm để chỉ dạy dỗ trong vòng vài ba tháng. Điều này cũng có nghĩa là tôi sẽ phải bạch hóa mọi chuyện trong nhà để người thân của tôi còn biết đường lo liệu. Điều này có nghĩa là tới giờ đi chào vĩnh biệt mọi người.

Tôi đã sống với cái chẩn đoán đó suốt ngày. Tới tối,tôi được làm một phẫu thuật nhỏ (sinh thiết,) người ta thọc một ống nội soi qua cổ họng, xuống dạ dày tới ruột, rồi cho một kim chích vào tụy tạng để lấy vài tế bào của cục bướu. Tôi được chích thuốc gây mê, nhưng vợ tôi cũng có mặt ở phòng mổ đã kể lại rằng khi các bác sĩ khám nghiệm các tế bào này qua kính hiển vi, họ đã reo lên vì cục bướu của tôi thuộc loại bướu tụy rất hiếm và có thể khỏi bịnh được sau khi đã lấy nó ra. Tôi đã trải qua cuộc phẫu thuật để lấy ra cái bướu đó và khỏi bịnh rồi.

Có lẽ đây là lần tôi cận kề cái chết nhất trong đời, tôi mong sẽ chẳng phải trải qua một thử thách nào tương tự trong ba bốn mươi năm tới. Đã trải qua kinh nghiệm sinh tử này, tôi muốn nhắn nhủ các bạn đôi điều:

Chẳng ai muốn chết cả. Ngay cả những ai muốn lên Thiên Đàng cũng không muốn phải chết trước rồi mới tới nơi ấy. Tuy vậy, sự chết là điều mà ai cũng sẽ phải trải qua. Chưa ai vượt thoát khỏi sự chết. Và điều này thì cũng tự nhiên thôi, bởi chưng Sự chết là sáng chế tuyệt vời, độc nhất vô nhị của Sự sống. Nó là tác nhân làm thay đổi Sự Sinh Tồn. Nó dẹp bỏ đi những gì cũ kỹ để dọn chỗ cho cái mới tiếp vào. Ngày hôm nay các bạn chính là cái mới đấy, nhưng một ngày nào đó trong tương lai gần, các bạn sẽ lão hóa và sẽ bị sa thải khỏi địa cầu. Xin lỗi các bạn vì tôi có vẻ như cường điệu hóa quá đáng, nhưng đây là sự thật.

Vì sự hiện hữu của các bạn chỉ có hạn, bạn chẳng nên sống cho người khác. Đừng bị bó buộc bởi những giáo điều, vì chúng sẽ làm bạn sống với những khuôn khổ do người khác đặt ra. Đừng để những ý kiến của người khác làm nhiễu loạn cái tâm của bạn. Trên hết, hãy can đảm đi theo tiếng gọi của trực giác và khởi tự tâm mình. Những tiếng lòng này thật vi diệu vì chúng biết rõ bạn sẽ ra sao ngày sau. Mọi thứ khác trên đời chỉ còn là thứ yếu.

Khi tôi còn trẻ, tôi thường mua một quyển sách rất đặc sắc tên là “ Thư Mục Toàn Cầu“, sách này là một trong những sách gối đầu giường của thế hệ chúng tôi. Người sáng lập thư mục sách trên là ông Steward Brand, cũng là một cư dân sống rất gần khuôn viên trường ta, ông đã cho ấn phẩm này một sức sống đặc biệt qua tài năng nghệ thuật tuyệt vời của ông. Nên nhớ là sách ra mắt vào khoảng cuối thập niên sáu mươi, trước khi máy điện toán cá nhân và nhu liệu xuất bản sách báo ra đời, nên những gì bạn xem đều được làm rất thủ công bằng máy đánh chữ, kéo, và máy chụp hình lấy liền (polaroid.) Sách có nội dung tương tự như một loại Google để tra cứu, 35 năm trước khi Google chào đời. Sách cũng rất thực tế và nội dung thì tràn đầy các “dụng cụ” hữu ích cũng như các ý tưởng cao siêu.

Steward và bộ sậu của ông xuất bản vài bộ “Thư Mục Toàn Cầu,” rồi khi ấn phẩm đã có vẻ thoái trào, họ cho in ấn bản cuối. Lúc ấy là vào khoảng giữa thập niên bảy mươi, khi tôi còn trẻ măng như các bạn bây giờ. Ở bìa sau ấn bản cuối này là một tấm hình chụp một con đường làng lúc sớm mai, cái kiểu đường làng làm bạn muốn nhảy dù đi chơi xa nếu bạn thuộc típ người mạo hiểm. Dưới hình là dòng chữ “Stay Hungry. Stay Foolish.” Đó là lời chúc giã từ của ban biên tập trước khi thôi xuất bản sách. Giữ lòng thèm khát, và một cái tâm khờ khạo. Tôi luôn tự chúc mình như vậy. Giờ đây, khi các bạn sắp tốt nghiệp để bắt đầu một đời sống mới, tôi cũng chúc  các bạn như vậy.
Hãy luôn khao khát . Hãy luôn dại khờ .

Cám ơn các bạn rất nhiều.

Facebook Digg Stumbleupon Favorites More