"Văn minh có nghĩa là đạt được cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của con người. Nhưng cái tạo ra những tiện nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người là kiến thức và đạo đức, bản chất của văn minh chính là quá trình phát triển kiến thức và đạo đức con người" - Fukuzawa Yukichi
"Thích điều nhân mà không thích học thành ra người ngu, thích mưu lược mà không thích học thành ra người tặc, thích điều thẳng mà không thích học thành ra người giảo, thích đức dũng mà không thích học thành ra người loạn, thích cương cường mà không thích học thành ra người cuồng!" - Khổng Tử
"Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự bạo ngược bất công là soi sáng đến hết mức có thể tâm trí của quần chúng và đặc biệt là cho họ tri thức và sự thật." - Thomas Jefferson
"Hòa bình không có nghĩa là hết xung đột; sự khác biệt luôn hiện diện trong quan hệ giữa người và người. Hòa bình là giải quyết sự khác biết đó thông qua những phương pháp ôn hòa; bằng đối thoại, giáo dục, sự hiểu biết; và bằng những cách thức khác mang tính nhân bản." - Dalai Lama

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

[ Sách ] Nói với tuổi 20 - Thích Nhất Hạnh

Đọc Nói với tuổi 20 để thấy rằng cuộc đời vô cùng cao quý, tươi đẹp, và các bạn trẻ, hãy sống sao cho khỏi sống hoài, sống phí, để sức trẻ căng tràn của các bạn sẽ hữu ích cho cuộc đời, cho thế gian và nhân loại.
Những lời chia sẻ của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh thấm sâu vào lòng những người trẻ tuổi, khơi gợi những ước mơ hoài bão, khơi dậy sức sống dạt dào trong trái tim của họ, làm bừng cháy những yêu thương. Nói với tuổi 20 tìm thấy điểm điểm đồng điệu trong lời thơ của Tố Hữu: “20 tuổi hồn quay trong gió bão/ gân đang xanh và thớ thịt căng da”, và sức trẻ đó phải được toả sáng trong tình yêu và trách nhiệm với đất nước, trong lý tưởng và khát vọng, trong tình yêu và cuộc sống của mình.

Thông tin tác giả
Thích Nhất Hạnh là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình. Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, vào ngày 11 tháng 10 năm 1926, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Ông là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đạt-lại Lạt-ma. Năm 1967, Thiền sư đã được Mục sư Martin Luther King Jr. (Nobel Hòa bình 1964) đề cử giải Nobel Hòa Bình.
 >> Link download: Nói với tuổi 20
 

Bí quyết thành công của Bắc Âu

Các nước Bắc Âu có lẽ trị quốc tốt nhất thế giới

Cecil Rhodes[i] từng nhận xét rằng “sinh ra là người Anh coi như trúng số độc đắc”. Ngày nay ta cũng có thể nói như vậy về người sinh ra ở Bắc Âu. Các nước Bắc Âu không chỉ tránh được phần lớn những vấn nạn kinh tế đang làm rung chuyển vùng Địa Trung Hải; mà còn tránh được phần lớn những căn bệnh xã hội đang hành hạ nước Mỹ. Xét về bất cứ chỉ số nào đo lường tình trạng ổn định và lành mạnh của một xã hội – từ các chỉ số kinh tế như năng suất và đổi mới sáng tạo đến các chỉ số xã hội như tình trạng bất bình đẳng và tội ác – các nước Bắc Âu quần hội ở gần đầu bảng xếp hạng (xem bảng).
 

Tại sao khu vực hẻo lánh, dân cư thưa thớt, với mùa đông băng giá và những vùng hoang vu mênh mông này lại thành công đến vậy? Đã có thời đa số người dân các nước này chẳng ngần ngại ca ngợi chính phủ của họ, cái chính phủ mà trong phần lớn thế kỷ 20 chính là những nhà dân chủ xã hội nấp dưới một trong những vỏ bọc dân tộc khác nhau của họ. Chính phủ đó đã cung cấp cho người dân các dịch vụ phúc lợi trọn đời, từ lúc lọt lòng cho đến khi xuống mồ, cứu họ thoát khỏi cảnh sống khắc nghiệt của tổ tiên họ hồi thế kỷ 19, và can thiệp để cứu các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thoát khỏi những cuộc khủng hoảng định kỳ.

Nhưng giới chủ trương thị trường tự do bới lông tìm vết trong cách lý giải của giới ủng hộ vai trò can thiệp của chính phủ, và đưa một cách giải thích khác đầy thuyết phục. Trong giai đoạn từ 1870 đến 1970, các nước Bắc Âu nằm trong số các nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới, nhờ một loạt các cải cách có lợi cho kinh doanh chẳng hạn như thành lập các ngân hàng và tư hữu hóa các khu rừng. Nhưng trong những năm 1970 và 1980 sự bành trướng thiếu kỷ cương của chính phủ  khiến những cải cách đó chựng lại. Giới chủ trương thị trường tự do nhận định rằng thành tựu đáng nể gần đây của khu vực này là nhờ họ quyết tâm giảm chi tiêu chính phủ và để cho giới kinh doanh được tự do hành động.

Vai trò của chính phủ trong việc cải thiện tình trạng bình đẳng cũng đang bị đặt câu hỏi. Andreas Bergh, thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế học Công nghiệp của Thụy Điển, nhận định rằng thu nhập [quốc dân] của Thụy Điển đã giảm sút trước khi nhà nước phúc lợi xuất hiện, mà nhà nước phúc lợi này là một hệ quả chứ không phải nguyên nhân của sự thịnh vượng của Bắc Âu – và suýt giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng.

Bản tường trình đặc biệt này [của tạp chí The Economist] tán thành một số lập luận của giới chủ trương thị trường tự do. Các nước Bắc Âu đã từng nhiễm thói quen chi tiêu cho phúc lợi nhiều hơn khả năng trang trải của họ và thói quen dựa dẫm quá nhiều vào một số ít công ty lớn. Họ hành động đúng khi cố gắng tinh giản nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh doanh. Nhưng sẽ sai lầm nếu [họ] hoàn toàn phớt lờ vai trò của chính phủ.

Các nước Bắc Âu hãnh diện về tính trung thực và minh bạch của chính phủ nước họ. Các chính phủ Bắc Âu bị giám sát chặt chẽ: ví dụ, ở Thụy Điển ai cũng có quyền xem tất cả các hồ sơ chính thức. Các chính khách bị bêu diếu, nếu họ nhảy khỏi yên xe đạp và chui vào xe limousine công.

Người Bắc Âu đã cộng thêm hai phẩm chất quan trọng vào tính minh bạch: tính thực dụng và tính quyết đoán. Khi phát hiện rằng kiểu đồng thuận dân chủ xã hội cũ không còn tác dụng, họ sẵn sàng từ bỏ nó mà chẳng một lời bàn cãi ầm ĩ và áp dụng những ý tưởng mới từ đóng góp của mọi giới chính trị bất kể tả hữu. Họ cũng tỏ ra hết sức quyết tâm trong việc thực hiện triệt để các cải cách. Nếu thấy người Bắc Âu tử tế mà tưởng họ nhu nhược yếu đuối là ta nhầm to.

Tính thực dụng giải thích tại sao sự đồng thuận mới đã nhanh chóng thay thế sự đồng thuận cũ. Ví dụ, hiếm có chính khách Dân chủ Xã hội Thụy Điển nào muốn bãi bỏ những cải cách bảo thủ được thực hiện trong những năm gần đây. Tính thực dụng cũng giải thích tại sao dường như các nước Bắc Âu thường có thể là nơi tập hợp đủ kiểu chính sách thiên tả và thiên hữu.

Tính thực dụng cũng giải thích tại sao người Bắc Âu liên tục nâng cấp mô hình của họ. Họ vẫn còn gặp nhiều vấn đề. Các chính phủ của họ vẫn còn quá cồng kềnh và khu vực tư nhân ở các nước này còn quá nhỏ. Thuế của họ vẫn còn quá cao và một số khoản phúc lợi của họ quá hào phóng. Hệ thống đảm bảo công ăn việc làm linh hoạt (flexicurity) của Đan Mạch quá coi trọng đến sự bảo đảm việc làm, nhưng quá coi nhẹ tính linh hoạt. Sự phát triển bùng nổ dầu hỏa của Na Uy đang có nguy cơ tiêu diệt tinh thần làm việc siêng năng cần mẫn. Quả là dấu hiệu xấu khi ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 6% lực lượng lao động nghỉ bệnh và khoảng 9% dân số trong độ tuổi lao động sống bằng trợ cấp bệnh tật. Nhưng người Bắc Âu tiếp tục áp dụng các cải cách cơ cấu mới, có lẽ là hơi chậm nhưng đầy dứt khoát và cương quyết. Họ lại đang thực hiện những điều này mà không hề hy sinh các đặc tính khiến mô hình Bắc Âu vô cùng có giá trị: khả năng đầu tư vào vốn con người và bảo vệ cho người dân tránh khỏi những xáo trộn vốn là một phần của hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Noi gương Đan Mạch[ii]

Phần lớn các nước giàu hiện nay đang gặp những vấn đề mà người Bắc Âu đã gặp vào đầu những năm 1990 – chi tiêu công cộng vượt quá tầm kiểm soát và các chương trình phúc lợi an sinh quá hào phóng. Nam Âu cần đôi chút tính quyết đoán của Bắc Âu nếu muốn kiểm soát tài chính công. Và Mỹ cần đôi chút tính thực dụng của Bắc Âu nếu mong có cơ hội kiềm chế phúc lợi an sinh và cải cách khu vực công cộng.

Người Bắc Âu chẳng hề đỏ mặt ngượng ngùng khi cần quảng bá các ưu điểm của mô hình của họ. Các tổ chức nghiên cứu của Bắc Âu tiến hành những nghiên cứu chi tiết bằng tiếng Anh về cách họ cải cách nhà nước. Các chính khách tích cực bảo vệ quan điểm của mình ở các cuộc họp quốc tế và các chuyên viên tư vấn Bắc Âu mang kinh nghiệm chuyên môn của mình về khu vực công cộng đi bán khắp thế giới. Dag Detter đã đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tái cấu trúc danh mục đầu tư thương mại của nhà nước Thụy Điển trong những năm 1990, chiếm hơn một phần tư khu vực kinh doanh. Từ đó ông đã cố vấn cho chính phủ các nước ở Châu Á và Châu Âu.

Song khó mà hình dung được mô hình trị quốc của Bắc Âu có thể truyền bá nhanh chóng, chủ yếu bởi vì tài năng trị quốc Bắc Âu mang tính đặc thù, không giống ai. Việc trị quốc ở Bắc Âu xuất phát từ sự kết hợp địa lý khắc nghiệt và lịch sử ôn hòa. Tất cả các nước Bắc Âu đều có dân số ít,bởi vậy những người thuộc tầng lớp chóp bu cầm quyền phải hòa đồng với nhau. Vua chúa các nước này sống ở những nơi tương đối giản dị và giới quý tộc cũng phải kỳ kèo mặc cả với các nông dân và thủy thủ có suy nghĩ độc lập.

Họ sớm đi theo chủ nghĩa tự do. Thụy Điển bảo đảm tự do báo chí vào năm 1766, và kể từ những năm 1840 về sau Thụy Điển bãi bỏ chế độ ưu tiên cho quý tộc khi giao phó những chức vụ cao cấp trong chính phủ, và tạo ra hệ thống công quyền dựa trên năng lực và không có tham nhũng. Họ cũng theo đạo Tin Lành – một tôn giáo giảm vai trò của giáo hội xuống chỉ còn là người hỗ trợ và nhấn mạnh đến mối quan hệ trực tiếp giữa con người và Thượng Đế. Một trong những ưu tiên chính của giáo hội Tin Lành là dạy nông dân biết đọc.

Sự kết hợp giữa địa lý và lịch sử đã cung cấp cho các chính phủ Bắc Âu hai nguồn lực quan trọng: sự tín nhiệm người lạ và lòng tin vào các quyền cá nhân. Một khảo sát của Eurobarometer[iii] về sự tín nhiệm xã hội tổng quát (khác với lòng tin trong gia đình) cho thấy các nước Bắc Âu nằm ở các vị trí dẫn đầu (xem biểu đồ dưới đây). Giới kinh tế học cho rằng sự tín nhiệm ở mức độ cao dẫn đến chi phí giao dịch thấp hơn – không cần đến kiện tụng kiểu Mỹ hay những thương vụ “có qua có lại mới toại lòng nhau” kiểu Ý để được việc. Nhưng các ưu điểm của Bắc Âu không chỉ dừng lại ở đó. Sự tín nhiệm đồng nghĩa với việc những người tài đức tham gia bộ máy công quyền. Công dân đóng thuế và tuân thủ luật lệ. Các quyết định của chính phủ được nhiều giới tán thành.
 

Cuộc Khảo sát Các Giá trị Thế giới (The World Values Survey), đã thăm dò các giá trị ở hơn 100 nước từ năm 1981, cho biết dân Bắc Âu là những người có lòng tin lớn nhất thế giới về quyền tự chủ của cá nhân. Sự kết hợp kiểu Bắc Âu giữa chính phủ quy mô lớn và chủ nghĩa cá nhân có thể nghe kỳ lạ đối với một số người, nhưng theo Lars Tragardh, thuộc Đại học Ersta Skondal University College ở Stockholm, người Bắc Âu dễ dàng hòa hợp hai yếu tố này: họ xem công việc chính của nhà nước là cổ xúy quyền tự chủ của cá nhân và tính cơ động xã hội (social mobility).[iv] Bất cứ luật lệ xã hội nào của Bắc Âu – đặc biệt là các luật gia đình trong những năm gần đây – cũng có thể được chứng minh là ủng hộ quyền tự chủ của cá nhân. Dịch vụ giáo dục miễn phí phổ quát[v] giúp cho sinh viên thuộc mọi tầng lớp và hoàn cảnh đạt được tiềm năng của mình. Việc đánh thuế tách bạch đối với các cặp vợ chồng giúp người vợ được bình đẳng với người chồng. Dịch vụ giữ trẻ phổ quát tạo điều kiện cho cả hai bậc cha mẹ có thể đi làm toàn thời gian. Ông Tragardh có một cụm từ hữu ích để mô tả tâm lý này: “chủ nghĩa cá nhân có sự can thiệp của nhà nước” (statist individualism).

Người Bắc Âu mang theo thái độ này đối với chính phủ khi họ ra nước ngoài. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khoảng 1,3 triệu người, một phần tư dân số Thụy Điển lúc đó, di cư, chủ yếu sang Mỹ. Nước Mỹ sáng tác cả thể loại chuyện tiếu lâm về “những người Thụy Điển khờ khạo” và thái độ sẵn sàng tuân thủ luật lệ của họ. Chính những người Thụy Điển khờ khạo đã tạo nên các cộng đồng được quản lý tốt nhất ở Mỹ, chẳng hạn như Minnesota. Thậm chí ngày nay những người Mỹ gốc gác Bắc Âu có khả năng cao hơn 10% so với người Mỹ trung bình về chuyện tin rằng “phần lớn mọi người có thể tin được”.

Quy mô lớn nhỏ không phải yếu tố duy nhất


Giới kinh tế học thường ngỡ ngàng về thành công kinh tế gần đây của các nước Bắc Âu trong khi chính phủ các nước này có quy mô quá lớn. Theo một quy tắc không chính thức trong giới chuyên môn, nếu số thu thuế tính theo tỉ lệ phần trăm của GDP tăng lên 10 điểm phần trăm, thì thường có tương quan với mức giảm nửa điểm phần trăm về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Nhưng các con số như vậy cần được điều chỉnh để phản ánh các lợi ích của tính trung thực và hiệu quả. Ví dụ, chính phú Ý ấn một gánh nặng kinh khủng đè lên vai xã hội vì các chính khách điều hành chính phủ chủ yếu lo chuyện vơ vét lợi lộc chứ không phải cung cấp dịch vụ công cộng. Goran Persson, cựu thủ tướng Thụy Điển, từng so sánh nền kinh tế Thụy Điển với một con ong – “với một cơ thể quá nặng nề và đôi cánh nhỏ, cứ tưởng con ong không bay nổi, nhưng nó bay được”. Ngày nay con ong đó vẫn đang giữ thể trạng khỏe mạnh và đang bay khỏe hơn nhịp bay của nó trong mấy chục năm qua.

Nguồn: The Economist
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
________________________________________________
Chú thích:

[i] Cecil John Rhodes (1853-1902) là doanh nhân Anh, nhà tài phiệt ngành khai khoáng (chủ tịch đầu tiên của công ty kim cương De Beers), và chính khách ở Nam Phi. Ông dùng gia sản của mình lập học bổng Rhodes tài trợ cho sinh viên xuất sắc nước ngoài học ở Đại học Oxford. Học bổng này được nhiều nguồn như tạp chí Time, nhà xuất bản Yale University Press, báo The McGill Reporter,và Associated Press xem là học bổng quốc tế danh giá nhất thế giới. (Wikipedia)

[ii] Nguyên văn: “getting to Denmark”. Theo Ian Morris, chủ đề trọng tâm của tác phẩm Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối cùng(The End of History and the Last Man, 1999) của Francis Fukuyama là “noi gương Đan Mạch”. Tác giả Fukuyama ý muốn nói đến việc tạo ra những xã hội ổn định, thanh bình, thịnh vượng, dung nạp mọi thành phần và tầng lớp, và trung thực. Cũng như trong tiểu luận nổi tiếngSự cáo chung của lịch sử làm tiền đề cho cuốn sách này, Fukuyama xem đây là điểm tận cùng hợp lý của phát triển xã hội, và cho rằng tính chất Đan Mạch đòi hỏi phải có ba yếu tố: các nhà nước vận hành hiệu quả, chế độ pháp trị, và chính phủ có trách nhiệm giải trình. (Ian Morris, How To Get to the End of History, Slate, 2 May 2011)

[iii] Eurobarometer là loạt khảo sát dư luận được thực hiện định kỳ nhân danh Ủy hội Châu Âu kể từ năm 1973, về nhiều loại chủ đề liên quan đến Liên hiệp Châu Âu ở các nước thành viên. (Wikipedia).

[iv] Tính cơ động xã hội (social mobility) là khái niệm về sự dịch chuyển của các cá nhân, gia đình, hay nhóm người, trong một hệ thống đẳng cấp hay giai tầng xã hội. Nếu sự dịch chuyển đó là thay đổi về vị trí/chức vụ mà không thay đổi về tầng lớp xã hội, thì gọi là “cơ động theo chiều ngang” (horizontal mobility). Ví dụ một người dịch chuyển từ một chức vụ quản lý ở công ty này sang một chức vụ tương tự ở một công ty khác. Nhưng nếu sự dịch chuyển làm thay đổi tầng lớp xã hội thì gọi là “cơ động theo chiều dọc” (vertical mobility), và có thể “cơ động hướng lên” (upward mobility) hoặc “cơ động hướng xuống” (downward mobility). Một công nhân trở thành doanh nhân giàu có dịch chuyển lên giai cấp cao hơn; một quý tộc có đất bị mất hết gia sản trong một cuộc cách mạng dịch chuyển xuống giai cấp thấp hơn. (Bách khoa toàn thư Britannica)

[v] Dịch vụ giữ trẻ phổ quát (universal day care) là hệ thống bảo đảm mọi bậc phụ huynh đều có chỗ gửi con ở nhà trẻ mà không phải chờ đợi, thường có mức phí thấp và cố định. Ví dụ, ở Thụy Điển hệ thống này chủ yếu do nhà nước điều hành, chỉ có 20% đi nhà trẻ tư nhân. Năm 2002, nhà nước Thụy Điển áp dụng khung phí tối đa, giúp hệ thống này càng dễ trang trải hơn vì phí giữ trẻ mà phụ huynh đóng chiếm không quá 1 đến 3% thu nhập của họ. (Devine, Dympna & Kilkenny, Ursula, Nordic childcare model best for economic and social wellbeing, Irish Times, 9 June 2011)

Nguyễn Gia Kiểng: Trí thức là một khái niệm chính trị

...Trước hết thế nào là một trí thức?  Có bao nhiêu nhà tư tưởng đặt ra câu hỏi này thì có bấy nhiêu câu trả lời. Cũng tương tự như từ "triết học" mà nó có quan hệ khá gần gũi, khái niệm "người trí thức" không có một định nghĩa được mọi người chấp nhận. Tuy nhiên ngay cả người bình thường cũng có thể nhận định khá đúng ai là trí thức ai không phải là trí thức trong những trường hợp cụ thể. Thí dụ như một người dân thường cũng có thể đánh giá một người có học vị và địa vị cao nhưng qụy lụy chạy theo danh lợi là không phải trí thức. Ở đây trí thức là một thái độ. Trong một trường hợp khác trí thức có thể là một trình độ; người ta có thể nói "như thế cũng được rồi, ông ta không phải là một trí thức" để bào chữa cho một phát biểu thiếu sáng sủa và chính xác.
   
Baruch Spinoza (1632–1677) là một triết gia và một trí thức lớn. Ông bị cộng đồng người Do Thái tại Hòa Lan khai trừ và cô lập vì phản bác một số tín điều của đạo Do Thái. Ông cũng không được những người Công Giáo và Tin Lành chấp nhận vì bị coi là vô thần. Ông bị ruồng bỏ bởi cả cộng đồng người Do Thái lẫn xã hội Hòa Lan. Ông sống cô đơn và nghèo khổ tại Amsterdam bằng nghề thợ mài kính. Có lúc bị bạo hành. Spinoza hiền lành và nhẫn nhục nhưng vẫn quyết tâm giữ lập trường của mình bằng mọi giá. Ngoài công việc nghề nghiệp bắt buộc Spinoza dành trọn cuộc đời cho học hỏi, suy nghĩ và viết. Cuốn "Đạo Đức" được coi là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất về đạo đức học. Ông cũng viết về nhiều đề tài triết học khác. Do nghề mài kính Spinoza hít phải nhiều bụi kính và chết vì bệnh phổi. Ông chết an nhiên, không hối tiếc, không sợ hãi cũng không hờn giận. Cả thế kỷ sau khi ông qua đời người ta mới đánh giá đúng tư tưởng của ông và tôn vinh ông. Đồng ý hay không với ông, không ai phủ nhận Spinoza là một nhân cách và một trí thức lớn.

Spinoza được coi là một trí thức lớn vì ông là người không những có kiến thức lớn và những tư tưởng đặc sắc - nếu chỉ có thế thì ông chỉ là một triết gia - mà còn có can đảm phản bác những tín điều thời thượng được áp đặt trong môi trường của ông như những chân lý tuyệt đối và chấp nhận trả giá cho niềm tin của mình. Ngược lại ít ai coi Galileo (1564–1642) là một trí thức dù ông là một nhà bác học rất lớn vì Galileo đã run sợ trước quyền lực của giáo hội công giáo La Mã và phủ nhận khám phá lớn của chính ông, đó là trái đất xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời xoay quanh trái đất như mọi người tin vào lúc đó. Đặc tính khiến Spinoza, khác với Galileo, được coi là trí thức là ở chỗ ông đã dám phát biểu những điều mình nghĩ là đúng dù trái ngược với lập trường chính thống và chấp nhận trả giá cho ý kiến của mình.

Một trong những trí thức vĩ đại đầu tiên của thế giới là Socrates sống vào cuối thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Socrates đả kích gay gắt chế độ dân chủ vừa được tái lập tại Athens và bị chế độ dân chủ này xử án tử hình. Socrates đã lầm về tư tưởng chính trị. Ông phê phán rất đúng những thiếu sót của chế độ dân chủ Athens lúc đó nhưng ông đã không nhận định được một điều là các chế độ dân chủ có khả năng sửa chữa những thiếu sót và tự cải tiến trong khi chế độ độc tài sáng suốt của những "vua hiền triết" mà ông chủ xướng vừa không thể có vừa độc hại nếu vạn nhất được thiết lập. Nhưng Socrates đã lý luận một cách lương thiện, đã dám phản bác quyền lực chính trị nhân danh những lý luận đó và đã chấp nhận thà chết chứ không bỏ lập trường của mình. Theo truyền thuyết ông đã tuyên bố khi phiên tòa kết thúc rằng: "Bây giờ chúng ta chia tay, quí vị để tiếp tục sống còn tôi để chết. Ai đúng chỉ có Trời biết, nhưng  một cuộc đời không suy luận là một cuộc đời không đáng sống". Hậu thế đã tôn vinh Socrates, dù ông nghĩ sai về chế độ chính trị tốt nhất, vì ông đã dám chết để giữ ý kiến của mình. Ngược lại chế độ dân chủ Athens đã hoàn toàn sai khi bách hại Socrates vì ý kiến của ông. Phẩm cách trí thức và triết gia của Socrates còn thể hiện một cách cao cả trong câu "ai đúng chỉ có Trời biết"; Socrates không quả quyết là mình chắc chắn đúng, nhưng vẫn chấp nhận chết cho ý kiến của mình.

Hai mẫu mực trí thức trên đây cho phép nhận ra một số nét đậm của một trí thức. Cả hai đều là những người có trình độ hiểu biết và lý luận cao, dù cả hai đều không có bằng cấp nào cả. Đó cũng là những người suy nghĩ và lý luận một cách lương thiện, nghĩa là lý luận để tìm đến một kết luận hợp lý chứ không lý luận để biện minh cho một kết luận đã có sẵn, bị áp đặt hoặc tự áp đặt. Và, quan trọng hơn, dám sống trung thực với lập trường của mình bằng mọi giá. Hai nét đậm cần được đặc biết lưu ý: cả hai đều dấn thân về mặt chính trị nhân danh cái đúng và cả hai đều phản kháng luồng tư tưởng chính thống. Trường hợp Socrates đã rõ ràng nhưng trường hợp Spinoza cũng không khác. Ở vào thời đại của ông tôn giáo và chính trị chỉ là một; trong cộng đồng Do Thái giáo lý Do Thái là luật, trong xã hội Hòa Lan, và Châu Âu nói chung, thánh kinh Thiên Chúa Giáo là hiến pháp. Họ đi đến tư tưởng phản kháng vì biết tự đặt cho mình những câu hỏi và tìm câu trả lời cá nhân của mình cho những câu hỏi đó; họ suy tư một cách độc lập, bằng cái đầu của chính mình.

Dấn thân chính trị và phản biện là cốt lõi và cũng là định nghĩa của người trí thức. Thực vậy, nếu khái niệm trí thức và những con người trí thức đã có từ rất lâu thì danh từ "người trí thức" – l'intellectuel - chỉ thực sự xuất hiện trong tiếng Pháp vào cuối thế kỷ 19 cùng với vụ án Dreyfus. Dreyfus là tên một sĩ quan Pháp gốc Do Thái bị buộc tội phản quốc một cách oan ức vì tinh thần bài Do Thái lúc đó. Một số nhân vật tên tuổi, trong đó có văn hào Emile Zola, đã bất bình và lên tiếng bênh vực Dreyfus nhân danh công lý. Họ bị phe chống Dreyfus gọi một cách mỉa mai là những trí thức, les intellectuels, hàm ý là ưa cãi lý. Họ đã thản nhiên chấp nhận danh xưng này và tiếp tục bênh vực Dreyfus. Cuộc tranh luận gay go đã kéo dài gần mười năm và cuối cùng họ đã thắng. Từ một thiểu số không đáng kể chống lại cả một chế độ lúc ban đầu họ đã dần dần được hưởng ứng và thuyết phục được dư luận, buộc chính quyền Pháp phải hủy bỏ bản án và phục hồi danh dự cho Dreyfus. Các từ để chỉ người trí thức trong các ngôn ngữ khác đều dịch từ tiếng Pháp, kể cả từ "trí thức" trong tiếng Việt. Từ đó "trí thức" luôn luôn gắn liền với phản biện chính trị, hoặc để chống lại một chính quyền hoặc để chống lại một ý thức hệ thời thượng. Trong tiếng Anh từ intellectual có nghĩa khác nhau tùy theo được dùng như tính từ hay danh từ. Tính từ intellectual khá phổ biến và có nghĩa là trí tuệ, để chỉ những gì do trí óc mà có, thí dụ như intellectual property có nghĩa là quyền sở hữu trí tuệ. Danh từ intellectual ít được sử dụng và thường có nghĩa là những người không lao động tay chân, những non-manual workers; trong giới hiểu biết nó vẫn giữ ý nghĩa và nguồn gốc Pháp của nó. Tại Việt Nam do sự kiện từ "trí thức" được du nhập trong khi chưa có những người trí thức đúng nghĩa nó dần dần biến chất và thường được dùng để chỉ những người có bằng cấp tương đối cao.

Vì xuất phát từ Pháp nên cuộc tranh luận "thế nào là một người trí thức?" đã sôi nổi nhất tại Pháp. Các nhà tư tưởng của Pháp đã đưa ra nhiều định nghĩa cho người trí thức. Các định nghĩa này không mâu thuẫn với nhau, chúng chỉ nhấn mạnh những điểm khác nhau. Theo J.P. Sartre, người trí thức trước hết là người quan tâm đến những chuyện của xã hội, ngay cả khi cá nhân mình không bị đụng chạm, hàm ý là người dấn thân chính trị. Raymond Aron định nghĩa người trí thức là người sáng tạo ra những ý kiến mới đồng thời cũng là một "khán giả nhập cuộc". Chúng ta sẽ bàn sau về nhận định này. Nhiều người dùng lại định nghĩa con người công chính của Diderot theo đó trí thức là người từ chối sự im lặng đồng lõa và lên tiếng tố giác bất công và tội ác. Albert Camus, giải Nobel văn chương năm 1957, định nghĩa trí thức như là người đứng về phía những người bị trị thay vì những người thống trị. Nói chung, có một đồng thuận là trí thức phải là người phản kháng hoặc sẵn sàng phản kháng. Không thể khác, chức năng của trí thức là cải thiện và đổi mới, nghĩa là phản bác cái hiện có để cổ võ cho cái phải có hoặc nên có.

Không nên lẫn lộn "trí thức" với những vai trò khác trong xã hội, như học giả, nhà văn, chuyên gia, nhà khoa học v.v. Những người này là trí thức hay không tùy theo họ có hiểu biết về những vấn đề chính trị xã hội và có sẵn sàng lên tiếng hay không. Tư cách trí thức chỉ đặt ra đối với những người có quan tâm chính trị và xã hội. Càng không nên lẫn lộn trí thức với cụm từ Mác-Lênin "lao động trí óc". Hai danh xưng này không chỉ khác nhau mà còn đối chọi với nhau. Người trí thức chủ yếu là trí thức ngoài công việc "lao động" hàng ngày, có thể đã nghỉ hưu, thậm chí có thể là trí thức trên giường bệnh hay trong nhà tù. Tôi biết chuyện một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong trại cải tạo sau chiến thắng cộng sản 1975 vẫn tiếp tục tranh luận rằng chủ nghĩa cộng sản là sai cho đến khi bị xử bắn. Anh ta là một trí thức. Một người là trí thức khi quan tâm tới những vấn đề chính trị và xã hội và sẵn sàng phản bác những bất công và vô lý để cổ võ cho lẽ phải và công lý. Các chế độ cộng sản toàn trị không chấp nhận sự phản kháng, do đó chúng phủ nhận vai trò trí thức. Đừng nên quên rằng đã có một thời mà khẩu hiệu của các chế độ cộng sản (không riêng gì tại Việt Nam) là "trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ". Họ chủ trương tiêu diệt trí thức để tiêu diệt mọi mầm mống chống đối. Đối với họ chỉ có những người lao động, lao động chân tay và lao động trí óc. Chỉ gần đây thôi họ mới thừa nhận sự hiện hữu của các trí thức, nhưng lại đồng hóa trí thức với thành phần lao động trí óc chứ vẫn không nhìn nhận trí thức như một thành phần chính trị và xã hội. (Cũng nên lưu ý một điều là nghị quyết 27 NQ/TW năm 2008 của ĐCSVN định nghĩa trí thức là những người lao động trí óc "có năng lực tư duy độc lập", như vậy cũng gián tiếp nhìn nhận đặc tính phản biện của trí thức). Nhưng cụm từ "lao động trí óc" tự nó đã trở thành vô nghĩa. Ngày nay trong các nước phát triển tuyệt đại đa số công nhân không còn làm việc bằng chân tay. Một nhân viên sở thuế, một thư ký tòa án, một chuyên viên chế tạo các trò chơi điện tử, một tài xế đường sắt cao tốc v.v.. đều "lao động trí óc" cả, nhưng không phải vì thế mà họ là những trí thức. Trí thức là một khái niệm chính trị.
   
Tóm lại nếu phải định nghĩa người trí thức thì ta có thể nói: trí thức là những người do được đào tạo hay tự học đã đạt tới một trình độ hiểu biết và lý luận trên trung bình, quan tâm tới những vấn đề chính trị và xã hội, suy nghĩ một cách lương thiện, biết tự đặt cho mình những câu hỏi và tìm câu trả lời của mình cho những câu hỏi đó và sẵn sàng thách thức mọi thế lực để bảo vệ quan điểm của mình. Người trí thức phải suy nghĩ một cách độc lập và do đó không thể chấp nhân một sự chỉ đạo tư tưởng nào cả.

Còn lại vấn đề mà Raymond Aron nêu ra khi ông định nghĩa trí thức như những "khán giả nhập cuộc". Tại sao không là tác nhân, hay diễn viên, mà lại là khán giả? Đó là vì trong hành động người ta bắt buộc phải thỏa hiệp với thực tế, điều mà trên nguyên tắc người trí thức không thể làm. Các chế độ Bắc Cao Ly và Syria hiện nay là những chế độ tội ác gớm ghiếc nhưng chúng có sức mạnh quân sự và cũng được Nga và Trung Quốc che chở, không thể xóa bỏ chúng một cách dứt khoát và tức khắc. Những người dân chủ Việt Nam và Trung Quốc cũng phải đối đầu các chính quyền hung bạo nhưng đầy phương tiện và được thế giới nhìn nhận. Trừ khi chọn giải pháp bạo lực vừa điên rồ vừa vô vọng họ cũng phải chấp nhận rằng lộ trình dân chủ hóa sẽ phải đi qua những thỏa hiệp giai đoạn. Tuy vậy, thỏa hiệp cũng là hy sinh, dù chỉ là một phần và tạm thời, những đòi hỏi chính đáng, do đó mâu thuẫn với thái độ trí thức. Người trí thức có hai chọn lựa. Hoặc không hành động để khỏi phải thỏa hiệp và phát biểu trọn vẹn lập trường của mình, nghĩa là làm một khán giả, nhưng một khán giả nhập cuộc vì dứt khoát ủng hộ cuộc vận động dân chủ. Hoặc là tham gia vào một tổ chức dân chủ và chấp nhận những thỏa hiệp mà tổ chức bắt buộc phải làm, trong trường hợp này người trí thức nhập cuộc và hành động chỉ là khán giả của những thỏa hiệp. Điều quan trọng là phải ý thức rằng chỉ có tổ chức mới bị bắt buộc và mới có quyền thỏa hiệp; đối với một cá nhân thỏa hiệp là từ bỏ cương vị trí thức và tự đánh mất mình.

Việt Nam có trí thức không?

Chúng ta đang đứng trước sự thách đố xấc xược của một chính quyền tham nhũng trắng trợn chà đạp nhân quyền và xã hội dân sự. Trên thực tế đảng cộng sản cư xử như một lực lượng chiếm đóng áp đặt sự thống trị của họ lên nhân dân Việt Nam. Dấn thân đấu tranh cho dân chủ là mệnh lệnh của lương tâm và phẩm giá, điều này không cần và cũng không thể bàn cãi. Người trí thức Việt Nam chỉ có thể là người phản kháng, theo một trong hai chọn lựa vừa trình bày. Nếu hiểu như thế thì dù nhân nhượng coi trí thức là người trong phần lớn các trường hợp, chứ không cần mọi lúc và mọi nơi, hành xử đúng theo tiêu chuẩn trí thức trên đây, chúng ta vẫn phải nhìn nhận rằng Việt Nam có rất ít trí thức, quá ít để có thể nói tới một tầng lớp trí thức. Người trí thức phải là người dấn thân chính trị nhưng những người dấn thân chính trị quá ít, và trong số những người hoạt động chính trị một tỷ lệ khá lớn cũng không phải là trí thức. Đa số những người mà chúng ta gọi là trí thức thực ra chỉ là những "chuẩn trí thức", nghĩa là những người có kiến thức và khả năng lý luận. Với một cố gắng học hỏi vừa phải họ có thể hiểu biết về chính trị và, nếu dám sống thực nói thẳng, có thể trở thành những người trí thức. Nhưng cố gắng này họ không chịu làm vì họ có thành kiến là chính trị không cần phải học. Bất cứ ai hễ có quyền lực hoặc có bằng cấp cũng cảm thấy có đủ tư cách để nói về chính trị một cách đầy tự tin.
   
Thái độ vô lễ với kiến thức chính trị này là một di sản văn hóa và lịch sử. Trong hàng nghìn năm, giai cấp sĩ, tiền thân của những người được coi hoặc tự coi là trí thức hiện nay, là một loại người vừa vô học vừa vô đạo về mặt chính trị. Họ không phải là trí thức mà còn là cái ngược lại của trí thức. Nghị luận đối với họ chỉ là tìm mọi lý lẽ để biện hộ cho trật tự chính trị sẵn có. Đó là những người mà mộng đời là được làm tay sai không điều kiện cho các bạo quyền để hà hiếp và bóc lột những người dân cùng khổ. Họ dành cả cuộc đời để học những kinh điển cũ kỹ không liên quan gì tới thực tế và được bổ nhiệm làm quan cai trị sau khi đậu những khóa thi thơ phú. Trình độ hiểu biết về sinh hoạt xã hội của họ còn thấp hơn quần chúng. Sau đó là chế độ cộng sản trong đó "tư tưởng chính trị" duy nhất được giảng dạy là chủ nghĩa Mác-Lênin, một chủ nghĩa khủng bố, và trong đó những người có chút kiến thức chỉ có vai trò "lao động trí óc", nghĩa là làm những dụng cụ ngoan ngoãn cho chính quyền. Chúng ta không có văn hóa chính trị. Truyền thống chính trị của chúng ta coi làm chính trị chỉ là để làm quan và làm quan không cần kiến thức chính trị vì chỉ có quyền trên người dân chứ không có trách nhiệm với người dân. Chỉ có "chức quyền" chứ không có "chức trách".

Di sản đó còn để lại một tật nguyền trí tuệ lớn khác. Đó là phần lớn những người có học vị và địa vị không lý luận một cách lành mạnh. Họ không lý luận để tìm một kết luận đúng mà thường chỉ lý luận để biện hộ cho một kết luận có sẵn. Một nhà khoa học lớn nói rằng người trí thức là người lao động trí óc, không liên hệ gì với phản biện. Phát biểu này chứng tỏ rằng ông không hề bỏ thời giờ tìm hiểu thế nào là người trí thức. Ông nói như thế chỉ vì ông có những lý do khác để không muốn phản biện. Một nhân sĩ có tên tuổi khác tuyên bố rằng không cần phải bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối với trí thức mà chỉ cần nới lỏng. Nhưng làm sao có thể suy nghĩ một cách độc lập và sáng tạo nếu bị "lãnh đạo"? Hơn nữa lý do để phải bỏ sợi dây xích tròng vào cổ trí thức đâu phải vì nó xiết quá chặt làm đau cổ! Sợi dây xích làm nhục, và làm thui chột trí tuệ, trước khi làm đau. Vị nhân sĩ này nói như thế vì không muốn bị coi là "chống đảng" với những hậu quả bất lợi. Một vị khác nói rằng người Việt hải ngoại không còn thắc mắc về chế độ chính trị tại Việt Nam nữa. Cũng là một phát biểu thực dụng để làm vừa lòng chính quyền dù hoàn toàn sai. Tác giả bài này đã nhiều lần nhận định rằng chúng ta thiếu một tầng lớp trí thức chính trị. Đó là một cách nói để tránh đụng chạm. Thực ra phải nói một cách ngắn gọn là chúng ta thiếu trí thức bởi vì trí thức là một khái niệm chính trị. Không có trí thức phi chính trị.

Tại sao Việt Nam lại là Việt Nam như hiện nay?

Chúng ta là một dân tộc cần mẫn với một địa lý thuận lợi, nhưng tại sao thu nhập trung bình của một người Việt Nam lại chỉ bằng một phần mười mức trung bình thế giới? Chúng ta tự hào có bốn nghìn năm lịch sử nhưng tại sao Việt Nam lại nằm trong danh sách ít ỏi của các dân tộc chưa có tự do? Tại sao chúng ta phải trải qua ba mươi năm chiến tranh đẫm máu để chỉ chuốc lấy kết quả là nghèo khổ, lạc hậu và độc tài? Cùng một lý do: chúng ta đã không có lãnh đạo thông minh, và chúng ta không có lãnh đạo thông minh vì chúng ta thiếu những trí thức đúng nghĩa, trí thức chính trị.

Và tại sao hiện nay Việt Nam vẫn chưa chuyển động trong khi các dân tộc Trung Đông, Châu Phi, Châu Á dũng cảm đứng lên đòi dân chủ? Đó là vì cuộc đấu tranh đổi đời nào cũng phải do trí thức chủ xướng và lãnh đạo. Nhưng chúng ta quá thiếu trí thức. Chúng ta thiếu cái mà một dân tộc không thể thiếu. Trong mọi nước và mọi thời trí thức luôn luôn là đầu tàu của xã hội, và điều này càng đúng trong kỷ nguyên tri thức này.

Giải thích thế nào sự thiếu vắng này? Chắc chắn không phải vì chúng ta thiếu trí tuệ. Rất nhiều người Việt Nam thừa sức học hỏi để biết dân chủ là gì và phải đấu tranh cho dân chủ như thế nào nếu thực sự muốn. Cũng không phải vì chế độ cộng sản đàn áp quá hung bạo. Thành trì của chế độ hiện nay đã đủ rệu rã và các phương tiện truyền thông đã đủ mạnh để người trí thức có thể nói hết những điều mình cần nói. Với một chút thận trọng và khôn ngoan họ cũng có thể kết hợp với nhau thành lực lượng. Vấn đề thực sự chỉ là họ có muốn hay không, nói cách khác họ có phải là những trí thức đúng nghĩa hay không. Vả lại tại hải ngoại có hàng trăm ngàn người tốt nghiệp đại học không hề bị chính quyền cộng sản khống chế nhưng cũng vẫn không có nổi một lực luợng dân chủ có tầm vóc.

Muốn hay không muốn không phải là một vấn đề của lý luận mà là một vấn đề của tình cảm và ý chí. Thực tế phũ phàng là đại đa số những người Việt Nam được gọi là trí thức không mấy quan tâm đến đất nước và đồng bào họ. Khó có lý luận nào thuyết phục được họ từ bỏ sự vô cảm này, trừ tiếng nói nội tâm của chính họ.
 
Nguyễn Gia Kiểng
(tháng 3/2012)

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Nguyên nhân suy tàn của kinh đô Angkor

Angkor Thiêng Liêng. Sau khi vươn lên những chiều cao hùng vĩ, có lẽ thành phố thánh đã thiết kế sự suy sụp cho chính nó. (Divining Angkor. After rising to sublime heights, the sacred city may have engineered its own downfall)

Từ không trung, ngôi đền cũ từ hàng nhiều thế kỷ xuất hiện và biến mất như một ảo ảnh.  Thoạt tiên, nó không hơn gì một vết nhòe nâu sậm trong vòm rừng phía Bắc Cambodia.  Bên dưới chúng tôi là thành phố tiêu vong Angkor, hiện tại bị tàn phế và cư dân hầu hết là nông dân làm ruộng lúa. Từng khóm nhà Khmer, dựng đứng trên những cây cọc để đối phó với lũ lụt trong vụ gió mùa hè - chấm phá thành một phong cảnh từ hồ Tonle Sap, một "hồ vĩ đại" của vùng Đông Nam Á châu, khoảng 20 dặm về hướng Nam, đến dãy đồi núi Kulen - một chỏm nhô ra từ miền đồng bằng đất lụt trong một khoảng cách tương đương về hướng Bắc.  Rồi, trong khi Donald Cooney lái chiếc máy bay rất nhỏ lượn trên đầu những ngọn cây, ngôi đền hùng tráng hiện ra trong tầm mắt.

Khôi phục vào thập niên 1940s, ngôi đền Banteay Samre, cất vào thế kỷ thứ 12, dâng hiến cho vị thần Ấn Độ giáo Vishnu, gợi lại một Đế Quốc Khmer hưng thịnh vào thời Trung Cổ.  Ngôi đền được bao quanh bởi hai hành lang có vách tường vuông và đồng tâm.  Có lẽ đã có lúc những vách tường này được bao bọc bởi một hào nước tượng trưng cho đại dương bao tròn ngọn núi Tu Di [i], tức là nơi cư trú huyền thoại của các vị thần Ấn Độ giáo.  Banteay Samre chỉ là một trong hơn một ngàn ngôi đền mà người Khmer dựng lên tại thành phố Angkor trong một giai đoạn kiến thiết thoải mái trong quy mô và tham vọng trở nên đối thủ với các kim tự tháp của Ai Cập.  Sau khi chúng tôi bay qua, tôi thò cổ ra nhìn lần chót.  Ngôi đền đã biến mất trong rừng.

Angkor là cảnh của một trong những hoạt động lớn nhất bị biến mất từ xưa đến nay.  Vương quốc Khmer tồn tại từ thế kỷ thứ 9 đến 15, và vào lúc cực thịnh, đã chế ngự trên một lằn cắt rộng lớn ở Đông Nam Á châu, từ Miến Điện ở hướng Tây đến Việt Nam ở hướng Đông.  Có tới 750,000 người sống tại Angkor, tức thủ đô của vương quốc, trải dài qua một khu vực bằng cỡ năm thị xã của thành phố New York, biến nó thành một quần thể đô thị lớn nhất của thế giới thời tiền kỹ nghệ.  Vào cuối thế kỷ thứ 16, khi các giáo sĩ Bồ Đào Nha xông vào các tháp có dáng hoa sen của đền Angkor Wat - một đền trau chuốt nhất trong các ngôi đền của thành phố và là cổ tích tôn giáo lớn nhất thế giới - thì thủ đô một thời huy hoàng của đế quốc đã lặng chết trong đau đớn.

Các học giả đưa ra một danh sách dài những nguyên nhân được nghi ngờ là lý do khiến Angkor Wat bị tàn phế, chẳng hạn như do kẻ xâm lược tham tàn, do chủ ý thay đổi tôn giáo, hoặc do chuyển qua việc mậu dịch đường biển nên thành phố trong đất liền bị hủy bỏ.  Hầu hết đều là phỏng đoán: Khoảng 1,300 chữ khắc hãy còn trên những cột cửa và bia đá dựng riêng rẽ, nhưng người Angkor đã không lưu lại một chữ nào để giải thích sự sụp đổ của vương quốc họ.

Các vụ khai quật gần đây, không phải khai quật các đền mà là hạ tầng kiến trúc của thành phố rộng lớn này, cùng đưa đến một câu trả lời mới. Số phận Angkor, như nó xuất hiện, đã được phán quyết bởi ngay chính sự tinh xảo của nó, mà mục tiêu ban đầu là  nhằm cải biến một tập hợp những lãnh địa nhỏ thành một đế quốc.Nền văn minh Angkor đã học cách khống chế những cơn lũ lụt của vùng Đông Nam Á châu, sau đó phai mờ vì việc quản trị nước - một nguồn tài nguyên tối quan trọng tại đây - bị vuột mất.

Một câu chuyện hấp dẫn, viết ngay tại chỗ, kể lại sinh hoạt vào lúc cực thịnh của thành phố.  Vào cuối thế kỷ thứ 13, Chu Đạt Quan [ii], một sứ thần Trung quốc, đã sống gần một năm tại thủ đô.  Ông sống một cách khiêm tốn như một người khách của một gia đình trung lưu, ăn cơm với muỗng làm bằng vỏ dừa và uống rượu làm từ mật ong, lá cây, hoặc gạo.  Ông mô tả một tập quán ghê tởm - đã được từ bỏ không bao lâu trước khi ông đến viếng - đó là tập quán thu thập lá mật từ những người còn sống biếu tặng để dùng làm chất bổ tăng can đảm.  Các hội hè tôn giáo mang đặc điểm đốt pháo và đấu heo rừng.  Cảnh bắt mắt nhất xảy ra khi vua mạo hiểm xuất cung với đoàn tùy tùng và đồ vật.  Đám ruớc hoàng gia gồm có voi và ngựa được trang hoàng bằng vàng, và hàng trăm cung nữ trang sức với bông hoa.

Tiết tấu sinh hoạt hàng ngày của Angkor cũng sống lại qua các điêu khắc đã tồn tại qua nhiều thế kỷ mục nát và, gần đây nhất là chiến tranh. Những phù điêu chạm trổ thấp tại mặt tiền của đền vẽ cảnh sinh hoạt hàng ngày - thí dụ, hai người đàn ông khom người xuống một bàn cờ, và một người đàn bà đang sinh con dưới mái đình phủ bóng mát - và cảnh sùng kính đối với thế giới thần linh, trong đó có những sinh vật như apsaras cư trú, tức là những vũ nữ trên thiên đàng, đẹp một cách quyến rũ và phục vụ như là những sứ giả giữa con người và thần linh.

Những phù điêu chạm trổ thấp cũng bộc lộ phiền nhiễu trên thiên đàng. Xen kẽ với nhãn quan của sự hài hòa nhân gian và sự khai sáng đáng phục là những cảnh chiến tranh.  Tại một phù điêu chạm trổ thấp, các chiến sĩ mang giáo, của vương quốc Chiêm Thành lân cận, đứng đầy từ đầu thuyền đến cuối thuyền và đang vượt qua hồ Tonle Sap. Đương nhiên, cảnh đó bất tử trên đá bởi vì người Khmer chiến thắng cuộc chiến này.

Mặc dù Angkor thắng trận xung đột đó, thành phố đã bị tan hoang bởi cuộc cạnh tranh, gia tăng mạnh mẽ tính chất dễ bị tổn thương của nó bởi các vụ tấn công từ Chiêm Thành về hướng Đông và vương quốc đáng sợ Ayutthaya [iii] về hướng Tây.  Các vua Khmer thường có vài vợ khiến dòng con thừa kế bị mập mờ và hậu quả là luôn luôn có âm mưu vì các vương tử tranh đoạt quyền lực.  Roland Fletcher, một khảo cổ gia tại Đại Học Sydney và là đồng giám đốc của một nỗ lực nghiên cứu được gọi là Dự án Angkor Vĩ Đại Hơn (Greater Angkor Project) nói rằng, "Qua nhiều thế kỷ, nó giống như trận chiến tranh hoa hồng [iv].  Vương quốc Khmer thường xuyên bất ổn định."

Vài học giả tin rằng Angkor tử vong do chính phong cách sinh hoạt của nó: sử dụng kiếm thương.  Bộ biên niên sử của vương quốc Ayutthaya ghi rằng chiến sĩ của vương quốc đó "chiếm" Angkor vào năm 1431.  Rõ ràng thành phố Khmer phồn vinh là một giải thưởng sung túc: chữ khắc trên đá khoe rằng các tháp đền được bọc bằng vàng, như câu chuyện đáng kinh ngạc của Chu Đạt Quan đã xác nhận.  Để giải thích những câu chuyện về sự giàu có của Angkor cùng những phế tích mục nát mà du khách Tây phương gặp phải thì cách nay một thế kỷ, các sử gia Pháp quốc kết luận rằng do cám dỗ ngấm ngầm đó mà vương quốc Ayutthaya cướp phá Angkor.

Fletcher nói ám ảnh của ông là "nghĩ cho ra điều gì khiến các vụ định cư phát triển và tàn lụi," hãy còn mơ hồ.  Ông nói rằng vài học giả trước đã nhìn Angkor qua lăng kính của các vụ bao vây và chiến thắng trong lịch sử Âu châu.  Fletcher nói, "Trong thực tế, nhà cai trị Ayutthaya nói rằng ông chiếm Angkor, và ông có thể chiếm vài biểu tượng và y phục chính thức của quốc vương để mang về Ayutthaya."  Nhưng sau khi Angkor bị chiếm, nhà cai trị Ayutthaya thiết lập con của ông ta lên ngai vàng.  "Hầu chắc ông sẽ không tàn phá Angkor trước khi giao Angkor cho con trai ông." [v]

Có lẽ âm mưu của triều đình không gây lo nghĩ cho hầu hết các chủ đề về Angkor, nhưng tôn giáo là trung tâm điểm đối với đời sống hàng ngày.  Những nhân chủng học gia gọi Angkor là một thành phố của lễ nghi vua chúa.  Những quốc vương của nó tự xưng là hoàng đế trên thế giới của kho tàng Ấn Độ giáo và xây dựng miếu đền cho chính họ.  Nhưng vì Phật giáo Tiểu Thừa dần dần làm lu mờ Ấn Độ giáo trong thế kỷ thứ 13 và 14, tôn chỉ của Phật giáo Tiểu Thừa về sự bình đẳng xã hội có lẽ đã uy hiếp giai cấp tinh hoa của Angkor.  Fletcher nói, "Phật giáo Tiểu Thừa làm suy yếu rất nhiều, giống như Cơ Đốc giáo làm suy yếu đế quốc La Mã.  Cực kỳ khó khăn để chặn đứng Phật giáo Tiểu Thừa."

Một chuyển biến tôn giáo như thế sẽ xói mòn quyền uy của triều đình.Thành phố của lễ nghi vua chúa vận hành trên một nền kinh tế không dùng tiền tệ, nương tựa vào cống vật và thu thuế.  Tiền tệ thực tế của vương quốc là gạo, tức là sản phẩm của những người lao động bị trưng dụng - những người xây dựng đền miếu và nhóm hàng ngàn người điều khiển họ.   Một bảng khắc chữ trên đá tại khu đền Ta Prohm ghi rằng 12,640 người đã chỉ phục vụ cho đền đó.  Bảng khắc chữ cũng ghi rằng hơn 66,000 nông dân sản xuất gần 3,000 tấn gạo mỗi năm để nuôi ăn tập thể sư sãi, vũ nữ, và công nhân xây đền này.  Chỉ cần cộng ba ngôi đền lớn với phương trình giống như thế - Preah Khan và khu quần thể lớn Angkor Wat và Bayon - và số lao động nông dân cần thiết sẽ bộc lên tới 300,000 người.  Đó là bằng gần phân nửa dân số được ước tính cho thành phố Angkor Vĩ Đại Hơn.  Có lẽ một tôn giáo bình đẳng, mới như Phật giáo Tiểu Thừa đã dẫn đến nổi loạn.

Hoặc giả chỉ đơn giản là triều đình hoàng gia từ bỏ Angkor.Những người thừa kế cai trị có tập quán xây dựng các quần thể miếu đền mới và để cho các quần thể miếu đền cũ mục nát, và cái sở thích xây dựng miếu đền mới đó có lẽ đã kết liễu thành phố khi mậu dịch hàng hải bắt đầu bộc phát giữa Đông Nam Á châu và Trung quốc. Có lẽ chủ nghĩa cơ hội kinh tế đơn giản, vào thế kỷ thứ 16, đã khiến trung tâm quyền lực Khmer di chuyển đến một địa điểm gần sông Mekong hơn, gần với thủ đô Cambodia ngày nay là Phnom Penh, để giúp sự đi vào Biển Đông dễ dàng hơn.

Động loạn tôn giáo và kinh tế có lẽ đã thúc đẩy Angkor suy sụp nhanh hơn, nhưng những người cai trị nó đã bị tấn công bất ngờ bởi một kẻ thù khác. Angkor trở thành một nhà máy nước thời Trung Cổ nhờ vào một hệ thống tinh xảo gồm những kinh đào và hồ chứa nước để giúp cho thành phố tích trữ nước khan hiếm trong các tháng hạn và phân phát nước thừa trong mùa mưa.  Những lực lượng nằm ngoài vòng kiểm soát của Angkor đã quăng bộ máy được điều chỉnh sắc sảo này vào tình huống hỗn loạn.

Một trong những địa điểm thần thánh nhất của Angkor nằm cao trên dãy núi đồi Kulen, tại đầu nguồn của hai dòng sông Puok và Siem Reap.  Dưới bóng những cây sung sần sùi, chìm dưới làn nước trong lững lờ trôi của một con lạch, là hàng hàng những khối u hình trụ tròn, mỗi khối rộng khoảng sáu inches [vi], khắc vào nền sa thạch đậm màu của đáy sông.  Đó là những lingams [vii] sờn mòn, tức là những điêu khắc đá có hình khối trụ tròn tượng trưng cho bản chất của vị thần Ấn Độ giáo Shiva.  Những hàng lingams dẫn dắt giống như một con đường đến một điêu khắc khác ở đáy sông: một khoảnh vuông vách tường dầy, rộng một yard [viii], với một lỗ vào nhỏ.  Đó là một yoni, một tượng trưng cho nguồn gốc của đời sống trong Ấn Độ giáo.

Những đại sư Angkor đến đây để cảm tạ thần linh đã cung cấp dòng máu sinh mệnh cho vương quốc.  Đi bộ một khoảng ngắn lên phía thượng nguồn là một cây cầu thiên nhiên bằng sa thạch, chia sẻ cho khu thánh địa này danh xưng Kbal Spean - tiếng Khmer nghĩa là "đầu cầu hoặc vùng yếu địa."  Nước chảy xiết qua một cái khe, văng tung tóe vào một tảng đá kế cận, đập vào nơi mà thần Vishnu [ix], tréo chân, trầm tư mặc tưởng trên một đại dương đang phẫn nộ; nổi ra từ rốn của thần là trục tròn hoa sen Brahma.  Tại đây, dãy núi đồi Kulen, các thần thời xưa vui hưởng rượu dâng vĩnh cửu từ dòng nước chảy đầy.

Bằng cách khai thác thủy triều gió mùa tuôn ra từ đồi núi Kulen, Angkor và những nhà cai trị của nó bộc phát mạnh mẽ.  Từ kỷ nguyên Jayavarman II, tức là người đặt cơ sở cho vương quốc vào đầu những năm 800, sự tăng trưởng của đế quốc tùy thuộc vào những vụ gặt lúa bội thu.  Trên toàn vùng Nam Á châu, có lẽ chỉ có các thành phố xưa của các tỉnh Anuradhapura và Polonnaruwa ở Sri Lanka và các hồ chứa nước trứ danh của họ là có thể so sánh với khả năng của Angkor để bảo đảm một nguồn cung cấp nước ổn định.

Mức tin cậy đó đòi hỏi các thành quả kỹ thuật vẹn toàn, bao gồm một hồ chứa nước gọi là hồ Tây dài năm dặm và rộng 1.5 dặm.  Để xây cất cái hồ chứa nước này, đứng hàng thứ ba và tinh xảo nhất Angkor cách nay cả ngàn năm, có lẽ đã cần đến 200,000 công nhân Khmer để dồn gần 16 triệu thước khối đất trong các đê chắn rộng 300 feet và cao ba tầng.  Cho đến nay, cái hồ hình chữ nhật này, hay baray, được tiếp nước bị chuyển hướng từ sông Siem Reap.

Vị học giả đầu tiên tán thưởng quy mô các công trình nước của Angkor là Bernard-Philippe Groslier, một khảo cổ học gia của French School of Asian Studies (EFEO) [x].  Trong một luận văn có ý nghĩa khám phá vào năm 1979, ông hình dung Angkor như là một "thành phố thủy lực."  Ông lý luận rằng các hồ vĩ đại phục vụ cho hai mục đích: để tượng trưng cho đại dương nguyên thủy của vũ trụ Ấn Độ giáo và để dẫn thủy nhập điền.  Thật không may là Groslier đã không thể theo đuổi quan điểm này xa hơn nữa.  Trận nội chiến Cambodia, chế độ tàn khốc Khmer Rouge, và vụ đánh đuổi chế độ này bởi quân đội Việt Nam vào năm 1979 biến Angkor thành một cấm khu trong hai thập niên.  Sau khi quân đội Việt Nam triệt thoái, bọn cướp cạn đổ về Angkor, ăn cắp các pho tượng và thậm chí đục mất các phù điêu chạm trổ thấp.

Khi Christophe Pottier, một kiến trúc sư và khảo cổ học gia, mở lại trạm nghiên cứu của EFEO tại Angkor vào năm 1992, ưu tiên trước hết là giúp Cambodia khôi phục những đền miếu bị mục nát và cướp phá.  Nhưng Pottier bị lôi cuốn vào chốn hoang dã nằm bên ngoài những vách tường đền miếu.  Ông bỏ ra nhiều tháng bôn ba một nửa vùng hướng Nam của Angkor Vĩ Đại Hơn bằng xe gắn máy và đi bộ, vẽ bản đồ những mô đất nhà cửa và thánh địa ẩn tàng gần các ao nhân tạo, được gọi là bồn nước.  (Tình trạng vô luật pháp dây dưa đã ngăn cản Pottier khảo sát một nửa vùng hướng Bắc.)  Rồi, vào năm 2000, Fletcher và đồng nghiệp Damian Evans nhúng tay vào các hình ảnh Angkor chụp bằng radar của NASA.  Các hình này là một khám phá: đội thuộc đại học Sydney, làm việc với EFEO và APSARA, một cơ quan Cambodia quản trị Angkor, đã tìm ra nhiều di tích hơn của các vụ định cư, kinh đào, và bồn nước, đặc biệt là tại những địa khu không thể đi vào được của Angkor.  Những chuyến bay nhỏ của Donald Cooney đã giúp Fletcher và Pottier, hiện nay là một đồng giám đốc của Dự Án Angkor Vĩ Đại Hơn, xem xét những đặc điểm này trong chi tiết tinh tế hơn.  Một cách tối quan trọng, họ đã tìm ra các lối nước vào và lối nước ra của các hồ, kết thúc vụ tranh luận tác động bởi công việc của Groslier về việc liệu rằng các hồ chứa nước đồ sộ chỉ được sử dụng cho các lễ nghi tôn giáo hay chỉ cho việc dẫn thủy nhập điền.  Câu trả lời rõ ràng là cho cả hai.

Các nhà nghiên cứu kinh ngạc trước tham vọng của các kỹ sư Angkor. Fletcher nói, "Chúng tôi nhận thức ra rằng toàn thể phong cảnh của Angkor Vĩ Đại Hơn là nhân tạo." Trải qua vài thế kỷ, những đội công nhân xây cất hàng trăm dặm kinh đào và đê điều dựa trên các khác biệt nhỏ trong khuynh hướng tự nhiên của đất để đổi hướng nước chảy từ Puok, Roluos, và sông Siem Reap Rivers vào các hồ. Trong các tháng gió mùa mùa hè, các kênh tràn nước thải giảm phần nước thặng dư. Sau khi mưa thưa dần trong tháng 10 hoặc 11, các kênh dẫn nước tháo nước tồn trữ ra. Có lẽ các hồ cũng giúp bổ sung độ ẩm cho đất bằng cách để cho nước ướt đẫm vào đất. Trên mặt các cánh đồng chung quanh, hơi nước sẽ rút nước ở dưới đất lên để cung ứng cho mùa màng. Fletcher nói, "Đó là một hệ thống thông minh một cách khó tin."

Hệ thống nước thông minh đó có lẽ đã tạo sự khác biệt giữa tầm thường và vĩ đại. Hầu hết gạo của vương quốc được gieo trồng tại những cánh đồng có đê chắn, nếu không thì phải dựa vào các trận mưa gió mùa hoặc thủy triều lên xuống theo mùa và lưu lượng nước trên vùng đồng bằng đất lụt của hồ Tonle Sap.  Sự dẫn thủy thúc đẩy mạnh thu hoạch.  Fletcher nói rằng hệ thống cũng có thể cung cấp khẩu phần lương thực để sống còn trong một mùa gió mùa tệ hại.  Và khả năng chuyển hướng dòng nước và tồn trữ nước là một phương cách bảo vệ khỏi tai họa lũ lụt.  Ông nói trong khi các vương quốc khác ở vùng Đông Nam Á châu vật vã đối phó với tình trạng ít nước quá hoặc nhiều nước quá thì các công trình nước của Angkor sẽ là "một tài sản chiến lược có giá trị sâu sắc."

Vì vậy Fletcher bị điên đầu khi đội của ông khai quật một trong các mảnh đặc thù của kỹ năng Angkor - một cấu trúc rộng lớn trong các công trình nước - và tìm thấy rằng nó đã bị phá hủy, rõ ràng bởi chính các kỹ sư của Angkor.

Lúc này là lúc gần trưa vào một ngày tháng Sáu, khoảng 10 dặm về hướng Bắc của đền Angkor Wat, và ngay cả ở dưới đáy của một vũng bùn, một đường mương dài 14-foot, thời tiết không dễ chịu chút nào dưới ánh nắng cháy da.  Fletcher dở cái nón xanh đậm ra và lau trán.  Trông giống như là nhà nghiên cứu điềm tĩnh và tự tin này sẽ phóng vào một giải thích chính xác về các khối đá đỏ xám mà đội của ông, cùng với Chhay Rachna thuộc cơ quan APSARA, đã khai quật.  Thay vào đó, ông thở ra và nói, "Cái này đơn giản là tuyệt vời!"

Các khối đá dính sát với nhau, được đẽo từ đất đỏ (đá ong), tức là một loại đất xốp mềm, đầy chất sắt, trở nên cứng khi phô ra trong không khí.  Khi Fletcher và Pottier tìm thấy lần đầu tiên một phần của cấu trúc cách nay vài năm, họ nghĩ đó là các phần còn lại của một cửa cống nhỏ.

Ông nói, "Nó trở nên một quái vật."  Các khối đá là tàn tích của một đường thoát nước xuyên qua một cái đập nằm nghiêng mà chiều dài có thể kéo ra bằng một sân chơi football.  Khoảng cuối thế kỷ thứ 9, với việc nở rộ của Angkor, các kỹ sư đào một con kinh dài để thay đổi dòng chảy của sông Siem Reap, tái định hướng nó chảy về hướng Nam, đổ vào hồ Đông mới được xây cất - một hồ chứa nước lớn gần bằng như hồ Tây.  Cái đập, vị trí đặt ở sông, chuyển hướng nước để cung cấp cho kinh.  Nhưng có lẽ một phần của cấu trúc đồ sộ này cũng vận hành như là một đường thoát nước khi gió mùa nổi lên, tức là khi mà nước sẽ phủ ngập cấu trúc thấp và chảy xuống đường sông trước đây.

Các đổ nát của đường thoát nước là một bằng cớ quan trọng đối với một cuộc chiến đấu hào hùng, bộc lộ sự kiện nhiều thế hệ kỹ sư Khmer đã ứng phó với một hệ thống nước trở nên phức tạp và bất quy củ hơn.  Fletcher nói, "Có thể họ đã bỏ một phần rất lớn đời sống của họ để tu sửa nó."  Vài khối đá của đập nằm lộn xộn; đại bộ phận của nề hồ bị mất đi.  Fletcher nói, "Sự giải thích hợp lý nhất là đập đã thất bại."  Có lẽ con sông đã ăn vào đập, dần dần làm nó suy yếu.  Có thể nó bị cuốn trôi đi bởi một vụ lũ lụt hồng thủy bất thường, loại lũ lụt xuất hiện mỗi một thế kỷ hay ngay cả mỗi 500 năm.  Sau đó, người  Khmer phá tung công trình đá còn sót lại, để dành các khối đá cho mục đích khác.

Một bằng chứng khác về việc thất bại của hệ thống nước, xuất phát từ một cái ao ở đền Tây Mebon, một ngôi đền trên đảo, ở giữa hồ Tây.  Hạt phấn hoa bảo tồn trong đất vụn cho thấy hoa sen và các thực vật sống trong nuớc khác đã phát triển mạnh mẽ trong hồ mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 13.  Rồi một loại phấn hoa mới xuất hiện, từ những chủng loại như dương xỉ ưa chuộng sình lầy hay đất khô.  Ngay vào điểm cực thịnh của Angkor, một trong các hồ chứa nước của nó hiển nhiên có lúc bị khô cạn.  Daniel Penny, một chuyên viên về hạt phấn hoa và là đồng giám đốc của Dự Án Angkor Vĩ Đại Hơn, nói "Một điều nào đó đã sai lầm sớm hơn rất nhiều khoảng thời gian mà chúng tôi dự kiến."

Bất cứ hư hỏng nào của công trình nước sẽ khiến Angkor dễ bị tổn thương do hiện tượng tự nhiên mà không có người kỹ sư nào vào thời đó có thể tiên liệu. Bắt đầu vào những năm 1300s, Âu châu chịu đựng một vài thế kỷ có khí hậu bất khả tiên đoán, đánh dấu bởi các mùa đông khắc nghiệt và mùa hè lạnh lẽo. Cho đến gần đây, chỉ có các tin tức sơ sài về các phần khác của thế giới đã biểu hiện như thế nào trong thời kỳ đó, được gọi là Thời Kỳ Băng Tuyết Nhỏ.  Rõ ràng là Đông Nam Á châu cũng trải qua biến động đột ngột về khí hậu.

Chung quanh Angkor, vụ gió mùa mùa hè kéo dài từ khoảng tháng 5 cho tới tháng 10 và cung cấp gần 90% lượng nước mưa hàng năm cho khu vực.   Một vụ gió mùa đều đặn là tối quan trọng cho mọi hình thức đời sống, kể cả cho con người.  Để lật ra những khuôn mẫu gió mùa của thời xưa, Brendan Buckley thuộc Đài Thiên Văn Địa Cầu Lamont-Doherty tại Palisades, New York, mạo hiểm đi vào những cánh rừng Đông Nam Á châu để tìm kiếm những loại cây có những vành tròn tăng trưởng mỗi năm.  Ông và đội của ông biết sẽ không dễ dàng: hầu hết các chủng vật tại khu vực này khiếm khuyết những vành tròn tăng trưởng có thể phân biệt được hoặc có những cây không sinh vành từ năm này qua năm nọ.  Vài vụ tàn phá cho kết quả tốt với các chủng loại sống lâu, bao gồm cây gỗ teak và po mu, một loại cây bách hiếm.  Vài cây po mu mà họ lập danh mục đã sống tới 9 thế kỷ, sống sót qua cả hai thời kỳ cực thịnh và tan rã của Angkor.

Những cây po mu kể lại một câu chuyện đáng kinh ngạc.  Các bộ vành tròn tăng trưởng bị thu hẹp lại cho thấy rằng cây đã chịu đựng những vụ hạn hán cực lớn, lặp đi lặp lại, từ năm 1362 đến năm 1392 và từ năm 1415 đến năm 1440.  Trong các thời kỳ này, vụ gió mùa bị yếu hoặc trì hoãn, và có vài năm, có lẽ vụ gió mùa hoàn toàn không xảy ra.  Trong những năm khác, những vụ gió mùa cực lớn tập kích khu vực này.

Đối với một vương quốc chao đảo thì tình huống khí hậu thái quá có thể đã là một phát súng ân huệ.  Hàng nhiều thập niên trước, các công trình nước của Angkor vốn đã bệnh hoạn, phán xét từ hồ Tây không vận hành. Penny nói, "Chúng tôi không biết tại sao hệ thống nước vận hành dưới khả năng của nó - đó là một nan đề.  Nhưng điều đó có nghĩa là Angkor thực sự không có dư mỡ để đốt.  Thành phố bị phơi ra cho sự đe dọa hạn hán nhiều hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử." Những vụ hạn hán kéo dài và nghiêm trọng, thỉnh thoảng bị mưa như thác đổ, Fletcher nói "sẽ hủy hoại hệ thống nước."

Tuy nhiên, Penny nói, "chúng tôi không nói rằng địa điểm này trở thành sa mạc."  Dân chúng tại vùng đồng bằng đất lụt Tonle Sap, ở hướng Nam của những đền miếu chính sẽ được che chở từ những hậu quả tệ hại nhất.  Hồ Tonle Sap được nuôi dưỡng bởi sông Mekong, có thượng nguồn ở những cánh đồng băng tuyết tại Tây Tạng, sẽ hầu như không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của vụ gió mùa.  Nhưng các kỹ sư Khmer, với kỹ năng như họ có, không thể làm giảm bớt điều kiện khô cằn ở phía Bắc bằng cách dời nước hồ Tonle Sap áp vào đất đai.  Trọng lực là cái bơm duy nhất của họ.

Nếu cư dân vùng phía Bắc Angkor bị đói trong khi các phía khác của thành phố tích trữ gạo thì khung cảnh này sẽ tạo nên lo âu nghiêm trọng.  Nhân chủng gia Michael Coethe thuộc đại học Yales nói, "Khi dân số tại các nước nhiệt đới vượt quá khả năng cưu mang của đất đai thì phiền nhiễu thực sự sẽ bắt đầu.  Điều này tất nhiên dẫn đến sụp đổ về văn hóa."  Một quân đội bị kém dinh dưỡng, bị bận tâm bận trí vì xung đột nội bộ, sẽ phơi bày thành phố ra cho bị tấn công.  Thực vậy, sự xâm lăng của Ayutthaya và trục xuất vua Khmer đã xảy ra vào lúc gần cuối vụ hạn hán cực lớn lần thứ nhì.

Fletcher nói, "Cộng thêm vào những vụ lộn xộn về khí hậu là các phong trào chuyển đổi về tôn giáo và chính trị vốn đã đang nện mạnh vương quốc, và số phận của Angkor đã được khẳng định.  Thế giới chung quanh Angkor đang thay đổi.  Xã hội đang tiến triển.  Sẽ là một ngạc nhiên nếu như Angkor tồn tại được."

Đế quốc Khmer không phải là nền văn minh đầu tiên bị tai họa khí hậu đánh ngã.  Nhiều thế kỷ trước, trong khi Angkor vươn lên thì ở một nửa vòng trái đất, một tổn thất tương tự - liên quan đến sự thăng bằng môi trường - đã nện búa vào các thành phố tại Mexico và Trung Mỹ.  Ngày nay, nhiều học giả tin rằng Maya bị ngã sụm vì thặng dư dân số và vì sự thoái hóa môi trường, tiếp theo sau một loạt ba vụ hạn hán tàn bạo vào thế kỷ thứ 9.  Coe, người đầu tiên vào thập niên 1950s đã nhận thức rất rõ những điểm tương đồng giữa hai nền văn minh Khmer và Maya, nói "Một cách tất yếu, điều tương tự như vậy đã xảy ra cho Angkor."

Có lẽ các xã hội hiện đại cần chuẩn bị cho những thử thách khí hậu.  Theo Buckley, phát lảy cò súng tương tự như những vụ hạn hán cực lớn của Angkor hầu chắc là El Niño [xi] kịch liệt và dai dẳng đang hâm nóng mặt nước ở vùng trung tâm và nhiệt đới phía Đông của Thái Bình dương.  Các khoa học gia tranh luận sự thay đổi khí hậu do con người gây ra sẽ hay không sẽ dẫn đến các El Niños rõ rệt, nhưng các vành cây ở Việt Nam cho thấy ngay cả những dao động tự nhiên ở Thái Bình dương cũng có thể phát ra tai họa.

Sự kết thúc của Angkor là một bài học có chừng mực trong giới hạn của tài trí thông minh của con người.  Người Khmer cải biến thế giới của họ - một sự đầu tư đền miếu sẽ bạc đãi những người cai trị vương quốc để tiến đến từ bỏ nó.  Fletcher nói, "Hệ thống thủy lực của Angkor là một bộ máy đáng ngạc nhiên, một cơ chế kỳ diệu để điều hành thế giới.  Các kỹ sư của nó sắp xếp để bảo trì thành quả trọng đại của một nền văn minh đã vận hành trong sáu thế kỷ - mãi đến khi một lực lượng mạnh hơn áp đảo họ.

Tác giả: Richard Stone
Dịch và chú thích: Phạm Văn Bân
_______________________________________________
Chú thích:

[i] Núi Tu Di 鬚彌山: theo huyền thoại cổ Ấn Độ, núi Tu Di là ngọn núi của trung tâm thế giới, về sau Phật giáo gọi đó là trung ương của tiểu thiên thế giới, tức là dãy núi Hy Mã Lạp Sơn.  Theo kinh Trường A Hàm thì núi Tu Di có 4 đại bộ châu (Bắc Câu Lô châu, Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hóa châu, và Nam Thiệm Bộ châu) và 8 tiểu bộ châu, và theo Câu Xá Luận thì Tu Di do bốn thứ quý tạo thành: mặt hướng Đông bằng bạc trắng, mặt hướng Bắc bằng vàng, mặt hướng Tây bằng ngọc pha lê, và mặt hướng Nam bằng ngọc lưu ly.  Tu Di cao 84,000 Yojanas (vài ngàn dặm), đỉnh núi là Đế Thích thiên, bốn mặt là tứ thiên vương.  Theo truyền thuyết, Tu Di là một ngọn núi ở đâu đó về phía Tây của Tây Tạng, nhưng đó chỉ là huyền thoại mà thôi.  Nói cách khác, không bao giờ có người nào xác định được vị trí của núi Tu Di.  Vài học giả tin rằng đó là núi Pamirs, nằm hướng Đông Bắc của Kashmir.

[ii] Nếu muốn biết thêm chi tiết, xin tìm đọc bài ký sự Ba ngày ở Siem Reap do tôi viết, và cuốn Chân Lạp phong thổ ký của Chu Đạt Quan do tôi dịch; cả hai  đã đăng tại vài diễn đàn email vào năm  2008.

[iii] Vương quốc Ayutthaya do vua U Thong thành lập vào năm 1350 tại tỉnh Ayutthaya, Thái Lan.  Ngày nay, tàn tích của thành phố này trở thành công viên lịch sử Ayutthaya, và được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

[iv] chiến tranh hoa hồng: tên gọi cho một loạt trận chiến giữa gia tộc House of Lancaster và gia tộc House of York trong suốt một thời gian từ năm 1455 đến 1487 để tranh dành ngôi vua Anh quốc.  Cuối cùng gia tộc Lancaster thắng, Henry Tudor lên ngôi vua và thiết lập một triều đình kéo dài được 116 năm cai trị Anh quốc.  Danh xưng "Wars of the Roses" không dùng trong thời gian xảy ra các trận chiến; nhưng trở nên phổ biến vào thế kỷ thứ 19.  Trung quốc dịch là Mân Côi chiến tranh (玫瑰戰爭)

[v] Fletcher nói như thế là để bác bỏ kết luận của các sử gia Pháp được nêu ở đoạn trên đó: do cám dỗ ngấm ngầm đó mà vương quốc Ayutthaya cướp phá Angkor.

[vi]  1 inch bằng 2.54 cm

[vii] lingam biểu tượng cho sinh thực khí của nam giới (林伽是男性生殖器像 lâm già thị nam tính sinh thực khí tượng) và yoni biểu tượng cho sinh thực khí của nữ giới (約尼是女性生殖器像 ước ni thị nữ tính sinh thực khí tượng).  Lingam có hình khối trụ, đặt lên trên yoni có hình khối vuông.  Ấn Độ giáo xem đó là hai đại biểu cho sinh mệnh, khai sáng ra thần lực siêu tự nhiên, là nguồn gốc của vũ trụ và tượng trưng cho lực lượng tối cao (印度教林伽認為它代表生命, 象徵 生殖, 創造的超自然神力, 是宇宙之源 和最高 力量的象徵: Ấn độ giáo lâm già nhận vi tha đại biểu sinh mệnh,  tượng trưng sanh thực, sáng tạo đích siêu tự nhiên thần lực, thị vũ trụ chi nguyên và tối cao lực lượng đích tượng trưng.)

[viii]  1 yard  bằng .91 m

[ix]  Các đền đài Angkor luôn luôn được cất theo một biểu tượng để tôn vinh tín ngưỡng, hoặc Ấn Độ giáo, hoặc Phật giáo.  Đối với Ấn Độ giáo, họ tôn thờ hai vị thần: Thần Bảo Tồn Vishnu và Thần Phá Hủy Shiva, còn Thần Sáng Tạo Brahma không thấy nhắc đến.  Tuy nhiên, Thần Shiva chỉ được thờ cúng đến khoảng cuối thế kỷ XI mà thôi, sau đó Thần Vishnu chiếm vị thế độc tôn, trong ý nghĩa Thần Vishnu là người bảo vệ vũ trụ và các thần, có một mặt và bốn tay.  Đền thờ Thần Vishnu có khuôn mẫu của một vũ trụ thu nhỏ, trong đó thành quách tượng trưng cho các dãy núi, hào nước tượng trưng cho các đại dương (trong thực tế là một phương cách phòng thủ hữu hiệu) và ở giữa là núi Tu Di được xem là nơi cư trú của Thần Vishnu.  Cả ba vị thần này hợp thành một bộ tam thần Trimurty.

[x] EFEO: École Française d'Extrême-Orient: Học Viện Pháp quốc về Viễn Đông, thường gọi là Trường Viễn Đông Bác Cổ.

[xi] El Nino là sự dao động nhiệt độ bất thường trên mặt nước của vùng Thái Bình dương, thường gọi là dao động vùng phía Nam (Southern Oscillation).  Dao động này như một chiếc ghế xích đu giữa vùng phía Đông và vùng phía Tây của Thái Bình dương: khi áp suất không khí cao ở phía Đông thì ở phía Tây lại thấp, và ngược lại.  Bởi vì việc nóng biển và đảo ngược áp suất ngay cùng một lúc nên các khoa học gia gọi hiện tượng này là El Nino/dao động vùng phía Nam (El Nino/Southern Oscillation hay gọi tắt là ENSO).  Những ngư dân Nam Mỹ cho hiện tượng này cái tên El Nino, nghĩa là "đứa con của Chúa" bởi vì nó xảy ra vào lúc mừng Chúa giáng sinh (Christ Child-Christmas).

Nguyễn Hưng Quốc: Xã hội dân sự và dân chủ

Hầu như mọi người đều đồng ý: dân chủ là một thể chế tốt nhất trong lịch sử, ít nhất cho đến lúc này. Tốt về phương diện đạo đức: Nó tôn trọng những giá trị căn bản và phổ quát của nhân loại, trong đó, quan trọng nhất là sự tự do, bình đẳng và nhân quyền. Tốt về phương diện kinh tế: Dân chủ phát huy sáng kiến và năng lực của mọi người vốn là những yếu tố cần thiết cho sự phát triển và ổn định. Và tốt về phương diện chính trị, cả về đối nội lẫn đối ngoại: được xây dựng trên nền tảng pháp quyền vững chắc, các quốc gia dân chủ vừa tránh được các cuộc bạo loạn trong nội bộ vừa tránh được các xung đột vũ trang giữa họ với nhau.

Ngay cả những nhà độc tài hiện nay dường như cũng không phản đối những điều vừa kể. Họ cũng nói đến dân chủ, cũng tự cho chế độ họ là dân chủ, dù là một kiểu dân chủ… khác. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, trước đây, họ vừa tuyên dương dân chủ vừa chủ trương chuyên chính vô sản; sau, tất cả đều đồng loạt từ bỏ khái niệm “chuyên chính” và chỉ nói đến dân chủ, dù là dân chủ…xã hội chủ nghĩa.

Ai cũng đồng ý với nhau như vậy. Tuy nhiên lại có một nghịch lý: trên thế giới, quá trình dân chủ hóa lại rất chậm chạp và đầy khúc khuỷu.

Năm 1991, trong cuốn The Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century, Samuel P. Hungtington chia làn sóng dân chủ thành ba đợt: Đợt thứ nhất, mở đầu bằng cuộc cách mạng ở Mỹ vào năm 1776 và sau đó, cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, dẫn đến việc hình thành của gần 30 nền dân chủ. Đợt thứ hai diễn ra ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ hai: Ở đỉnh cao của nó, đầu thập niên 1960, có cả thảy 36 quốc gia được xem là dân chủ. Đợt thứ ba bắt đầu từ năm 1974, thoạt đầu, ở Bồ Đào Nha, sau, lan ra nhiều quốc gia khác vùng châu Mỹ La Tinh, sau nữa, châu Á (Philippines, Hàn Quốc và Đài Loan), và cuối cùng, vào cuối thập niên 1980, các nước Đông Âu với sự sụp đổ toàn diện của chủ nghĩa Cộng sản. Gần đây, một số nhà nghiên cứu nói đến đợt dân chủ hóa lần thứ tư bắt đầu với các cuộc cách mạng ở Trung Đông, lật đổ các chính quyền độc tài ở Tunisia, Ai Cập, Yemen, Libya, v.v..

Điều cần chú ý là: bên cạnh các đợt dân chủ hóa ấy, người ta còn ghi nhận những đợt thoái trào của dân chủ. Đầu thế kỷ 20, có lúc trên thế giới có đến 29 quốc gia được xem là dân chủ, thế nhưng, từ đầu thập niên 1920 đến đầu thập niên 1940, với sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít, số lượng các nước dân chủ bị tuột xuống nhanh chóng, có lúc, chỉ còn khoảng 12. Trong đợt dân chủ hóa lần thứ hai cũng vậy. Ở cao điểm của nó, có 36 nước dân chủ; lúc thoái trào, từ đầu thập niên 1960 đến giữa thập niên 1970, chỉ còn 30. Rồi đợt thứ ba cũng có thoái trào: Ngay chính Nga, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản, dưới thời Vladimir Putin, lại trở thành độc tài. Và ở làn sóng dân chủ thứ tư, tuy chưa hẳn đã chấm dứt, sự thoái trào đã thấy rõ trong tình trạng bất ổn định ở Ai Cập và Libya.

Những làn sóng dân chủ làm giới quan sát vui mừng và phấn khởi bao nhiêu, những cuộc thoái trào càng làm cho họ hoang mang và lo lắng bấy nhiêu. Người ta thấy rõ: Con đường đến với dân chủ là một con đường hết sức gập ghềnh và đầy bất trắc. Chính vì thế, một câu hỏi được nhiều người đặt ra là: Làm thế nào để xây dựng dân chủ?

Nói đến việc xây dựng một chế độ dân chủ nói chung hay ở Việt Nam nói riêng, người ta hay nghĩ ngay đến một khía cạnh: bộ máy chính quyền; và một điều kiện: những người lãnh đạo trong bộ máy ấy phải được dân bầu một cách tự do và minh bạch.

Tuy nhiên thiết chế và bầu cử chỉ là hai khía cạnh của dân chủ, thậm chí, chỉ là hai khía cạnh ở mặt nổi. Tự bản thân chúng, cả hai khía cạnh ấy đều không bảo đảm được dân chủ. Thiết chế chỉ là phương tiện, với nó, người ta có thể nhắm đến những mục đích khác nhau, có những cách hành xử khác nhau, có khi hoàn toàn đi ngược lại dân chủ, hơn nữa, chà đạp lên dân chủ. Bầu cử cũng vậy. Không hiếm chính phủ được ra đời như kết quả của một cuộc bầu cử tự do, cuối cùng, kết thúc như một chế độ độc tài vô cùng tàn bạo. Hitler là một ví dụ. Ở Việt Nam, chính phủ đầu tiên của ông Hồ Chí Minh năm 1946 cũng là kết quả của một cuộc bầu cử.

Thiết chế và bầu cử chỉ có thể song hành với dân chủ với điều kiện đầu tiên là chúng phải được xây dựng trên nền tảng, và được vận hành trên nguyên tắc, của một nền pháp quyền (rule of law) vững chắc. Pháp quyền đặt ra những giới hạn để bảo đảm thiết chế không bị lợi dụng và bầu cử không bị biến dạng, để người cầm quyền bị kiểm soát và do đó, biết tự kiềm chế, và để những người bị trị tiếp tục tin tưởng vào hệ thống, từ đó, tin tưởng lẫn nhau.

Nói như vậy cũng là nói, pháp quyền, thật ra, tự nó chưa đủ bảo đảm cho dân chủ. Pháp quyền chỉ là nguyên tắc và cái gọi là “pháp” (law) trong pháp quyền cũng chỉ là một văn kiện và chữ nghĩa, những thứ có thể được diễn dịch và ứng dụng theo nhiều cách khác nhau. Tuỳ nơi. Tuỳ người. Bởi vậy, cũng có thể nói, yếu tố quyết định trong việc xây dựng dân chủ chính là con người.

Nhưng không phải người nào cũng muốn và cũng có khả năng xây dựng dân chủ. Rõ ràng là có rất nhiều người không hề muốn có dân chủ: những nhà độc tài và những người ăn theo các nhà độc tài. Độc tài thì chỉ có một người hoặc một nhóm người, nhưng đám ăn theo độc tài thì có thể rất đông: Đó có thể là một giai cấp (ví dụ giai cấp quý tộc ngày xưa) hay một đảng (ví dụ đảng Nazi, phát xít hay Cộng sản). Những người không có khả năng xây dựng dân chủ thì lại càng nhiều: Đó là những kẻ có căn tính nô lệ hoặc vô cảm, hoàn toàn hờ hững với mọi chuyện, kể cả thân phận cũng như cuộc sống của mình và của cả cộng đồng.

Trong cuốn The Rise of Global Civil Society: Building Communities and Nations from the Bottom Up (Encounter Books, 2008), Don Eberly lặp đi lặp lại một câu nói mà tôi rất tâm đắc: “Dân chủ được làm cho những người dân chủ” (Democracy is made for democrats). Trong hai chục năm vừa qua, Mỹ đã bỏ công, bỏ tiền và bỏ cả xương máu với ý định mang dân chủ đến tặng cho Afghanistan và Iraq, nhưng ở cả hai nơi, sau các cuộc bầu cử khá tự do, dân chủ vẫn không, hoặc ít nhất, chưa bén rễ được.  Tại sao? Tại ở những nơi đó vẫn chưa có những người có văn hoá dân chủ.

Văn hoá dân chủ là văn hoá của các công dân (civic culture), của những người sống và hành xử như những công dân. Một cá nhân có thể là một cái gì độc lập, nhưng một công dân, tự bản chất, bao giờ cũng là một thành viên của một cộng đồng, chủ yếu là của một đất nước. Trong ý niệm công dân, do đó, đã có sẵn hai ý niệm khác: sự liên đới và trách nhiệm. Biểu hiện của hai ý niệm ấy là sự quan tâm đối với cái chung và hơn nữa, sự tham gia vào những vấn đề chung.

Xin lưu ý: công dân là một hiện tượng lịch sử khá mới. Xưa, chỉ có thần dân. Khái niệm công dân chỉ ra đời từ thời hiện đại. Có điều, trong thời hiện đại, không phải ở đâu người ta cũng tìm cách nuôi dưỡng hoặc phát triển những phẩm chất vốn gắn liền với ý niệm công dân. Chủ nghĩa thực dân bao giờ cũng tìm cách chia rẽ dân chúng các nước thuộc địa để họ không còn nghĩ đến cái chung; hoặc nếu nghĩ, chỉ thấy những cái chung ấy đều là những thứ đáng bị chối bỏ: chúng là di sản của tình trạng mọi rợ hoặc bán khai. Các chế độ độc tài theo thần quyền cũng phủ nhận tư cách công dân, và thay vào đó, họ chỉ vun bồi một nền văn hoá sùng kính và tuân phục, ở đó, chỉ có, trên cao, các sứ giả và dưới thấp là các tín đồ. Dưới các chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa cũng vậy, một mặt, với nguyên tắc “dân chủ tập trung”, người ta thâu tóm hết quyền hành vào tay một số người và đẩy tất cả những người còn lại vào thế ngoại cuộc; mặt khác, với chủ trương thần thánh hoá lãnh tụ, người ta biến cái “dân chủ tập trung” ấy thành một thứ siêu quyền lực, khống chế toàn bộ guồng máy lãnh đạo, và mọi công dân biến thành “thần dân” chỉ biết cúi đầu vâng dạ như xưa.

Trong văn hoá dân chủ, ngược lại, công dân luôn luôn cảm thấy mình là một thành viên của cả cộng đồng, mình chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng, và mình có quyền để thực hiện những điều được chia sẻ ấy. Ý thức dân chủ, trước hết, là ý thức về quyền; nhưng một ý thức về quyền đúng đắn và thực sự dân chủ bao giờ cũng gồm hai mặt: quyền của mình và quyền của người khác. Đối diện với hai loại quyền ấy, người ta vừa biết tranh đấu lại vừa biết đối thoại, thương thảo, nhân nhượng và thoả hiệp.

Một kiểu văn hoá dân chủ như thế không phải tự nhiên mà có.  Hai bài học lớn nhất Mỹ rút ra được sau khi lật đổ chính quyền Sadam Hussein ở Iraq là: Một, trong công cuộc xây dựng dân chủ cho một nước, việc thay đổi guồng máy cai trị chỉ là phần nhỏ; và hai, người ta không thể đem dân chủ từ nước này sang “trồng” vào một nước khác: Dân chủ chỉ có thể nảy nở từ bên trong.

Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ luôn luôn có tham vọng gieo rắc dân chủ khắp nơi trên thế giới vì họ tin đó là lý tưởng lớn và chính đáng nhất, hơn nữa, đó cũng là phương cách tốt nhất để bảo vệ hoà bình trên thế giới. Tuy nhiên, Mỹ chỉ thành công được ở hai nơi: Nhật và Đức. Ở những nơi khác, họ đều thất bại. Vì không hợp… thổ nhưỡng.

Cái gọi là “thổ nhưỡng” ấy chính là văn hoá. Để xây dựng dân chủ, như vậy, trước hết, là xây dựng văn hoá dân chủ.

Văn hoá dân chủ được xây dựng bằng cách nào? Một trong những cách chính được ghi nhận trong suốt mấy chục năm nay là: xây dựng xã hội dân sự (civil society).

Nhận định về cuộc Cách mạng Hoa hồng tại Georgia, Tổng thống Mikheil Saakashvili cho đó là đóng góp của xã hội dân sự tại nước ông. Sự thành công của Nam Phi trong việc chuyển tiếp từ chế độ phân biệt chủng tộc sang một chế độ dân chủ cũng được xem là một thành tích của xã hội dân sự. Fareed Zakaria đề nghị chính phủ Mỹ, khi hoạch định chính sách ngoại giao, nên xem việc thay đổi chính phủ như là phó sản (byproduct) của xã hội dân sự. Liên Hiệp Quốc xem xã hội dân sự đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng dân chủ.

Dĩ nhiên, tự nó, xã hội dân sự, dù phổ biến và mạnh mẽ đến mấy, cũng không thể làm lật đổ được một chế độ độc tài. Nhưng không có xã hội dân sự, không có một nền dân chủ nào có thể được xây dựng và vững mạnh cả.

Nguyễn Hưng Quốc
Nguồn: VOA

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Nghĩ "ngoài khung" để sống vui hơn

Những vết hằn của thời gian thoáng hiện và rõ dần trên gương mặt khi chúng ta bước qua những tháng năm của đời người. Dòng chảy ấy đưa chúng ta đến ngày càng gần hơn với những giới hạn của thân xác con người. Ai cũng sẽ đến lúc già đi và rời khỏi cuộc sống này, vì vậy mỗi ngày sống là mỗi ngày hết sức ý nghĩa – cho ta cơ hội để khám phá vô vàn những bí ẩn kỳ diệu và tận hưởng những điều thú vị của cuộc sống bao la. Vậy mà không ít người đã “giam cầm” mình trong quá nhiều giới hạn, mà nhà tù lớn nhất mỗi người tự đưa mình vào là “nhà tù tâm trí”. Cụ thể là: chúng ta không cho phép suy nghĩ của mình vượt ra khỏi cái khuôn hạn hẹp sẵn có, để rồi cuộc sống ta ngày càng trở nên nhàm chán, tù túng, bế tắc và mất vui đi rất nhiều.
Lúc vừa mới sinh ra, não chúng ta chưa có những kết nối thần kinh, nhưng sau đó không lâu – chỉ trong vòng 3 năm đầu đời, não có hơn 15.000 kết nối thần kinh. Đến tuổi trưởng thành, não đã tiếp thu được một khối lượng kiến thức và thông tin khá lớn từ thế giới bên ngoài qua học tập, làm việc cũng như những trải nghiệm trong cuộc sống. Những điều đó được chúng ta lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác, dần dần hình thành thói quen hay chính là thế giới quan của riêng mình. Khi đó, não chúng ta “tuyên bố”: “Tôi biết đủ rồi!”
Tuổi trưởng thành – lúc mà lẽ ra tâm trí của chúng ta bắt đầu có đầy đủ mọi điều kiện để tiếp tục khám phá sâu hơn, rộng hơn về cuộc sống, thế giới, con người và bản thân, thì lại là lúc chúng ta “nhốt” mình trong những điều đã biết và tự đóng sầm cánh cửa đi vào cuộc sống. Từ lúc này, tất cả những gì thuộc về thế giới bên ngoài chỉ được não đón nhận và lý giải theo cách đã đóng khung, “thẳng thừng” từ chối hầu hết những gì khác lạ so với điều não chúng ta đã từng biết. Như vậy, cuộc đời chúng ta chấm dứt sớm hơn chúng ta tưởng vì chúng ta không thay đổi được cách nghĩ và cách đón nhận những điều mới mẻ trong cuộc sống này. Benjamin Franklin đã có một câu nói rất đáng để mỗi chúng ta phải suy nghĩ, rằng: “Nhiều người chết từ năm 25 tuổi, và mãi đến năm 75 tuổi mới được chôn cất”.
Như vậy, một điều hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng đó là phải thoát khỏi cái khung hạn hẹp đã trì níu không cho chúng ta nghĩ thoáng hơn, nghĩ lớn hơn, nghĩ khác đi và nghĩ phản biện lại những gì được dạy dỗ cách cứng nhắc, để không ngừng thu nhận nhiều hơn nữa từ cuộc sống, để không ngừng phát triển, và để tiếp tục sống cho đáng một cuộc đời.
Nghĩ thoáng
Những gì bạn từng biết chỉ bó hẹp ở miền đất nơi bạn sinh sống, trong những tình huống và hoàn cảnh mà chỉ có mình bạn trải qua, ở phạm vi rất hẹp của những kiến thức và kinh nghiệm của riêng bạn. Vì vậy, để có thể nghĩ thoáng, bạn phải mở rộng chiều kích suy nghĩ của mình ra không gian khác. Khi bạn nghe những thông tin, một câu chuyện hay về một con người nào đó mà mình chưa từng biết đến bao giờ thì trước hết hãy đón nhận chứ đừng phê phán. Bạn không thể lấy những hiểu biết và trải nghiệm hết sức nhỏ bé và ít ỏi của mình ra để làm chuẩn đối chiếu và đánh giá về một điều khác lạ, mới mẻ hoàn toàn. Ngoài ra, bạn hãy biết mở rộng chiều kích thời gian trong suy nghĩ để có thể nhìn xa hơn về tương lai. Cứ mãi lầm lũi sống mà mịt mù về tương lai thì rất dễ nản lòng và bế tắc. Nhìn về tương lai với niềm hi vọng luôn làm cho chúng ta vững vàng trước những nghịch cảnh hiện tại.
Nghĩ thoáng giúp chúng ta thu nhận cuộc sống và đón nhận người khác dễ dàng hơn, bớt khắc khe và phán xét hơn, và mở rộng được sự kết nối của bản thân với người khác và với thế giới. Để nghĩ thoáng, bạn hãy đi nhiều, đọc nhiều, đón nhận nhiều để biết rằng cuộc đời phong phú và có quá nhiều điều thú vị biết bao. 
Nghĩ lớn
Tôi không tin là Vũ trụ đặt chúng ta vào cõi đời này chỉ để chúng ta cam phận sống một cuộc đời tầm thường. Bạn không phải là những gì bạn đang nhìn thấy, nhưng chính là những gì bạn thường xuyên nghĩ đến. Đừng chỉ nghĩ về những gì đang diễn ra, mà hãy nghĩ đến cả những điều bạn chưa thấy bao giờ. Hãy dồn sức tập trung để nhìn về nơi muốn đến chứ đừng nhìn vào nơi bạn hiện đứng lúc này. Hôm nay bạn đang ở vị trí này, nhưng hãy nghĩ về ba năm, năm năm hay mười năm nữa mình sẽ phải trở thành người có tầm vóc lớn hơn, thu nhập cao hơn và hạnh phúc nhiều hơn như thế nào. Thế giới này thuộc về những kẻ dám ước mơ. Mọi thay đổi của cuộc đời bắt đầu bằng việc dám thay đổi suy nghĩ. Tương lai của bạn được hình thành ngay trong suy nghĩ của bạn hôm nay.
Khi chưa có thói quen và chưa biết cách để nghĩ lớn, bạn hãy thường xuyên gặp gỡ với những người nghĩ lớn, xem những cuốn sách khoa học viễn tưởng, đọc những bài viết dự báo về tương lai, và không ngừng rèn luyện khả năng tưởng tượng của mình. Bạn hãy luôn nhớ là không hề có giới hạn cho bất cứ một ước mơ nào của chúng ta.
Nghĩ khác
Luôn có một cách nào đó tốt hơn. Nhất định là như vậy, vì chúng ta đang sống trong một cuộc sống tiến hóa không ngừng. Vì thế đừng giới hạn mình trong những lối nghĩ cũ kỹ, rập khuôn, xưa cũ. Tất cả mọi giải pháp trong cuộc sống chỉ có thể sử dụng một lần, vì một khắc trôi qua là thế giới và con người đang ở một thời điểm khác, không gian khác và vị trí khác, không có gì còn giống như cũ nữa. Nếu bạn không nghĩ khác đi thì chính là bạn đang đi lùi lại so với sự phát triển.
Đừng bao giờ cho rằng đã hết cách, hay đây là cách tốt nhất; đó có thể là cách tốt nhất trong hiện tại, nhưng vẫn có nhiều cách khác tốt hơn trong tương lai. Chúng ta luôn mong muốn đạt đến sự hoàn hảo nhưng không bao giờ có sự hoàn hảo tuyệt đối; đó là điều thú vị mà cuộc sống ban tặng cho chúng ta, món quà đó mang tên: Không giới hạn. Hạnh phúc, niềm vui, thành công, thịnh vượng dành cho chúng ta là vô biên. Bạn có thấy cảm kích những điều vũ trụ này dành cho mình?
Trước mọi sự việc – dù là thành quả rực rỡ hay những thất bại đắng cay của mình, hãy luôn đặt câu hỏi: cách nào khác để kết quả tốt hơn? Với câu hỏi này, bạn sẽ bước vào cuộc chinh phục đầy hứng khởi để khám phá và tận hưởng cuộc sống kỳ diệu này.
Nghĩ phản biện
Mỗi chúng ta đều phải sống cuộc đời của chính mình, chịu trách nhiệm 100% về mình và không cuộc đời nào giống cuộc đời nào. Những kinh nghiệm của người này chưa chắc đã phù hợp với người kia, chúng có thể đúng trong trường hợp này nhưng lại gây nguy hại trong trường hợp khác. Vậy thì đừng bao giờ vội tin tuyệt đối vào những gì bạn được nghe thấy mà chính bản thân bạn phải trải nghiệm. Những kinh nghiệm của người khác là cần thiết, đáng để chúng ta suy nghĩ và tham khảo, nhưng phải luôn tỉnh táo để có những hoài nghi khôn ngoan, vì điều gì cũng tin tưởng tuyệt đối và áp dụng triệt để ngay chính là ta đang đánh mất cuộc đời mình.
Để rèn luyện lối suy nghĩ phản biện, từ bây giờ, khi đọc thấy hoặc nghe thấy bất cứ một đúc kết nào, bạn cũng nên tự đặt ra nhiều câu hỏi để hiểu rõ hơn: Có cách nhìn nào khác hơn? Điều đó đúng trong trường hợp nào? Đâu là những hạn chế? Vận dụng như thế nào mới hiệu quả? Đâu là điều phù hợp với mình? Liệu cách này có thể cho ra một kết quả khác không?... Sống, trải nghiệm và điều chỉnh liên tục thì bạn mới có được những kinh nghiệm của chính mình.
Với những cách nghĩ không theo lối mòn như vậy, bạn sẽ phát triển tiềm năng bản thân nhiều hơn và đón nhận được rất nhiều từ cuộc sống phong phú này.
Nhưng để có thể “bẻ lái” được nếp nghĩ vốn đã bị đóng khung đó, chúng ta phải thật sự dũng cảmkhôn ngoan. Những thói quen, niềm tin, nếp nghĩ cũ luôn đem lại cho chúng ta sự thoải mái và an toàn. Chúng có sức mạnh ghê gớm lôi kéo ta ở mãi trong cái khung đóng sẵn đó và làm cho chúng ta thấy lo sợ mỗi khi nghĩ vượt khung. Vì vậy, bạn cần phải hết sức dũng cảm để thách thức với chính suy nghĩ và tiếng nói luôn trì kéo ấy để vươn đến lối nghĩ khác hơn và tích cực hơn.
Tuy nhiên, nghĩ khác, nghĩ lạ, nghĩ vượt khuôn không có nghĩa là cứ nghĩ bừa, nghĩ càng mà đây là một quá trình rèn luyện có kiểm chứng kết quả. Bạn cứ xem những gợi ý ở trên như những bài tập thể dục cho trí não. Sau mỗi lần tập, bạn phải đánh giá được hiệu quả và có những điều chỉnh liên tục để đạt được hoàn thiện về kỹ thuật và tăng dần thành tích. Đó là cách học và rèn luyện suy nghĩ vượt khuôn khôn ngoan để hướng đến mục đích lớn nhất trong đời là sống trọn vẹn: biết nhiều chiều kích của cuộc đời, cảm nếm được sự phong phú và dồi dào của cuộc sống, tận hưởng niềm vui sướng tột đỉnh vì chiến thắng được sức trì kéo của bản thân, và thật sự hạnh phúc vì phát huy được hết tiềm năng của mình. 

Quách Tuấn Khanh
_______________________________
Bài viết cùng tác giả:

Facebook Digg Stumbleupon Favorites More