“Chúng
ta phải tự do chỉ để được hiện hữu một cách nào đó. Hiện hữu của con
người là tự do. Kẻ không có tự do không phải là con người” (Jean Paul
Sartre)
I. Tự do – Gương mặt đẹp đẽ nhất
Từ
xưa đến nay, tự do luôn là một khái niệm bí ẩn và trừu tượng đối với
con người. Đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ
chiếc khung nào, ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các
nhà khoa học ở mọi thời đại nhằm mô tả và lý giải khái niệm tự do. Có lẽ
vì thế, cho đến nay, tự do là cái gì đó quen thuộc mà vẫn xa lạ đối với
con người. Nhận thức của nhân loại về tự do mới chỉ dừng lại ở những
phát hiện của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi đó, với tư
cách là một đối tượng triết học quan trọng, bên cạnh những nội dung
nguyên thuỷ, khái niệm tự do vẫn đang không ngừng vận động và ngày càng
chứa đựng thêm nhiều nội dung mới.
Tự
do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực của mỗi
người. Ai cũng yêu tự do, ai cũng khao khát tự do. Tự do mạnh mẽ và vĩ
đại ở chỗ tìm kiếm nó trở thành bản năng sống còn của con người. Càng
thiếu tự do, con người càng khao khát tự do, giống như sự thèm muốn bị
thôi thúc bởi cơn khát khi không có nước. Chính vì thế, không một con
người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân
tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc kháng
chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và kiềm toả.
Sự mãnh liệt của khát vọng tìm kiếm tự do là một trong những tiêu chuẩn
để đo đạc sự lành mạnh của một dân tộc.
Trong
lịch sử phát triển của nhân loại, Phương Tây là mảnh đất đầu tiên có tự
do, ở đó khát vọng tự do của con người được đáp ứng và chính sự gặp gỡ
của con người với tự do đã tạo ra trạng thái phát triển rực rỡ. Kết quả
của quá trình phát triển lâu dài của văn minh phương Tây là: tự do, với
tư cách như một đối tượng thơ ca, được mô tả như những thiên thần bay
bên trên đời sống tinh thần con người; và, tự do, với tư cách như một
đối tượng triết học, được cụ thể hoá thành những nguyên tắc cấu tạo ra
xã hội, cấu tạo ra nhà nước. Quan điểm về tự do của phương Tây có thể
được tóm tắt như sau: tự do được coi là quyền tự nhiên của con người, là không gian vốn có
của mỗi con người. Con người sinh ra đã có tự do, tự do như tài sản hay
vốn tự có của mỗi người. Cốt lõi của văn hoá phương Tây chính là những
tư tưởng, quan điểm về chủ nghĩa cá nhân, ý thức nhân quyền và thể chế
dân chủ. Dựa trên tinh thần tuyệt đối của tự do cá nhân, phương Tây coi
tự do là chất xúc tác cơ bản của đời sống, là năng lượng tạo ra đời sống
con người và lẽ tất yếu, trở thành linh hồn của mọi sự tiến bộ và phát
triển.
Tự
do chỉ có thể nảy nở ở vùng đất mà những nhận thức về tự do cũng như
mối quan tâm dành cho tự do được mở rộng và khơi sâu. Điều này đúng với
phương Tây, nơi các học giả bàn về tự do một cách sôi nổi và đầy cảm
hứng, trong khi ở phương Đông thì gần như xảy ra điều ngược lại, bởi lẽ
hầu hết các học giả đều có khuynh hướng thu hẹp không gian tự do của con
người. Khoa học nhận thức ở phương Đông chưa làm rõ được khái niệm tự
do cũng như xây dựng phạm trù tự do đúng đắn. Chính vì thế, người phương
Đông chưa hiểu đúng bản chất của tự do, vẫn xem tự do như một cái gì đó
ở bên ngoài, bên trên cuộc sống. Trong quan niệm của họ, tự do là cái cho phép hay là cái được ban phát từ
trên xuống, như là một ân sủng của đấng tối cao trao cho con người.
Những nhận thức lệch lạc và mơ hồ như thế về tự do đã làm hạn chế rất
nhiều năng lực phát triển của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng. Hay
nói cách khác, phương Đông lạc hậu vì chưa bao giờ xem tự do như đối
tượng chính hay linh hồn của tiến trình phát triển xã hội. Do đó, trong
các cuộc cải cách, cái cần thay đổi trước tiên ở phương Đông là nhận
thức về tự do.
Điều
quan trọng nhất mà phương Đông cần nhận thức là: tự do không phải là
một loại quyền được trao tặng bởi bất kỳ ai, bất kỳ lực lượng nào mà nó
là tài sản tự nhiên của con người. Điều này có nghĩa tự do không phải là
không gian cho phép, không một nhà nước nào có quyền ban phát tự do cho
con người. Nói cách khác, con người phải ra khỏi trạng thái nhận thức
tự do như là sự nhân nhượng của bề trên đối với kẻ dưới, tức là trạng
thái thụ động đón nhận tự do. Cần phải khẳng định tự do không phải là
thứ gì đó ở bên ngoài cuộc sống, tự do thuộc về con người, tự do gắn
liền với con người với tất cả hình hài cụ thể của nó. Tự do là nhà ở, tự
do là đường đi, tự do là bãi cỏ rộng mênh mông, là thức ăn, là nước
uống… Tự do là tất cả những gì liên quan đến đời sống con người kể cả
vật chất lẫn tinh thần. Tự do muôn hình muôn vẻ và thiêng liêng đến mức
không có định kiến nào trói buộc được nó, hễ bị kìm kẹp bởi định kiến là
con người mất tự do. Tự do là cái mà trí tưởng tượng của con người luôn
vươn tới, hay nói cách khác, trong trí tưởng tượng của mình, con người
luôn cảm thấy đằng sau nó vẫn còn nó.
Nếu đằng sau nó không là gì nữa, không còn nó thì không phải tự do. Tự
do là một không gian dành cho mỗi cá nhân, tuỳ thuộc vào khả năng của
mình, mỗi cá nhân đều có quyền làm chủ không gian ấy, khai thác nó và
hơn nữa là mở rộng nó.
Có nhiều cách định nghĩa về tự do, một trong những định nghĩa phổ biến nhất là của Hegel: “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”.
Tự do ở đây không phải là thứ tự do bản năng mà là thứ tự do trong mối
tương quan với cái tất yếu, và cái tất yếu được hiểu là các quy luật tự
nhiên. Định nghĩa này cho thấy ranh giới giữa trạng thái tự do và trạng
thái không có tự do chính là sự nhận thức được cái tất yếu. Con người
càng nhận thức được cái tất yếu bao nhiêu thì càng tự do bấy nhiêu. Tuy
nhiên, trên thực tế, không phải ai cũng hiểu tự do như là kết quả của
việc nhận ra cái tất yếu. Nhận thức về cái tất yếu là một năng lực vô
cùng quan trọng và là việc không hề đơn giản đối với con người. Không
phải ngẫu nhiên, nhiều khi con người không nhận ra cái tất yếu để hành
động, do đó, phần đông con người vẫn không hiểu về tự do và giá trị cao
quý của tự do. Có một điều cần phải nhìn nhận là ranh giới giữa tự do và
không tự do rất mong manh, con người thường chỉ nhận ra tự do khi vướng
phải ranh giới của sự thiếu tự do hay nói khác đi, chừng nào chưa vướng
phải các ranh giới của sự thiếu hoặc mất tự do thì con người vẫn chưa
cảm thấy giá trị của tự do, của cuộc sống tự do. Chính vì vậy, con người
cần những định nghĩa gần gũi hơn về tự do.
Tôi cho rằng, tự do là một đại lượng có chất lượng rỗng,
một tập hợp rỗng, điều ấy có nghĩa, tự do là một không gian, nhưng
người ta không đi lang thang trong đó mà người ta đi theo các đòi hỏi.
Con người luôn hành động theo đòi hỏi của tâm hồn mình. Chính sự thúc
bách của nghĩa vụ, của những đòi hỏi nội tại trong đời sống tâm hồn
khiến con người hành động. Khi con người hành động theo các đòi hỏi mà
không bị ngăn cản thì lúc đó, con người có tự do. Như vậy, tự do được
biểu hiện đầu tiên ở sự chủ động. Sự chủ động không
xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà do sự thúc bách của tâm hồn. Nếu không
có sự thúc bách từ bên trong tâm hồn tức là không chủ động. Chủ động là
điều kiện ban đầu để con người nhận được cảm giác hạnh phúc khi thực thi
các quyền tự do, đồng thời, chủ động là trạng thái mà con người đạt
được khi có tự do hay có kinh nghiệm về tự do. Chúng ta có thể cảm nhận
được con người tự do là con người không bị lệ thuộc, biết đi tìm cái
đúng, biết nghĩ đến cùng và biết xây dựng cho mình công nghệ để hành
động theo trí tưởng tượng của mình. Vì thế, tự do được tập hợp dưới hình
thức các quyền tạo ra những không gian chính trị mà ở đấy con người
hành động dựa trên nhận thức của mình về các tất yếu. Nói cách khác, tự
do là khoảng không gian mà ở đó con người có được sự thống nhất giữa ý
nghĩ và hành vi, con người yên tâm về sự tồn tại của mình, về hành động
của mình mà không chịu sự áp đặt, kiềm tỏa của bất kỳ yếu tố nào. Kết
lại, để định nghĩa về tự do, tôi cho rằng tự do là quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi. Khi có sự dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi thì con người chủ động.
Ý
nghĩ và hành vi là hai thành tố căn bản của tự do, đó là tự do nhận
thức và tự do hành động. Con người tự do là con người được tự do nhận
thức và tự do hành động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Chúng ta
biết rằng, thể hiện sống của con người là hành động, nhưng thể hiện sống
của cái trước hành động là ý nghĩ. Tự do nhận thức là nền tảng để con
người đi tới tự do hành động. Không có tự do nhận thức, con người không
thể có tự do hành động bởi vì khi ấy, con người luôn vấp phải các ranh
giới về mặt nhận thức, do vậy, con người sẽ cảm thấy bị hạn chế, bị mất
tự do ngay từ trong ý nghĩ chứ không chỉ trong hành vi của mình. Tự do
nhận thức sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển và dịch chuyển của ý nghĩ,
trong khi đó, tự do hành động sẽ tạo điều kiện cho sự dịch chuyển của
hành vi tương ứng và phù hợp với sự dịch chuyển của ý nghĩ. Mặt khác, tự
do nhận thức là điều kiện tiên quyết để xây dựng các không gian nhận
thức của mỗi cá nhân, từ đó mới hình thành một vườn ươm tư duy của cộng
đồng. Khu vườn đó chỉ đa dạng và phong phú chừng nào tự do nhận thức
được công nhận như một trong những nguyên lý căn bản nhất. Sự phong phú
và đa dạng về mặt nhận thức sẽ dẫn tới sự phong phú và đa dạng của hành
động. Đó chính là nhân tố tạo ra tính đa chiều của các không gian kinh
tế, chính trị và văn hoá – điều kiện cần và đủ để mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng, mỗi nhà nước duy trì và phát triển sự đúng đắn của mình. Đến lượt
mình, tự do hành động lại tạo điều kiện cho việc mở rộng không gian nhận
thức của mỗi cá nhân và cộng đồng, bởi thông qua tự do hành động, con
người có điều kiện làm phong phú kinh nghiệm sống, kinh nghiệm văn hoá
của mình, và do đó, có thể xúc tiến những cái mới về nhận thức và tự
điều chỉnh nhận thức của mình. Đấy chính là mối liên hệ hữu cơ giữa hai
thành tố cơ bản nhất của tự do. Ở một xã hội mà sự dịch chuyển song song
này diễn ra thuận lợi trong một trật tự hài hoà thì xã hội ấy sẽ đạt
tới trạng thái tự do.
Tóm
lại, tự do không hề xa lạ, nó là bản chất tự nhiên của con người. Tự do
gắn liền với đời sống con người từ quá khứ, đến hiện tại, đến tương lai
như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát triển. Càng ngày, những
nghiên cứu về tự do càng cho thấy sự cần thiết phải biến tự do trở thành
cấu trúc tinh thần hay trở thành thực phẩm hàng ngày của đời sống tinh
thần con người. Con người phải thấy được giá trị, địa vị của tự do trong
đời sống và ứng dụng nó để tạo ra hạnh phúc của mình.
II. Những cảm giác của tự do
Tự
do là một khái niệm nhiều chiều, nhiều thành tố. Con người có thể nhận
thức, chiêm nghiệm những khía cạnh của tự do như một khái niệm ở tầng
cao triết học, chính trị học nhưng không chỉ có thế, con người còn có
thể cảm nhận được tự do một cách sinh động, hàng ngày, thông qua các cảm
giác của mình. Trong tâm hồn con người luôn luôn hiện hữu những cảm
giác của tự do. Đó là tình yêu tự do bản năng, là cảm hứng sáng tạo, là
danh dự, là hạnh phúc.
1. Tình yêu tự do
Như
đã nói ở trên, con người thường chỉ nhận ra tự do khi vướng phải ranh
giới của sự thiếu tự do. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khát vọng
về tự do không thường trực trong mỗi người. Tự do có thể không hiện hữu ở
tất cả mọi nơi nhưng tình yêu đối với tự do bao giờ cũng tồn tại trong
con người như một bản năng. Có thể tình yêu tự do được thể hiện mạnh mẽ ở
người này, cũng có thể ở trạng thái “ngủ” hay chưa được đánh thức ở
người kia, nhưng con người nói chung luôn khao khát tự do một cách bản năng.
Điều này cũng giống với việc không chỉ những người biết chơi cờ mà ngay
cả những người không biết chơi cờ vẫn đến tham dự một cách hồ hởi vào
những ngày hội đấu cờ. Bởi lẽ, mặc dù không phải là người chơi cờ nhưng
con người luôn cảm thấy niềm vui khi được thưởng thức cảm giác tự do của
việc đánh cờ trong một bàn cờ đầy quy tắc. Xã hội dân chủ cũng giống
như một bàn cờ, đó là một xã hội tự do và đầy cảm hứng trong mối tương
quan với những quy tắc hợp lý và thống nhất. Tuy nhiên cũng cần nói
thêm, nếu coi niềm vui là cảm giác có được khi đi những nước cờ đầy tự
do và sáng tạo mà không hề vi phạm những quy tắc chơi cờ thì không chỉ
những người dân trong xã hội dân chủ, mà ngay cả người dân ở những xã
hội chưa có nền dân chủ cũng cảm thấy được niềm vui đó. Bởi vì tình yêu
tự do bản năng chính là mối liên hệ ngầm giữa những con người lành mạnh.
Đôi
khi con người cũng nổi hứng tự do, đó là lúc cái bản năng tự do không
được kiểm soát, nó trỗi dậy một cách phung phí. Hoặc có khi, tự do bị
tước đoạt khiến con người có những phản ứng, đó là phản ứng trước sự
thiếu tự do hay sự yếm khí của con người. Nhưng phải đến khi con người
thực sự đi tìm kiếm tự do thì tự do mới trở thành lý tưởng, thành động
lực của con người. Vì thế, không phải ngẫu nhiên những vần thơ hay nhất
về tự do lại được cất lên trong ngục tù và những nhà thơ tự do đồng thời
là những chiến sĩ của tự do như Sandor Petofi, Nazim Hikmet… Sandor
Petofi đã viết lên những câu thơ, những bài thơ chứa đựng sự rung cảm
sâu sắc trong điều kiện thiếu tự do:
“Tự do và ái tình
Vì các ngươi ta sống
Vì tình yêu lồng lộng
Ta dâng hiến đời ta
Vì tự do muôn đời
Ta hi sinh tình ái”
(Sandor Petofi)
Câu
thơ cho thấy sự đánh đổi quyết liệt giữa những giá trị đáng ra có thể
chung sống với nhau trong cùng một con người là Tự do và Ái tình. Nhưng
người ta phải đánh đổi Ái tình lấy Tự do. Tại sao lại đánh đổi? Vì họ là
những chiến sĩ của tự do, những người chiến đấu cho tự do trong điều
kiện thiếu tự do. Chính tình yêu tự do là hạt nhân cơ bản của tâm lý
chính trị hay khát vọng chính trị của con người. Khi đó tự do được đặt
lên cao hơn cả tình yêu, tự do trở thành lý tưởng, thành khát vọng sống
của con người.
Tuy
nhiên, trong mỗi con người, bên cạnh bản năng tìm tự do còn có cả bản
năng chống lại tự do, hay nói cách khác, con người bảo vệ tự do của mình
và chống lại tự do của người khác. Chính tính hai mặt này là tiền đề
tạo ra mâu thuẫn xã hội. Chỉ khi bị chiếm đoạt tự do, con người mới nảy
sinh tình yêu sống chết cho tự do và ý thức bảo vệ tự do cho chính mình.
Nếu tự do là một thứ không cần bảo vệ thì con người không thể có cái
gọi là nền dân chủ, không thể có cái gọi là nền văn hóa chính trị tiên
tiến. Bản chất của sự phát triển và của nền văn hóa chính trị tiên tiến
là bảo vệ các quyền dân chủ. Bản chất của nền dân chủ chính là bảo vệ
các quyền tự do của con người. Chính vì thế, định nghĩa về quyền tự do
trong Hiến pháp của Campuchia do Liên Hiệp quốc soạn thảo năm 1993 có
một câu rất hay rằng: “Tự do cá nhân là tự do của một con người mưu cầu hạnh phúc, nhưng không dẫm đạp lên các quyền tương tự của người khác“.
Tự do là anh nghĩ đến đâu thì anh có thể đi đến đấy nhưng đi mà không
gây đổ vỡ cho người khác, không dẫm đạp lên tự do của người khác. Đấy
chính là bản lĩnh của con người, bản lĩnh của tự do. Không có tự do thì
con người không có kinh nghiệm, vì thế, mọi thứ phải bắt đầu bằng tự do,
tự do là hạt nhân của mọi quá trình nhận thức và phát triển.
Chính
ý chí và tình yêu tự do bản năng của con người tạo ra nhu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền, bởi nhà nước pháp quyền là công cụ nhân tạo để duy
trì, phát triển và bảo vệ tự do. Trong nhà nước pháp quyền, luật pháp là
một bộ các quy tắc ứng xử và điều chỉnh, nó càng gần với bản năng ứng
xử của con người bao nhiêu, tức là càng biến thành văn hoá bao nhiêu thì
càng có khả năng thực thi trong hiện thực bấy nhiêu. Giá trị tự do của
luật pháp chính là bảo vệ các thói quen văn hoá của con người và ý chí
tự do của con người.
2. Tâm hồn và lẽ phải
Tự
do tạo ra con người nhưng ngược lại, con người, ở chỗ sâu xa nhất của
mình là tâm hồn làm cho tự do trở nên đa dạng, giàu có về nội dung.
Chính tâm hồn con người khi vận động theo những lẽ phải của nó là một
biểu hiện sâu sắc nhất của tự do.
Có
thể nói, tâm hồn con người giống như hạt dẻ, nó có một lớp vỏ cứng, đến
một ngày nào đó, lớp vỏ cứng ấy được bóc ra và tâm hồn con người mới
trực tiếp giao dịch với cuộc sống. Tâm hồn con người là một đại lượng
ngủ trước khi nó tự nhận ra nó, và bao giờ nó cũng tự nhận ra nó trước
khi người ta tìm đến nó. Tâm hồn sinh ra cùng con người nên lúc nào nó
cũng hồn nhiên mà không bao giờ chịu già đi. Ngay cả khi người ta tưởng
rằng đã đánh mất tâm hồn thì thực ra, đó chỉ là trạng thái tê liệt của
tâm hồn. Vì thế, mới có thuyết luân hồi nói về các linh hồn nhập vào
những quán trọ khác nhau của cuộc đời là thể xác. Con người phải biết
trân trọng, nâng niu, giữ gìn tâm hồn mình, không đánh đổi nó bằng bất
cứ cái gì, bởi lẽ, trong tất cả các bộ phận cấu thành nên một con người,
phần dễ bị tê liệt nhất chính là tâm hồn. Nhiều người lầm tưởng rằng
cùng với kinh nghiệm, cùng với sự khôn ngoan trong đời sống vật chất,
trong đời sống quan trường, họ đã thắng, nhưng đến khi về hưu, ngẫm lại
những điều đã trải qua, họ mới nhận ra thực chất cái mình có, cái mình
nhận được, cái mình đánh đổi được không bao giờ có giá trị bằng cái mình
đã đánh mất. Tôi cho rằng, sự yên ổn của tâm hồn là điều vô cùng quý
giá, một người chỉ có thể được gọi là thành đạt nếu như người đó có một
đời sống tâm hồn thanh thản. Sự thanh thản của tâm hồn hay một tâm hồn
chứa đựng nhiều lẽ phải là nguồn gốc của hạnh phúc.
Con người liên kết tất cả những lẽ phải thông qua tình cảm của mình tạo nên lẽ phải tâm hồn. Phải khẳng định rằng, nhận thức bằng lẽ phải tâm hồn là biểu hiện cao nhất của tự do.
Không ai có thể kiểm soát được tâm hồn con người, ở chỗ sâu thẳm ấy,
con người tự do. Con người thường có khuynh hướng cường điệu ý thức mà
không biết rằng, ý thức chỉ là một bộ phận nhận thức, thậm chí không
phải là bộ phận thông thái nhất. Chính tâm hồn mới là bộ phận thông thái
nhất của con người. Nếu chỉ đơn thuần dựa vào ý thức thì ý thức sẽ làm
hỏng sự chân thực của cuộc sống, bởi vì ý thức của mỗi người không hoàn
toàn là của chính người đó, mà nó còn chịu ảnh hưởng của những sự áp đặt
từ môi trường khách quan, từ sự tuyên truyền, cấy ghép của người khác.
Chỉ có tâm hồn chúng ta mới thuần tuý là của chính chúng ta. Khi nào
chúng ta phát triển bằng những chỉ dẫn của tâm hồn thì chúng ta sẽ trở
thành chính chúng ta. Suy cho cùng, con người sống và làm việc tuân theo
lẽ phải của tâm hồn mà con người nhận thấy trong bản thân mình. Con
người liên kết các lẽ phải thông qua tình cảm của mình, tình cảm vươn
đến đâu, tạo ra mối liên kết đến đâu thì giá trị con người hình thành
đến đấy. Đấy chính là quá trình phát triển tự nhiên của nhân cách con
người. Con người nên để cho tâm hồn của mình chỉ đạo cuộc sống hơn là ý
thức. Con người cần để tâm hồn tự động tạo ra sự liên kết các trí khôn
lại hơn là cố gắng bằng ý thức để xâu chúng lại một cách máy móc, bởi vì
chính tâm hồn và chỉ có tâm hồn mới là chất xúc tác tạo ra các chuỗi
hạt cực kỳ duyên dáng. Tóm lại, tâm hồn là yếu tố hướng dẫn con người,
giúp con người nhận ra lẽ phải. Và lẽ phải tâm hồn chính là cách ngắn nhất mà con người có thể sử dụng để đi đến sự đúng đắn.
Đương
nhiên, con người có nhiều cách để tạo ra thành quả, tạo ra giá trị,
nhưng nếu có sự hướng dẫn của đời sống tâm hồn thì con người có thể tạo
ra được những giá trị vượt cả sức tưởng tượng của mình. Chính lẽ phải
của tâm hồn đã hướng dẫn con người vượt qua rất nhiều ranh giới tự
nhiên, những cản trở tự nhiên đến những trạng thái nhận thức mà con
người chưa từng có kinh nghiệm. Nói cách khác, tâm hồn là công cụ vạn
năng giúp con người vượt ra khỏi ranh giới tự nhiên thông thường, những
trở ngại của sự thiếu hụt kinh nghiệm để mường tượng, suy tưởng và tiến
tới những nhận thức hoàn chỉnh. Lao động tâm hồn hay lao động bằng lẽ
phải tâm hồn của các thiên tài đã tạo ra những bước ngoặt cho đời sống
phát triển của loài người và đấy là những minh chứng hùng hồn mà chúng
ta có thể trông thấy. Các dân tộc châu Âu vĩ đại vì họ có Michelangelo,
Leonardo da Vinci, có Picasso, Beethoven hay Mozart… Đó là những đỉnh
cao của tinh hoa nhân loại, đồng thời cũng là những đỉnh cao của các giá
trị tâm hồn mà con người luôn muốn vươn tới. Chúng mách bảo chúng ta
rằng, muốn phát triển, con người phải có tâm hồn và tâm hồn ấy phải phát
triển.
Muốn
trở thành một người lành mạnh thì mỗi con người phải có sự phát triển
cân đối về mặt tâm hồn. Để đời sống tâm hồn phong phú và cao đẹp thì con
người phải có được sự đa dạng về mặt văn hoá, đa dạng về mặt học thuật,
đa dạng về mặt thưởng thức và phải gắn bó mình với thiên nhiên, với con
người, với tất cả những gì đang hiện hữu xung quanh. Nếu không gắn bó
với thiên nhiên thì tâm hồn khô héo, nếu không gắn bó với con người thì
mất đi tính nhân hậu vốn có, cái mà chúng ta vẫn coi là bản tính tự
nhiên trong mỗi một con người. Tóm lại, nếu con người không có sự đa
dạng tinh thần, hay là trạng thái tự do về tinh thần thì con người không
có sự ổn định trong cách thức tiệm cận đến lẽ phải, thậm chí, không thể
nhận thức được lẽ phải. Mà nói rộng ra, sự ổn định của xã hội là kết
quả của sự ổn định trong cách thức con người tiệm cận đến lẽ phải. Vì
thế, nếu một dân tộc không khuyến khích sự phát triển của đời sống tâm
hồn, của tự do thì dân tộc ấy không thể phát triển được.
Đời
sống tâm hồn là một dòng chảy liên tục, nếu chúng ta làm gãy mạch chủ
đạo của tâm hồn thì chúng ta không bao giờ nối lại được dòng chảy ấy.
Chính vì thế, con người không bao giờ được quên nhiệm vụ bảo vệ và chăm
sóc sự phong phú, sự trọn vẹn của đời sống tâm hồn. Con người phải giữ
gìn khát vọng vươn tới sự phong phú của đời sống tâm hồn bởi vì mất nó,
con người sẽ chết về mặt tinh thần. Điều đó hoàn toàn có thể diễn ra
hàng ngày trong đời sống mỗi cá nhân. Duy trì sự tươi tắn, sự cao quý
trong đời sống tinh thần của mình chính là nghệ thuật quan trọng nhất để
giữ gìn các giá trị của mình trong thước đo của người khác. Bởi lẽ, khi
các giá trị tinh thần của mình cao đẹp và ổn định, con người sẽ nhận
được tình yêu của người khác một cách cao đẹp và ổn định. Con người tìm
kiếm sự yêu mến của người khác đối với mình bằng chính sự cao đẹp của
tâm hồn. Hay nói cách khác, con người chinh phục và hấp dẫn người khác
bằng sức mạnh vô song của ý chí, của sự phong phú và uyên thâm của đời
sống tâm hồn. Con người phải học cách để làm cho người khác cảm thấy có
nhu cầu chiêm ngưỡng mình như là một người giao lưu với mình. Con người
nói chung không thể toàn thiện, nhưng bằng cách luôn chăm sóc cho sự
phong phú, trọn vẹn của đời sống tinh thần, con người có thể hoàn thiện
bản thân, hoàn thiện lòng dũng cảm và ý chí vươn tới sự thịnh vượng.
3. Cảm hứng và sáng tạo
Có
một giai thoại về trận đánh lịch sử giải phóng Leningrad là: trước trận
đánh, Stalin ra lệnh tập trung tất cả các thành viên thuộc dàn nhạc
giao hưởng của Hồng quân Liên Xô trở về để chơi bản giao hưởng số 7 của
Shostakovich nhằm mục đích tạo cảm hứng và sự hưng phấn cho những người
lính khi xung trận. Đó cũng chính là thời điểm bắt đầu sự phản công của
Hồng quân Liên Xô đối với phát xít Đức. Câu chuyện này cho thấy cảm hứng
vô cùng quan trọng đối với con người, nhất là khi con người biết cách
khai thác và sử dụng chúng. Trong bất kỳ một công việc sáng tạo nào cũng
vậy, để sáng tạo, con người không chỉ cần năng lực mà còn cần cả cảm
hứng. Cảm hứng là động lực thúc đẩy khát vọng phát triển của con người.
Một con người không có cảm hứng, một dân tộc không có cảm hứng, thì
không thể có khát vọng đi tìm các giá trị, và do đó không thể phát triển
được.
Phát
triển là kết quả của sự sáng tạo, mà sự sáng tạo luôn bắt nguồn từ cảm
hứng mà tự do mang lại cho con người. Người phương Đông chúng ta vẫn phê
phán việc người phương Tây thể hiện tình cảm của mình ở giữa phố, vào
ban ngày. Chúng ta cho rằng họ không kín đáo và không biết xấu hổ, như
vậy có nghĩa là chính chúng ta không nhận thấy rằng mình không biết yêu
mến vẻ đẹp thật sự của con người, đó là yêu giữa mặt trời. Chúng ta
không có được những cảm hứng như vậy bởi chúng ta thiếu tự do. Những xã
hội lạc hậu chừng nào còn chưa hiểu được giá trị của nhân quyền thì cả
nhà chính trị và người dân của họ đều không thể có được cảm hứng. Nếu
chỉ coi dân quyền là đủ, mà tầm thường hóa hay không cần đến nhân quyền
thì con người không bao giờ vươn tới được trạng thái Người vì không có đủ cảm hứng để phát triển.
Cảm
hứng thường được biểu hiện dưới hình thức của văn hoá, nó là một trạng
thái tinh thần được phát tán, lan truyền, ảnh hưởng rất nhanh và hiệu
quả thông qua văn hóa. Nhưng cần phải hiểu rằng cảm hứng không thuộc về
văn hóa mà cảm hứng luôn thuộc về con người. Chúng ta thường thấy những
tác phẩm văn học có giá trị bao giờ cũng là những tác phẩm gieo vào lòng
người đọc những rung cảm thực sự. Tại sao mọi người ở khắp nơi trên thế
giới khi đọc “Chiến tranh và hoà bình” của Tolstoi đều bị lôi
cuốn bởi tinh thần Nga bất diệt trong cuộc chiến tranh vệ quốc? Nếu như
tác phẩm này bị bao kín bởi lớp vỏ áo văn hóa và bị cố định bởi ngôn ngữ
thì liệu nó có thể gợi lên những cảm xúc ở độc giả không? Ngôn ngữ cũng
là văn hoá cho nên nó có giá trị khu trú. Nếu dừng lại ở trạng thái văn
hóa như những đặc thù khu trú thì văn hóa không có giá trị hỗ trợ phát
triển. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy, mọi sáng tạo không chỉ theo đuổi
ngôn ngữ hay cái vỏ hình thức bên ngoài mà còn phải theo đuổi tinh thần cơ bản thuộc
về con người để tạo ra giá trị phổ quát có tính chất kích thích sự phát
triển của đời sống, của tâm hồn con người. Chính cái tinh thần cơ bản
ấy là yếu tố quan trọng nhất khơi dậy sự đồng cảm của con người. Sự lan
toả các giá trị văn hóa giúp con người hiểu nhau dễ hơn, truyền tải chất
lượng tâm hồn con người dễ hơn, và do đó, tác động thúc đẩy sự phát
triển giữa các quốc gia diễn ra một cách dễ dàng hơn. Có như thế mới
thỏa mãn nhu cầu tham gia tích cực của mỗi người vào các cộng đồng công
dân khác, tức là giúp con người có ích trong nhiều nền văn hóa khác
nhau. Một con người có ích là một con người góp phần vào sự phát triển ở
những nơi mà nó đến, tức là tại nhiều nền văn hóa mà nó có mặt.
Cảm
hứng có thể xúc tiến khả năng phát triển nhưng cũng có thể xúc tiến khả
năng phá hoại khi nó không được cân bằng. Cảm hứng không được cân bằng
là biểu hiện của sự mất cân đối trong đời sống tinh thần và trạng thái
này rất nguy hiểm. Chính loại cảm hứng này đã tạo ra cách mạng văn hoá ở
Trung Quốc, mở cửa cho năng lực phá hoại và tạo ra sự tàn sát kinh
hoàng. Đó là biểu hiện đáng sợ nhất của sự giận dữ đầy cảm hứng của
những con người không biết mình đang làm gì và không kiểm soát được
chính mình. Do đó, vấn đề đặt ra là làm thế nào để xác lập được sự cân
đối giữa năng lực và cảm hứng của con
người. Để tránh những hậu quả như vậy, con người cần phải tạo ra được
những thể chế mà ở đấy, ngay cả cảm hứng cũng phải được điều chỉnh, được
cân bằng. Vậy, làm thế nào để cân bằng cảm hứng của con người? Ai đó
từng nói rất hay: “Chúng ta cần sự nổi giận của trí tuệ chứ không cần trí tuệ của sự nổi giận“.
Tôi cho rằng chỉ có trí tuệ mới có thể cân bằng được cảm hứng. Con
người phải biết tự cân bằng cảm hứng của mình bằng trí tuệ của mình. Con
người không thể để cho cảm hứng của mình được thể hiện một cách tuỳ
tiện, mù quáng, nhưng con người cũng không được để cho cảm hứng bị tiêu
diệt. Bởi vì, khi không còn cảm hứng, con người trở nên khô khốc trong
sự tỉnh táo, mất cảm hứng là mất đi động lực phát triển các giá trị tinh
thần. Hiện tượng này thường xảy ra ở những xã hội mà tính đa dạng của
cuộc sống bị hạn chế hay bị tiêu diệt. Trong cuộc sống đã từng tồn tại
những xã hội như thế, đó là xã hội mà mọi cảm hứng đều bị dồn nén, con
người không muốn làm gì cả, con người bằng lòng với sự nghèo khổ, thậm
chí thiêng liêng hoá sự nghèo khổ của mình. Việc dồn nén các cảm hứng đã
tạo ra mặt trái của nó là chủ nghĩa hoài cổ, chủ nghĩa yêu chuộng quá
khứ và đấy là một trong những nguyên nhân gây ra sự chậm phát triển sẽ
được đề cập đến ở những phần sau.
Như
vậy, cảm hứng là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển. Một
con người không có cảm hứng, một dân tộc không có cảm hứng thì sẽ luôn
luôn lười biếng và không còn khát vọng để đi tìm cái mới ngoài những thứ
mà mình đã có, và do đó không thể phát triển được. Tất cả các dân tộc
đều phải ý thức một cách rõ ràng về việc gieo trồng cảm hứng phát triển
xã hội và tất nhiên, quá trình này buộc phải bắt đầu từ việc khích lệ
cảm hứng của mỗi cá nhân. Điều đó đồng nghĩa với việc phải xây dựng chế
độ dân chủ để tự do trở thành cảm hứng cơ bản khích lệ con người tham gia một cách hiệu quả vào tiến trình phát triển của cá nhân và của cả cộng đồng.
Vậy
thông qua cảm hứng, tự do biến thành sự sáng tạo như thế nào? Con người
sáng tạo thông qua năng lực tưởng tượng của mình và cảm hứng chính là
chất men nuôi dưỡng năng lực tưởng tượng ấy. Như vậy, rõ ràng, tự do là
chất xúc tác cho mọi sáng tạo của con người, và con người không thể sáng
tạo được nếu không có tự do. Tự do tạo ra cảm hứng làm chất men nuôi
dưỡng năng lực tưởng tượng, đồng thời nó khuyến khích sự phát triển năng
lực tưởng tượng và làm bùng nổ năng lực sáng tạo ở mỗi người. Có một
thế giới tưởng tượng tràn ngập trong mình, con người mới có đam mê sáng
tạo. Nói cách khác, con người chỉ sáng tạo được nếu tự nguyện lao động,
nếu yêu mến cái mình đang làm, yêu mến cuộc sống và đất nước mình đang
sống. Tự do là không gian của mọi sự sáng tạo từ văn hoá, nghệ thuật cho
đến khoa học công nghệ… Michelangelo từng nằm ngửa trên các quang treo
mấy năm ròng để vẽ bức họa “Sáng tạo thế giới” trên nóc vòm nhà
thờ Sixtine nổi tiếng ở Italia. Nếu không có thiên thần nhập vào trong
tâm hồn của Michelangelo, nếu Michelangelo không bay trong tự do, không
để mình bay lên cùng với sự thăng hoa của trí tưởng tượng thì làm sao
ông có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách nằm ngửa trên quang treo để vẽ
ra tác phẩm mà hàng trăm năm sau con người vẫn còn tấm tắc, trầm trồ?
Chính cảm hứng và năng lực tưởng tượng phong phú làm nên sự đa dạng các
giá trị tinh thần, nơi con người có thể nhặt được sự sáng tạo ở trong
bất kỳ góc tối nào của cuộc sống.
Nói
đến sự sáng tạo không thể không nói đến cái đẹp vì sáng tạo chính là
cái đẹp. Cái đẹp tồn tại ở ngay bên trong mỗi con người nếu con người
biết yêu cái đẹp. Cái đẹp là thông điệp của sự hợp lý, sự cao thượng,
thậm chí có thể khẳng định cái đẹp là biểu hiện cao nhất của trạng thái
phát triển của con người, đó là sự thăng hoa các khả năng của con người,
tức là sự sáng tạo. Vạn Lý Trường Thành là một ví dụ. Vẻ đẹp uy nghi,
hùng vĩ của nó luôn làm cho chúng ta thích thú, làm cho chúng ta choáng
ngợp và khiến chúng ta phải kinh ngạc, ngưỡng mộ. Trong sự chập trùng
của thiên nhiên, người ta vẽ một nét nhấn làm phô ra những đường nét uốn
lượn lộng lẫy của trời đất và buộc tất cả phải thừa nhận vẻ đẹp của nó.
Vẻ đẹp ấy đã đem lại sự hấp dẫn cho nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
Nếu ta bỏ đi những Di Hoà Viên, Thiên An Môn, Vạn Lý Trường Thành thì
đất nước Trung Hoa có gì cuốn hút? Cũng như vậy, nước Pháp sẽ giảm đi
biết bao nhiêu sự vẫy gọi nếu như chúng ta bỏ đi của Paris sông Saint,
điện Louvre, điện Pantheon… Cho nên cái đẹp là biểu hiện tổng hợp của
cuộc đời, là biểu hiện cao nhất không chỉ của sự thịnh vượng mà của cả
sự bất tử. Trong đó, vượt lên tất cả, con người là sự tổng hợp cao quý
nhất, là hiện thân cao nhất của cái đẹp. Bức tượng David luôn được ca
ngợi là một trong những biểu tượng đẹp nhất của nghệ thuật tạo hình theo
phong cách cổ điển chính vì nó thể hiện vẻ đẹp cân đối và hoàn mỹ nhất
của con người.
Cái
đẹp bao giờ cũng tồn tại cùng với sự đa dạng và tự nhiên của đời sống
tinh thần con người. Nếu con người không có trí tưởng tượng, không nhận
biết được vẻ đẹp bằng chính tâm hồn mình thì con người không biết cách
tạo ra vẻ đẹp và càng không thể có được nó. Mỗi người chỉ có một tâm
hồn, một đời sống tinh thần, do vậy, nếu nó khô cứng, đơn điệu hoặc méo
mó thì con người không thể có động lực làm bất cứ việc gì mà cảm thấy
hạnh phúc. Nếu xây dựng các tiêu chuẩn để con người trở thành những kẻ
ngốc nghếch và đơn điệu, hay nếu làm cho con người méo mó và mất đi sự
đa dạng tình thần vốn có thì đấy là tội diệt chủng về mặt tinh thần. Xét
trên quan điểm phát triển, sự diệt chủng về mặt tinh thần là một tội ác
chống lại loài người bởi nó tiêu diệt khả năng sáng tạo của con người.
Thế giới vẫn lên án tội ác diệt chủng về mặt sinh học nhưng dường như
chưa nhận ra một sự diệt chủng khác còn nguy hiểm hơn, đó là sự diệt
chủng con người về mặt tinh thần. Vì thế, phải xây dựng con người ở giá
trị cá nhân của nó. Tôn trọng giá trị cá nhân con người là tôn trọng
cuộc đời và giá trị của chính mình, của người khác và tôn trọng sự trong
sạch của đời sống xã hội. Khi xác nhận được giá trị của mình thì con
người mới có giá trị đóng góp cho xã hội. Ở phương Tây, người ta đề cao
vai trò cá nhân, trái lại, ở phương Đông, vì những lý do văn hoá, người
ta coi trọng vai trò của cộng đồng. Do đó, phương Đông không có con người hoàn chỉnh, không có các cá thể hoàn chỉnh.
Trước đây, người phương Đông thường lên án những đặc điểm mang tính cá
nhân và gọi đó là ích kỷ, là cá nhân chủ nghĩa, theo đó, người ta đối
lập cá nhân với cộng đồng, lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng. Quan
niệm như vậy cho đến nay chưa phải là đã hoàn toàn chấm dứt. Phải thấy
rằng, sự đối lập, sự khinh trọng đó rất phi lý, bởi cá thể và cộng đồng
không phải là một cặp phạm trù đối lập mà là cặp phạm trù có quan hệ hệ
quả. Cộng đồng là kết quả sự tụ họp của các cá thể. Một cộng đồng lành
mạnh phải được cấu tạo bởi các cá thể lành mạnh, mà một cá thể lành mạnh
phải bắt đầu từ một cá thể có giá trị. Khi nào con người không nhận ra
mình là một cá thể và chứng minh mình là một cá thể có giá trị thì khi
ấy, con người vẫn không phát triển.
Tóm
lại, cảm hứng và sáng tạo luôn đi liền với nhau, gắn kết với nhau bởi
xúc tác là tự do. Có thể nói, chính cảm hứng và tình yêu tự do đã tạo ra
những thành tựu và những dấu ấn có giá trị vĩnh cửu trong tiến trình
phát triển của xã hội loài người.
4. Danh dự
Danh
dự là một chỉ tiêu mang chất lượng tinh thần và là một trong những cảm
giác quan trọng nhất của con người. Danh dự cũng là một chỉ tiêu thể
hiện mức độ tự do của con người. Chúng ta biết rằng,
khi con người không có tự do thì con người không thể tự lập. Sự thiếu tự
do làm cho con người mất mát những năng lực cơ bản và trở thành những
sinh vật luôn phụ thuộc, đáng sợ nhất là phụ thuộc vào những nhận thức
bị áp đặt. Khi phụ thuộc, con người đánh mất lòng tự trọng. Mà không có
lòng tự trọng, con người không thể có danh dự, vì tự trọng là nguồn gốc
của niềm tự hào, của cảm giác danh dự.
Nói
đến cùng, con người không có cảm giác danh dự thì không phải là con
người, con người hoàn chỉnh hay con người hiểu theo đúng nghĩa của nó.
Bởi vì con người không có danh dự thì không tự tin đứng trước người
khác, nhất là người khác chủng tộc, và không đủ tự tin để đứng trước ai
thì đấy có phải là con người không? Danh dự được xác lập như một chỉ
tiêu làm nguồn vốn phát triển các giá trị tinh thần con người. Danh dự
là kim chỉ nam để tiến tới những giá trị văn hoá cởi mở hơn và phát
triển các năng lực. Nhân cách của một con người phát triển cùng với tình
yêu của người đó. Trước hết, con người phải có danh dự thì mới biết
thương yêu người khác. Khi đạt đến một tình yêu rộng lớn hơn là tình yêu
đất nước thì đấy chính là biểu hiện mang tính cộng đồng của danh dự.
Danh
dự là một cảm giác mang chất lượng sở hữu cá nhân. Khi nào danh dự trở
thành sở hữu cá nhân thì đó chính là điểm phát triển cao nhất của ý thức
về đạo đức. Trạng thái tụ họp của các danh dự cá nhân đôi lúc tạo ra danh dự tập thể,
nhưng danh dự tập thể không phải là trạng thái thường xuyên, mà ngay cả
tập thể có danh dự thì nó cũng bị phân chia thành từng mẩu một và được
chứa đựng trong từng cá nhân. Không phải ai trong tập thể cũng chứa đựng
trong mình danh dự ấy, song, một điều chắc chắn là ai cũng phải có danh
dự của mình. Bởi vì nếu thiếu danh dự, con người không có cách gì để
phát triển lành mạnh được. Nếu thiếu danh dự, mọi sự phát triển đều biến
thành sự phát triển của những yếu tố tiêu cực và chúng ta không thể làm
cho xã hội trở nên tốt đẹp. Một dân tộc muốn trở thành dân tộc lành
mạnh thì mỗi con người phải trở thành một con người hoàn chỉnh, cân bằng
về mặt tinh thần.
5. Hạnh phúc
Hạnh
phúc là trạng thái cảm giác mà tất cả con người đều mong có. Hạnh phúc
là mục tiêu của cuộc sống con người, mục tiêu của mọi sự phát triển. Suy
ra cho cùng, tất cả ý nghĩa, giá trị, niềm vui của cuộc sống đều được
gói ghém trong khái niệm hạnh phúc. Cảm giác hạnh phúc vô cùng quan
trọng, nó làm cho một người rất vất vả, rất lam lũ có thể làm thơ. Cảm
giác hạnh phúc là tiền đề của khát vọng vươn tới, đó là cảm giác muốn
chiếm lĩnh những giá trị cao quý nhất của cuộc sống. Suy cho cùng, đời
sống con người là một tập hợp các cảm giác, trong đó cảm giác hạnh phúc có mặt ở trung tâm của mọi cảm giác còn lại.
Hạnh
phúc của một người chỉ được tạo ra bằng chính năng lực của người đó.
Chúng ta đều biết rằng có thể cho con người tiền nhưng không thể cho con
người hạnh phúc. Hạnh phúc phải là thành quả của sự phát triển và nó
chỉ xuất hiện trong điều kiện phát triển đầy đủ của con người. Do đó,
con người không thể đạt được hạnh phúc nếu thiếu tự do. Tự do là phương
tiện mà nhờ nó, con người có thể tìm thấy hạnh phúc cho mình. Tự do
không phải chỉ là quyền trên lý thuyết hay quyền trên thực tế mà đi liền
với nó còn là cảm giác hạnh phúc. Khi con người có đủ năng lực để hành
động, đủ trí tuệ để khai thác các quyền của mình, tức là khi các quyền
được sử dụng thì nó đem đến cho con người một cảm giác muốn làm lại như
thế ở lần sau. Hành động này đem lại cho con người một khoái cảm, đó
chính là cơn nghiện tự nhiên của con người đối với
những tập hợp quyền của mình. Và cơn nghiện ấy tạo ra cảm giác về trạng
thái hạnh phúc, trạng thái thoả mãn, trạng thái viên mãn của con người,
chính cảm giác ấy là cảm giác ban đầu của quá trình sáng tạo. Như vậy,
tự do là một trong những điều kiện ban đầu để hình thành hạnh phúc.Khi
con người gặt hái được thành quả từ việc có tự do thì con người hạnh
phúc. Tự do là cảm giác đầu vào của con người và hạnh phúc là
cảm giác đầu ra của con người, toàn bộ tiến trình ở giữa là tiến trình
phát triển. Không phải con người tìm được tự do khi đi qua một
ngục tù là con người đã có được hạnh phúc. Hạnh phúc của con người là
một cảm giác tổng hợp từ cảm giác tự tin, tự hào, tự trọng đến tình yêu…
Mà xét đến cùng, đó chính là những trạng thái cảm xúc chỉ tồn tại ở một
người có danh dự, nên cảm giác hạnh phúc thường đi liền với trạng thái
con người có danh dự.
Con
người cần phải phấn đấu để khả năng hạnh phúc là phổ quát trong mọi
trường hợp tương tác giữa con người với con người, hay làm cho hạnh phúc
là cảm giác phổ biến trong đời sống tinh thần mỗi người. Nếu có công cụ
để tìm ra hạnh phúc trong mọi sự tương tác đó thì công nghệ ấy cần phải
trở thành công nghệ phổ quát, vì chính sự phổ quát của hạnh phúc tạo ra
sự khuyến khích con người tiếp tục tồn tại và phát triển.
Nguồn: Cội nguồn cảm hứng
Nguồn: Cội nguồn cảm hứng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét