Một đóa sen
Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè nóng bức oi ả nhất của thập niên tám
mươi tại miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như
nằm yên dưới sức nóng như thiêu đốt, ngay cả về đêm cái nóng như vẫn còn
âm ỉ, mọi thứ như tỏa ra hơi nóng – những bức tường, những sàn lót gạch
hung hung đỏ, cái sân tráng xi măng trước mặt, ngay cả cái ván lót trên
sàn nằm cũng toát ra hơi nóng. Những người tù nhân chính trị chế độ cũ
như trong một lò ngục tối trên trần gian, ban ngày thì lao động khổ sai
đổ mồ hôi không phải đổi lấy bát cơm mà đổi lấy ít thức ăn độn như khoai
hay sắn hay bo bo mà vẫn không đủ no, ban đêm thì cố giỗ giấc ngủ trong
cái nóng như nung như đốt ấy trong cái cả nh nằm xếp hai từng như cá
đóng hộp trong buồng giam. Mồ hôi lại đổ ra cho đến khi mệt lả người đi
thì giấc ngủ chập chờn mới đến.
Cái nóng kinh người đã kéo dài
cả tháng nay và đồng ruộng đã nứt nẻ, các em bé chăn trâu mà Trung và
các bạn gặp trên đường đi lao động cũng môi khô và chui vào các bụi cây
trú nắng. Các giếng nước cũng từ từ khô cạn đưa đến nạn thiếu nước trầm
trọng cho cả dân chúng những làng bên ngoài lẫn những người tù khốn khổ
trong trại.
Buổi trưa hôm đó cũng như mọi ngày sau khi lao động
về, ăn xong phần ăn trưa ít ỏi, các người tù cố nằm giỗ giấc ngủ ngắn
để lấy sức lao động buổi chiều thì thấy một vị sư già đang ngồi ngoài
sân nắng trong thế kiết già cả nửa tiếng đồng hồ và mặt ngước nhìn thẳng
lên trời. Những khi hạn hán thì thầy vẫn cầu nguyện như thế và sau đó
chiều tối hay trước nửa đêm thể nào mưa giông cũng kéo đến. Đêm nay cũng
thế, Trung cố giỗ giấc ngủ để mà mai còn sức trả cái nợ lao động nhưng
không làm sao nhắm mắt được, mồ hôi trên người cứ nhỏ từng giọt như làm
cho sức khỏe của anh cạn dần đi theo đêm. Anh nhớ tới thằng bạn thân nằm
bên cạnh nói với anh hồi chiều rằng chỉ ước ao ông Trời cho một trận
mưa chứ đã tù cả chục năm rồi cũng chẳng mơ ước xa xôi gì ngày trở về
nữa.
Thế rồi, như một phép lạ những làn gió mát từ đâu từ từ
thổi đến, len lỏi vào những khung cửa sổ, luồng dưới những cánh cửa
buồng giam và từ xa xa vài lằn chớp nhoáng lên bên trời. Chẳng bao lâu
sau thì những giọt mưa, ôi những giọt mưa cam lồ của Trời ban xuống như
thêm sức mạnh cho những người tù biệt xứ lưu đày. Các buồng giam không
ai bảo ai đều thức dậy và tung mùng ra để được hít thở những giây phút
mát rượi của làn gió lùa vào trại giam.
Vô tình Trung nhìn
xuống nơi vị sư già giam cùng buồng với anh, thầy vẫn như còn đang ngồi
thiền trong mùng, mặt quay vào tường trong thế kiết già. Trung chợt hiểu
và các bạn anh cũng hiểu rằng chính nhờ thầy cầu nguyện mà đã có trận
mưa đêm nay. Vị sư già đó chính là Trung Tá Quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy
Phật Giáo của QLVNCH – Thượng Tọa Thích Quang Long, một người tù xuất
chúng đã làm cho kẻ thù phải cúi đầu kính nể. Giang sơn của thầy cũng là
một tấm chiếu, hai bộ quần áo tù, và một cái chăn đỏ Trung Quốc như mọi
người và nằm một dãy với các Đại Đức Tuyên Úy khác.
Anh nhớ
đến thầy Khuê, một vị Tuyên Úy Phật Giáo và Tam Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo
võ đường Quang Trung, một vị Đại Đức mà anh rất mến thương và kính
trọng, đã từng nói với anh rằng nếu nói về đạo Phật, về sự tu hành thì
hãy lấy thầy Long mà làm gương; đừng vì một vài vị Tuyên Úy đã không
nghiêm giữ được giới răn mà hiểu lầm về đạo Phật mà mất đi niềm tin.
Anh nhớ lại câu chuyện lúc mới bước chân vào trại giam Long Thành sau
khi Sài Gòn sụp đổ và hầu như mọi người đều không biết bấu víu vào đâu,
niềm tin vào các tôn giáo cũng bị lung lay thì một sự việc đã xảy ra làm
mọi người đều kính trọng thầy, nhất là khi biết hai tòa đại sứ bạn đã
đến đón thầy đi di tản trước đó nhưng thầy đã khẳng khái chối từ và
thanh thản bước chân vào trại giam.
Trong thời gian mới bị giam
giữ, một hôm thầy được gọi ra làm việc để gặp hai vị sư quốc doanh là
Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này ra sức
thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào “Phật giáo yêu
nước”, và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công
góp sức xây dựng phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính
là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt
giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị
đày ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì thường được gọi là ông Từ Đàm
vì tu ở chùa này ngoài Huế. Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là
người đã đứng ra bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về
lại con đường tu hành vì họ đã bị lộ hình tích. Không ngờ ông trời trớ
trêu để có ngày họ lại đến trại Long Thành và đối đầu với thầy trong
hoàn cảnh đặc biệt này của đất nước.
Thầy nhìn hai vị sư quốc doanh kia và từ tốn chậm rãi nhưng thật cương quyết thầy nói:
“Các ông đã dựng nên cái phong trào “Phật Giáo yêu nước” ấy thì các ông
cứ tiếp tục công việc mà các ông đã làm, còn tôi là một Tuyên Úy trong
quân đội và tôi sẽ theo chân các Phật tử trong các trại giam, họ đi đến
đâu thì tôi cũng sẽ đi đến đấy với họ cho tới cùng. Thôi các ông về đi”.
Và sau đó thầy chấp nhận việc chuyển trại ra Bắc mở đầu cho một quãng đời biệt xứ lưu đày.
Những ai có may mắn gặp thầy trong trại giam thầy đều kính trọng vị sư
già này, người mà lúc nào cũng như mỉm cười, hòa nhã, giản dị, khiêm tốn
và giúp đỡ tất cả mọi tù nhân mỗi khi thầy có phương tiện.
Năm
1976, thầy cùng một số Tuyên Úy chuyển trại từ Nam ra Bắc và bị giam
giữ tại trại 1 Sơn La hay còn gọi là trại Mường Thái là nơi mà trước kia
Pháp đã từng giam giữ những tù nhân bị án lưu đày. Năm sau thì thầy có
tên trong số những tù nhân di chuyển về trại Yên Hạ, trại giam này nằm
dưới thung lũng và bao vây chung quanh bởi những dãy núi đá vôi, thuộc
huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Trại Yên Hạ là nơi chuyên giam giữ những tử
tội hình sự cướp của giết người mà đã được nhà nước “khoan hồng” tha cho
tội chết.
Chỉ hơn một năm sau thì các tù nhân này dần dần kiệt
sức vì lao động khổ sai, thiếu dinh dưỡng, thiếu ăn nhất là thiếu chất
mỡ và đường, và vì khí độc từ dãy núi đá vôi phả vào từ chung quanh. Bởi
thế chỉ sau một thời gian ngắn chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc,
ai nấy đều gầy như bộ xương còn biết đi. Khi đi lao động hay đi trở về
trại, người ta chỉ thấy những bộ quần áo tù phấp phới bay mà chẳng thấy
da thịt đâu. Thế rồi sau bốn năm trời giam cầm và lưu đày, một số những
người tù lần đầu tiên được nhận một gói nhỏ tiếp tế cực kỳ quí giá từ
gia đình trong Nam gửi ra, một số khác thì vẫn chưa nối lại được sợi dây
với gia đình trong Nam.
Trong gói nhỏ mà các Phật tử gởi cho
thầy Long có 15 cục đường móng trâu, lúc đó ai mà có được 5 cục đường
như thế thì đã là thần tiên rồi, nhưng thầy từ từ đem ra phân phát hết
15 cục đường quí giá đó cho những người cùng buồng. Ưu tiên những tù
nhân nào mà đã kiệt lực thì được một cục, những người đau ốm khác thì
mỗi người được nửa cục mà thôi, còn riêng thầy thì không có một miếng
đường nào hết. Những người tù này khi nhận được cục đường từ tay thầy
phân phát đã không cầm được nước mắt trước tấm lòng vị tha, quảng đại vô
biên của một vị sư mà tâm đã định và huệ đã ngời sáng.
Thầy
cũng không thoát được những vụ hỏi cung, một hình thức tra tấn tinh thần
những người tù khốn khó này trong trại giam. Một tên cán bộ từ Hà Nội
vào với mái tóc hoa râm có vẻ là một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ
đã hỏi cung thầy trong ba ngày liên tiếp. Hắn vứt cho thầy tờ giấy để
tối về khai báo những tội lỗi đã chống đảng, nhà nước và nhân dân trước
kia khi hoạt động ở Sài Gòn cho Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ Việt
Nam Cộng Hòa. Sáng hôm sau, khi kêu ra làm việc tiếp tục, thầy đã nộp
bản khai báo cho hắn, vừa xem xong thì hắn đùng đùng nổi giận ném tờ
khai xuống bàn và quát tháo:
“Anh khai báo thế này hả? Tại sao anh lại chép Chú Đại Bi vào đây? anh muốn tù rục xương ra không?”.
Vẫn thái độ bình tĩnh và từ tốn của một vị cao tăng thầy chậm rãi trả lời:
“Thì đây chính là những gì mà tôi đã làm và đã tụng niệm khi xưa, có thể thôi!”.
Hắn với vẻ mặt hầm hầm liệng cho thầy một tờ giấy khác để khai báo lại
một cách thành khẩn để được sớm khoan hồng. Sáng ngày hôm sau, thầy nộp
cho hắn một tờ thứ hai và trên tờ đó thầy chép lại thật nắn nót bài Kinh
Bát Nhã. Đến đây thì hắn nổi điên lên và mạt sát thầy thậm tệ và đe dọa
rằng thầy sẽ tù mọt gông và đừng mong sẽ được hưởng lượng khoan hồng.
Thầy ung dung trả lời rằng:
“Các ông cứ việc giam giữ tôi bao lâu
cũng được, tôi chỉ xin các ông hãy thả hết những người tù chính trị chế
độ cũ mà các ông đang giam giữ mà thôi”.
Từ đó đến sau, chúng
ít khi kêu thầy ra hỏi cung nữa cho đến mãi năm 87, trước khi có một đợt
thả lớn tại trại Ba Sao Nam Hà thì trong các vị Tuyên Úy bị hỏi cung có
tên thầy. Nhưng đặc biệt lần này chúng gọi thầy bằng thầy chứ không gọi
là anh như trước nữa, tuy nhiên chúng vẫn dụ dỗ thầy nhận tội để được
khoan hồng. Thầy trả lời rằng các ông cứ thả hết các ông đại đức tuyên
úy ra đi vì họ chẳng có tội lỗi gì hết tất cả đều do tôi và họ đều làm
theo chỉ thị của tôi hết, muốn gì thì cứ giữ tôi ở lại đến bao lâu cũng
được. Chúng đành chào thua và chỉ vài tháng sau thì thầy có tên trong
danh sách được thả ra khỏi trại cùng với tất cả các đại đức và những vị
mục sư linh mục khác trong các Nha Tuyên Úy quân đội.
Thầy ở tù
mười hai năm, một năm trong Nam và mười một năm lưu đày trong những
trại giam được dựng lên nơi rừng thiêng núi độc miền Bắc.
Về
miền Nam, thầy trở lại chùa Giác Ngạn trên đường Trương Minh Ký cũ ở Sài
Gòn để lại lo Phật sự, cúng kiến giúp đỡ các gia đình Phật tử. Khi đi
đâu tụng kinh thầy vẫn đơn sơ trong chiếc áo nâu sòng và phe phẩy chiếc
quạt đã sờn rách và môi luôn nở nụ cười hiền hậu giống như một ông già
nhà quê chất phát hiền lành.
Chùa Vĩnh Nghiêm có vời thầy ra
nhưng thầy vẫn ở lại Giác Ngạn – ngôi chùa mà thầy góp công xây dựng lên
và trụ trì cho tới khi mất nước – cho tới khi thầy viên tịch vài năm
sau đó.
Đêm Noel trong xà lim số 6
Ngày 29-4-1984,
tôi được chuyển sang xà lim số 6 trại A-20 ở chung với Linh Mục Nguyễn
Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người em chủ trương năm
1976. Tôi hoàn toàn không hiểu lý do của việc chuyển xà lim cá nhân
này. Ðây cũng là ngày mà tôi đánh dấu 3 năm bị cùm hai chân và có giai
đoạn cả hai tay trong xà lim số 5. Phải nói là tôi bị gông thì đúng hơn.
Nếu quý vị được nhìn thấy những tội phạm của thời phong kiến bị gông
như thế nào thì chúng tôi bị gông như thế nấy. Chỉ có khác là nhà tù
Cộng sản không gông cổ mà thôi. Linh Mục Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc
của dòng Chúa Cứu Thế, sau khi bị lên án chung thân khổ sai sau vụ và
em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, đã bị đưa lưu đầy tại trại A-20
Xuân Phước. Khi tôi đã nằm cùm trong biệt giam trong phòng số 5 được 2
năm thì một hôm Linh Mục Nguyễn Văn Vàng lúc ấy từ trại lao động bị đưa
vào xà lim số 6, bên cạnh xà lim tôi bị giam.
Khi còn ở ngoài
trại lao động, ngài là đối tượng theo dõi của đám an ninh trại giam,
nhất cử nhất động đều không qua mắt được một giàn ăng ten dầy đặc vây
quanh vị tu sĩ công giáo này. Bọn an ninh trại nói thẳng ra rằng nếu
chúng bắt gặp bất cứ tù nhân nào liên hệ với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng,
sẽ cùm ngay.
Tôi là một Phật tử, nhưng mối liên hệ với Cha Vàng
khá thân thiết và chúng tôi thường đàm đạo với nhau vào mỗi ngày sau
giờ cơm chiều trước khi điểm số để vào buồng giam, không chấp lệnh của
trại. Có lẽ đây là lý do bọn an ninh trại đưa tôi đi “nghỉ mát” trước và
2 năm sau họ đưa Cha Vàng và một vài anh em nữa vào những chiếc hộp nhỏ
ở ngay say nhà bếp của trại A. Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước thường
được chúng tôi gọi là trại trừng giới (danh từ có từ thời Pháp thuộc để
chỉ những trại có quy chế trừng trị tù nhân khắt khe). Cục Quản Lý Trại
Giam của Cộng Sản thì gọi những loại trại này là Trại Kiên Giam. Tại sao
chính quyền Cộng Sản gọi những trại được đánh mã số bằng chữ A và tiếp
theo là một hàng con số? Thật ra thì rất ít người được biết lý do tại
sao lại gọi A-20 là một trại kiên giam nếu không có dịp bị gọi đi thẩm
cung nhiều lần trước khi được “gởi” vào những chiếc “hộp” ở Xuân Phước.
Sau biến chuyển đánh dấu bằng việc Trung Quốc tấn công 6 tỉnh sát biên
giới Việt Trung năm 1979, Cục Trại Giam được lệnh thực hiện một kế hoạch
gọi là “Phương Án 4”, nghĩa là thực hiện một kế hoạch tuyển lựa tất cả
những thành phần cứng đầu “không thể cải tạo được nữa” để đưa vào những
trại A và trại Z. Kế hoạch này là tác phẩm của một viên Ðại Tá về sau
này trở thành một tướng lãnh công an tên là Hoàng Thanh (có lẽ là bí
danh). Hoàng Thanh đã thẩm cung chúng tôi và rất nhiều tù nhân khác mấy
tháng trước khi tôi bị chuyển trại về A-20. Lần sau cùng là vào mùa Thu
1979, khi thẩm cung tôi lần chót, ông ta cười cười nham hiểm nhưng nói
huỵch toẹt: “Tôi biết chắc chắn là khi chuyển về trại mới, các anh không
còn ngày ra. Cho nên tôi khuyên các anh là tốt nhất nên ngoan ngoãn để
hưởng khoan hồng của nhà nước, nói chung là được mang vợ con cách anh
lên lập nghiệp ở đây cho gần. Khu vực trai giam sau này sẽ trở thành một
đập nước và một thị trấn. Chúng tôi muốn thiết lập một trong những tiểu
Siberia . Bây giờ, tôi thấy không còn cần phải giấu diếm gì các anh
nữa”. Trại A-20 lúc đầu (1979) có tới 4 trại được đánh số A, B, C, D, ở
cách nhau trên dưới 5 cây số. Trại A được xây hoàn bằng bê tông cốt sắt
tường, bệ nằm, vườn rau ao cá dưới những rặng dừa xanh tốt. Nhưng bên
trong những dãy nhà gạch, mái ngói đỏ au đó là những phương thức câu
thúc thân thể và tinh thần không khác dưới các trại giam ở Siberia dưới
thời Stalin mà phần lớn người đọc sách ở Miền Nam Việt trước 1975 đều
biết qua cuốn “Quần Ðảo Gulag” của văn hào Solzhenitsin. Tôi sẽ có dịp
nói đến chuyện này trong một bài viết khác. Bây giờ tôi quay lại chủ đề
của bài viết này.
Những người dây dựng trại Xuân Phước là ai?
Cái oái oăm của lịch sử mà chúng tôi gặp phải chính là ở chỗ: Trại tù
này lại do chính bàn tay của những người từng được di tản tới Guam trước
ngày 30-4-1975, sau đó lại biểu tình đòi trở về lại Việt Nam bằng tầu
Việt Nam Thương Tín, tạo dựng lên. Lúc chúng tôi được chuyển trại về đây
thì có một số vẫn chưa được trả tự do. Chạy nạn Cộng Sản tới Guam , rồi
vì những lý do riêng biệt hầu hết là vì gia đình còn kẹt lại, trong cơn
hoang mang và đau khổ tột độ, tình cảm che lấp lý trí và bị kích động,
họ đòi quay trở về với lý do xây dựng lại quê hương sau chiến tranh.
Nhưng người Cộng Sản thừa hiểu, những người tị nạn này quay trở về chỉ
vì có người còn vợ con, có người còn mẹ già không có người săn sóc, có
người hoảng loạn bỏ lại vợ mới cưới, người tình đằng sau. Cho nên, Cộng
Sản mở một cuộc đón tiếp để quay phim chụp hình và sau đó đẩy tất cả đàn
ông vào khu rừng Xuân Phước và bị buộc phải xây dựng nhà tù này để
chính quyền Cộng Sản giam giữ chính những đồng đội của mình. Tôi đã có
rất nhiều dịp tiếp xúc với họ, nên hiểu được tấm lòng của họ và thấy họ
đáng thương quý hơn là đáng trách. Một sĩ quan xưng là quản gia cho
tướng Nguyễn Cao Kỳ tâm sự với tôi: “Cậu tính coi, lúc đó vì hoang mang
đi gấp không kịp lôi vợ con và bà mẹ già theo. Ðến Guam, cứ nghĩ đến họ,
làm sao nuốt nổi miếng cơm chứ. Tôi biết nhiều người không thể thông
cảm được lý do tôi trở về, trong đó có thể có cả vợ con tôi nữa, nhưng
đành chịu vậy. Cho nên dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn nạn như thế này, tôi
vẫn thấy lương tâm yên ổn hơn”.
Tôi không có ý định nói chi
tiết về vụ này mà muốn trở lại cái đêm Noel trong xà lim số 6. Xà lim là
tiếng dịch theo âm Việt Nam của “cellule” (tiếng Pháp), xuất hiện trong
văn chương và báo chí từ thời Pháp thuộc. Thực ra nếu tra tự điển tiếng
Anh Việt hay Pháp Việt, chữ cell hay cellule đều có nghĩa là “tế bào”.
Trong các trại tù của những quốc gia theo chủ nghĩa tư bản cũng như chủ
nghĩa cộng sản, hoặc các quốc gia dân chủ tự do, những “tế bào” vẫn được
hiểu là những phòng biệt giam cá nhân để trừng phạt những tù nhân nguy
hiểm. Những phòng biệt giam cá nhân này thường được xây dựng theo một
tiêu chuẩn giống nhau: Không gian nhỏ hẹp của chúng phải đáp ứng được
nhu cầu trừng phạt cả thể xác lẫn tinh thần người tù. Riêng tại các trại
cải tạo do người Cộng Sản dựng lên, những phòng biệt giam cá nhân được
gọi bằng một nhóm từ “nhà kỷ luật”. Trại A ở A-20 Xuân Phước có một dãy
10 phòng biệt giam cá nhân, mỗi phòng như vậy giống như một cái hộp với
bề rộng 3 thước, dài 3 thước, cao 6 thước, xây dựng bằng vật liệu bê
tông cốt sắt, kín mít chỉ có một lỗ tò vò nhỏ ở cánh cửa trước để cho vệ
binh kiểm soát tù nhân ở bên trong. Ở phía trong mỗi xà lim cá nhân, có
hai bệ nằm song song, cách nhau bằng một khoảng hẹp khoảng nửa thước.
Người tù nằm trên bệ quay mặt ra phía cửa hai chân bị cùm chặt bằng một
cùm sắt (trong hình), có nhiều trường hợp bị cùm cả hai chân hai tay.
Nhưng cùm như thế nào? Có phải là cùm bằng còng số 8 như ta thấy cảnh
sát Mỹ còng tay phạm nhân để giải giao về sở cảnh sát không? Thưa không
phải như vậy! Làm gì chúng tôi lại được ưu đãi đó. Loại còng trong những
xà lim mà tôi trải qua suốt 5 năm liên tiếp tại A-20 trong rừng Xuân
Phước là “cùm Omega”. Tại sao lại gọi loại cùm này bằng cái tên của một
hiệu đồng hồ rất nổi tiếng là đồng hồ Omega. Hai cái vòng sắt để khóa
hai chân người có hình thù giống y chang logo của đồng hồ Omega (minh
họa của Bùi Ánh). Khi bị còng trong xà lim, người tù cải tạo bị đẩy ngồi
lên bệ nằm, duỗi thẳng hai chân. Viên cán bộ an ninh trại giam sai một
trật tự lấy ra một lô vòng sắt hình ký hiệu omega ra và ướm thử vào cổ
chân người tù. Nếu đám an ninh trại giam không có ý định trừng phạt nặng
tù nhân cải tạo thì họ ra lệnh cho trật tự lấy hai vòng omega vừa vặn
với cổ chân người tù cải tạo. Ngược lại nếu họ muốn trừng phạt nặng và
muốn làm nhiễm độc thối chân người tù, họ tra vào cổ chân tù cải trạo
hai vòng omega nhỏ hơn vòng cổ chân rồi đóng mạnh xuống. Khi cổ chân
người tù lọt vào được chiếc vòng omega, nó đã làm trầy trụa một phần hay
nhiều phần cổ chân người tù. Sau đó, họ tra vào bên dưới một cây sắt
dài qua những bốn lỗ tròn ở hai vòng omega, một đầu cây sắt ăn sâu vào
mặt tường trong, đầu phía ngoài của thanh sắt được xỏ qua một chốt được
gắn thật sâu xuống cạnh bên ngoài của bệ nằm. Một cây sắt khác ngắn hơn,
một đầu được uốn tròn, đầu kia của cây sắt này được đánh dẹp và khoan
một lỗ nhỏ. Khi hai thanh sắt này được khóa chặt với nhau thì một đầu
của cây sắt dọc sẽ xuyên qua một lỗ nhỏ tường phái trước, thò ra ngoài
ra ngoài một đoạn. Chỉ việc tra một cái khóa vào đầu phía ngoài ấy của
thanh sắt dọc là tất cả hệ thống trên sẽ tạo thành một cái cùm thật chặt
khó lòng một người tù nào có thể mở khóa vì mấu chốt để tháo cùm là ổ
khóa bên ngoài. Phải mở được ổ khóa bên ngoài thì mới mở được cùm.
Có bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi họ bị biệt giam ở trại Xuân
Phước: Mức độ 1: Cùm một chân phải, mức độ 2: Cùm một chân trái, mức độ
3: Cùm hai chân, mức độ 4: Cùm hai chân hai tay. Tôi đã trải qua mức độ 4
trong 8 tháng liên tiếp, sau đó giảm xuống mức độ ba, rồi lại tăng lên
mức độ 4 trước khi giảm xuống mức độ 3, 2 rồi 1. Khi còn bị cùm mức độ
4, ngoài hai bữa ăn và ban đêm, tôi được tháo cùm 2 tay, thời gian còn
lại lúc nào tôi cũng phải ngồi cong như con tôm luộc vì kiểu cùm độc ác
này. Sở dĩ tôi được giảm xuống mức độ 3 rồi trở lại mức độ 4 chỉ vì một
sự kiện: Sự can thiệp của Hội Ân Xá Quốc Tế để thả tôi ra. Khi hai thành
viên của Hội này là bà Frederick Fuchs (người Bỉ) và ông Pierre
Carreaux (cựu chiến binh người Pháp) từ Belgique bay qua Bangkok với một
danh sách 14 ký giả, phóng viên bị trả thù bởi chế độ mới tại Việt Nam
và đòi đến Hà Nội để được gặp mặt những người này. Chỉ có bà Fuchs là
được vào Hà Nội, nhưng bà chỉ được nhận hồ sơ can thiệp và được phép
thăm bà mẹ tôi tại Saigon chứ không được đến trại A-20 gặp mặt tôi. Khi
bà Fuchs đòi chiếu khán ở Bangkok để vào Hà Nội trùng vào thời điểm tôi
được tháo cùm hai tay và thời gian bà Fuchs rời Hà Nội trùng thời gian
tôi bị trở lại mức cùm số 4. Trước khi tôi được tháo cùm hưởng ân huệ ở
mức độ 2, thì một phái đoàn do Hoàng Thanh hướng dẫn từ Hà Nội vào
“thăm” A-20. Ông ta lôi một lô những người tù cải tao đang nằm trong
biệt giam tại trại A cũng như B ở A-20 ra thẩm cung. Tôi được một trong
những thẩm vấn viên cho xem bản sao những lá thư can thiệp đòi thả tôi,
và 13 ký giả khác trong đó có kèm theo cả những lá thư của bằng hữu và
đồng nghiệp với tôi ở Pháp, trong đó có thư của ông Trần Văn Ngô tức ký
giả Từ Nguyên, một cựu phóng viên của Việt Tấn Xã thuộc lớp đàn anh
chúng tôi. Sau đó anh ta nói thẳng với tôi: “Bọn mày thấy đấy, mấy thằng
Tây này kể cả mấy thằng ký giả Việt gian chạy trốn tổ quốc không thể
đánh tháo chúng mày được. Khôn hồn thì chịu cải tạo để không bị chết
trong cùm. Suốt đời chúng mày sẽ không ra khỏi cái thung lũng này được
đâu. Ân Xá Quốc Tế hả, còn khuya bọn nó mới làm gì được chúng tao”. Tôi
không trách gì việc can thiệp này mà lại còn vui là đằng khác, bởi vì nó
củng cố cho tôi một niềm tin và thấy được tấm lòng hào sảng của bạn bè
đồng nghiệp ra được nước ngoài. Tôi thành thật tri ân họ.
Những
ngày tiếp theo, tôi bị nâng cùm ở mức độ 4 và bị cắt khẩu phần ăn xuống
chỉ còn bằng một nửa so với các anh em bên ngoài, nghĩa là chỉ còn mỗi
bữa ăn 150 grams. Nếu tính chi ly ra thì 150 grams thực phẩm mỗi ngày
gồm khoản 5 lát khoai mì khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước
muối và được phát cho nửa ca nước một ngày. Ăn mặn và uống nước ít,
người rất dễ bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận. Trong tù mà bị thận thì kể
như tàn đời. Cho nên ăn lúc đó trở thành ít quan trọng hơn dù lúc đó
chúng tôi đã là lũ ma đói. Cái khát triền miên đã che đi cái đói. Nếu
tôi muốn ăn muốn ăn được khẩu phần dành cho người đang bị trừng phạt
phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa bớt cái mặn của nước muối được
chan vào cơm và khoai mì. Tôi không dám hy sinh những muỗng nước quý như
vàng lúc đó để rửa phần khoai. Tôi nghĩ chỉ có cách nhịn, nhưng càng
đói lả đi thì mồ hôi ra như tắm, một tình trạng hết sức nguy hiểm. Cha
Vàng thấy tôi lả đi, ngài đập cửa báo cáo nhưng đám cán bộ của nhà kỷ
luật im lặng, coi như không có chuyện gì xảy ra. Buổi trưa hôm đó, cha
Vàng nẩy ra một ý kiến. Ngài nói: “Anh không thể tránh ăn mãi như thế.
Nếu Chúa che chở cho mình, phù cũng không chết. Bố tự trách không nghĩ
ra việc hy sinh nửa ca nước của bố cho anh. Khoai mì ít ngấm nước muối
hơn. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt mặn”. Tôi
khước từ: “Bố (trong tù chúng tôi đều gọi tất cả các tu sĩ của các đạo
giáo là bố hết) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như con không
được đâu”. Ông cười: “Sao biết không được, đã thử đâu mà biết không
được”. Tôi chọc ngài cho bớt căng thẳng: “Thế bố đã thử chưa mà khi đi
giảng đạo có lúc bố nói về hạnh phúc lứa đôi”. Cả hai chúng tôi đều cười
vang. Cha Vàng nói: “Ê này, để bố nói cho anh nghe chuyện này. Bố dù là
linh mục thì cũng là người, con tim cũng rung động như mọi người khác,
nhiều lúc bố cũng muốn thử. Những lúc như thế mình phải tranh đấu với
chính bản thân mình ghê lắm để đừng vượt rào đi ăn tình. Ðiều này cũng
cần can đảm mới làm được. Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trong
sự can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như
thường tình thì nói gì nữa”.
Vâng thưa quý vị, giải pháp của
Cha Vàng đã khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua đi nhanh và vô
hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư của cuộc trừng phạt, như
một phép lạ, viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật không phải là tên trực
trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Tù nhân mang cơm cho nhà
kỷ luật cũng không phải là Hùng đen mà là Tuấn “sún” ở đội tù hình sự.
Thông thường, khi vào phát khẩu phần cho nhà kỷ luật, viên cán bộ trực
trại thường mở xà lim có tù nhân “bị gởi” (tù nhân bị ăn chế độ trừng
phạt) trước. Nhưng lần này thấy các xà lim được lần lượt mở từ 1 cho đến
9 (số hên?) Xà lim 10 không có “khách”.
Ðến xà lim số 6, cha
Vàng đưa hai chiếc bát nhựa và hai ca đựng nước ra trong khi viên cán bộ
đích thân mở khóa tay cho tôi. Viên cán bộ này mặc đồ công an không lon
lá gì cả nên không biết cấp bậc anh ta. Phát khoai xong, thấy Tuấn
“sún” múc một vá nước muối, viên cán bộ nói ngay: “Ít muối thôi, chan
đẫm vào, làm sao người ta ăn được”. Ðến phần nước, khi thấy Tuấn “sún”
múc đầy cả hai ca, tôi hiểu rằng hôm đó tên cán bộ trực trại có việc gì
đó không mở trại kỷ luật được, nên nhờ bạn thay thế. Vì làm thế nên anh
chàng này không còn nhớ hoặc không thèm nhớ là trong trại có tù nhân
phải ăn khẩu phần dành cho chế độ trừng phạt. Phát xà lim số 9 xong, lại
thấy có tiếng chìa khóa mở cửa xà lim số 6 của tôi. Tôi đinh ninh rằng
họ quay lại để lấy bớt phần nước nên tôi vội vàng cầm ca nước uống hết.
Nhưng không, Tuấn “sún” xách thùng nước đứng ở cửa phòng hỏi: “Có gì
đựng thêm nước không”. Tôi nói: “Có” và đưa ca nước ra. Tuấn “sún” đổ
đầy hai ca nước, rồi lại hỏi: “Còn đồ đựng nước khác không?” Cả hai
chúng tôi lắc đầu. Viên cán bộ xen vào: “Ðổ vào thau cơm cho họ, chiều
hay mai lấy ra”.
Hình phạt dành cho tôi chấm dứt vào đầu tháng
11. Tôi đoán hết lý do này đến lý do khán khiến chúng chấm dứt sự trừng
phạt đối với tôi. Nhưng cha Vàng nhận định: “Nếu cần phải giết chúng ta,
chúng đã tùng xẻo mình ngay từ lúc đầu. Ðoán làm gì cho mệt…”. Cuối
tháng 11, cả hai chúng tôi đều được mở cùm cho ra đi tắm, lần đầu tiên
sau 3 năm biệt giam. Khi được mở cùm, tôi đứng lên không nổi vì hai chân
dường như cứng lại. Cha Vàng cũng nằm trong tình trạng ấy, nhưng ngài
mới bị biệt giam hơn một năm nên còn lết được. Chúng tôi bám lấy nhau
theo hướng dẫn của trật tự đi ra ngoài giếng được đào bên cạnh một ao cá
ngay sau nhà kỷ luật. Thời tiết tháng 11 ở vùng tiền sơn Tuy Hòa đã
lạnh lắm rồi. Tôi còn có được một cái áo lạnh tự may bằng cách phá một
chiếc chăn len của một bạn tù cho từ năm 1980. Khi được cho chiếc chăn
len này, tôi nghĩ ngay đến chuyện may thành chiếc áo giống như áo trấn
thủ. Trò may vá trong các trại tù cũng là một thú tiêu khiển và giết
thời giờ. Chúng dùng những cộng sắt để làm kim và chỉ thì bằng những sợi
rút ra từ những chiếc áo hay quần may bằng bao cát. Chính ở những trò
may vá này, chúng tôi học được một bài học: Cùng thì tắc biến. Trước
những trò đàn áp, những mưu chước thô bạo quản thúc con người trong các
nhà tù cộng sản, vẫn có rất nhiều người vượt qua được cơn khốn khó do
bản năng sống còn của họ rất mạnh. Cứ thử nghĩ một người nếu ăn bất cứ
con vật gì mà họ bắt được kể cả rít núi, cỏ kiểng, ăn sống cả loại khoai
mì H-34 có nhiều chất độc trên đất Hoa Kỳ này, thì chỉ có nước vào nhà
thương sớm. Nhưng thời gian dưới các nhà tù Cộng Sản bệnh không có
thuốc, ăn bậy bạ mà các tù nhân cải tạo ít bị hề hấn gì. Tôi nghĩ một
cách chủ quan rằng chỉ có phép lạ hay bản năng tự tồn của người khi bị
đẩy vào cùng quẫn mạnh, mới giúp cho một người tù sống được và có ngày
trở về. Một số bạn tù của tôi sau này hay nói đến chuyện sống vì tinh
thần, lúc đầu tôi chỉ coi là chuyện vui, nhưng ngẫm nghĩ lại thấy cũng
có phần chí lý. Khi một người tù chấp nhận phần xấu nhất về mình, sẽ bất
chấp những đòn thù. Vì một người biết chấp nhận phần xấu nhất về mình
trong hoàn cảnh lưu đầy, sẽ chẳng còn gì phải suy nghĩ về hiện tại lẫn
tương lai, ngày về. Lúc đó nếu Việt cộng có bắn mình một viên vào ngực,
có lẽ điều đó được coi là ân huệ hơn là kéo dài cuộc sống của những
người tù theo cách nửa sống, nửa chết như thế. Cho nên, người cộng sản
có thể tính được nhiều trò đàn áp, hành hạ con người, nhưng không tính
được điều liên quan đến bản năng và tinh thần của con người.
Khi chúng tôi ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim. Còn tắm táp
gì trong điều kiện thời tiết này. Thấy Cha Vàng run lên bần bật vì gió
lạnh. Ngài lại chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù, nên tôi
cởi chiếc áo trấn thủ và nói: “Bố đưa chiếc áo len con, bố mặc chiếc áo
của con vào ngay. Bố phong phanh thế, cảm lạnh bây giờ. Bố nhớ rằng ở
đây không có thuốc, mặc chiếc áo này của con đi, bố đưa áo len cho con”.
Ông nhất định không chịu, nhưng cuối cùng tôi vẫn lột chiếc áo len của
cha Vàng ra và mặc chiếc áo trấn thủ mang bằng chăn len hai lớp của tôi,
tôi mặc chiếc áo len của ông. Dĩ nhiên chúng tôi chẳng tắm táp gì được
cả, ngồi núp vào bức tường che giếng nước để tránh gió. Cha Vàng ít run
rẩy hơn. Ngài đứng dậy và vung tay cử động. Tôi làm theo ngài. Tôi có
cảm tưởng cứ mỗi lần vung tay cử động theo kiểu Dịch Cân Kinh thì chúng
tôi choáng váng có thể chúi về trước, nhưng đồng thời cũng cảm thấy bớt
lạnh. Viên cán bộ trực trại dặn chúng tôi: “Các anh tắm thì tắm, không
muốn thì thôi. Nếu không thì ngồi đây phơi nắng (ở Xuân Phước, mùa Ðông
thường không thấy mặt trời). Cấm không được liên hệ với ai”. Nói xong,
anh ta bỏ đi.
Nói thì nói vậy, nhưng các anh em trong nhà bếp
đều là anh em sĩ quan cải tạo, nên cũng tìm cách tiếp tế cho chúng tôi
vài miếng cơm cháy, mấy tán đường. L.S, một người Việt gốc hoa, một tỷ
phú, vua máy cày trước 30-4-1975 bị đẩy lên trại này sau khi lãnh cái án
20 năm tù sau đợt đánh tư sản mại bản lần thứ nhất, đang được cắt cử
coi vườn rau cải. Ông ta từ vườn rau đi khơi khơi, không lén lút gì, đến
thẳng chỗ chúng tôi, đưa một gói bánh trong đó có ít bánh bisquit lạt
và ít đường tán, và thiết thực hơn là khoảng 10 viên thuốc B1. L.S nói:
“Ngộ biếu, bánh đường ăn hết ở ngoài này đi, đừng mang vào chúng nó sẽ
tịch thu. Thuốc B1 cần cho các nị lắm á. Cứ ăn từ từ, đừng có lo, nhà
nước ‘no’ hết ”. Xong ông ta bỏ đi.
Nhóm người Việt gốc Hoa
sống trong trại rất đầy đủ, nhưng đối với chúng tôi, lúc nào họ cũng cư
xử đàng hoàng. Những tin tức từ bên ngoài được đem vào trại của họ khá
chính xác. A-20 là trại trừng giới nhưng quà thăm nuôi hàng tháng của họ
chất đầy chỗ nằm. Mỗi lần thăm gặp họ ở với gia đình cả ngày ở ngoài
nhà thăm nuôi cũng được, nếu họ muốn. Nhưng ít khi nào họ hành động như
vậy. Môi trường ở A-20 là môi trường tế nhị. Những doanh nhân này đầu óc
rất thực tế: Có tiền mua tiên cũng được huống chi đám cán bộ trại giam
vốn cũng đói rách. Cái giá của việc khơi khơi đến tiếp tế cho chúng tôi
ít ra cũng phải trả bằng 6 tháng biệt giam, nếu bị bắt gặp. Nhưng 6
tháng biệt giam chỉ tương đương với 2 cặp lạp xưởng. Ông là người tù duy
nhất ở trong trại có thể trả cái giá ấy bằng lạp xưởng hay nửa bao
thuốc lá ba số 5 thay vì vào biệt giam. LS biết chắc rằng buổi tối hôm
ấy, tên trật tự (bị án chung thân vì tội cướp có súng) sẽ xuống gọi LS
ra cửa sổ buồng giam và xin hai ặp lạp xưởng cho cán bộ nấu xôi. Cho
nên, LS đi đâu một lúc rồi ông ta trở lại với cái điếu cày, diêm và nói:
“Thuốc nào này say lắm, cẩn thận. Ðừng mang diêm vào biệt giam”. Hút
xong thuốc lào, chờ cơn “phê” nhạt dần, tôi chợt nẩy ra ý kiến: “Bố ơi
mình giấu 2 bi (tiếng lóng của hai điếu) để đêm Noel hút”. Tôi quận nhúm
thuốc còn lại cho thật nhỏ vào bao nhựa đựng 10 viên B1 và nhét vào gấu
quần. Cái gấu quần là chỗ hôi thối của những người tù 3 năm không được
tắm, chắc không có ai muốn sờ đến nên có thể an toàn. Biệt giam là nơi
cấm hết mọi thứ kể cả thuốc hút nên chúng tôi phải hành động như vậy. Và
quả thật, trước khi mang chúng tôi vào lại xà lim, trật tự Hùng đen chỉ
khám sơ sơ. Tôi và Cha Vàng đã thắng.
Nhưng vào đến xà lim,
sau khi xỏ chân vào cùm, nghĩ lại tôi mới thấy thất vọng: lửa ở đâu mà
hút. Thảo luận mãi, Cha Vàng đưa ý kiến, lấy lửa bằng phương pháp của
thời kỳ đồ đá. Tôi lại chọc vị tu sĩ Công giáo rất hùng biện này: “Bố
con mình đang ở thời kỳ đất sét mà bố nghĩ đến phương pháp của thời kỳ
đồ đá”. Cha Vàng cười: “Mày chỉ tầm xàm. Ðứng đắn đấy. Ðêm Noel mình sẽ
hút thuốc lào, bố có cách rồi”. Sau đó cha Vàng giảng giải cho tôi cách
lấy lửa “thời kỳ đồ đá”. Vị tu sĩ nói như giảng đạo: “Này nhé, con có
biết rằng nền văn minh ngày nay đến từ việc phát minh ra lửa. Lửa chế
ngự đồi sống con người khi họ thoát ra thời kỳ ăn lông ở lỗ… Con người
thời kỳ đồ đá đã biết dùng đá chọi vào nhau cho đến khi xẹt lửa. Những
tia lửa đó rớt xuống đám lá khô dễ bắt lửa và họ thổi cháy thành ngọn
lửa”. Chà Vàng nói: “chỉ cần một thanh vỏ tre và áo mục”. Tôi hỏi Cha
Vàng: “áo mục thì có sẵn, nhưng thanh vỏ tre?” Cha Vàng cười: “Bố giao
nhiệm vụ cho mày nếu bị kêu đi thẩm cung, thế nào trước Noel chúng cũng
gọi chúng ta ra tra vấn và khám xà lim, một biện pháp an ninh trước
những ngày lễ trọng…” Do kinh nghiệm, cha Vàng nói đúng. Năm ngày trước
Noel, trời có nắng, những tia nắng hiếm hoi xuyên qua cửa tò vò vào
phòng giam. Ngài vội lấy chiếc áo tù bằng vải thô vá chằng vá đụp, xé
hai mảnh nhỏ. Ngài nói: “Ðây là cái áo bố đã giặt rất sạch trước khi vào
đây, để làm con cúi lấy lửa khi cần. Xé nó ra phơi cho thật khô. Cuộn
lại cho chặt thành một cuộn bằng ngón tay cái. Dùng móng tay đánh tơi
một đầu, đánh thật tơi cho đến khi sợi vải ở đầu con cúi xuất hiện một
lớp bông. Dùng miếng vỏ tre thật mỏng luồn nó vào cái khe hẹp để gắn
quai dép lốp rồi kéo cho đến khi thanh tre nóng bỏng. Hơi nóng của bột
tre dính trên mặt bông của con cúi, lửa sẽ ngún và thổi nhè nhẹ vết lửa
sẽ loang ra, chỉ cần thổi nhẹ là lửa sẽ bật lên”.
Nghe Cha Vàng
nói tôi tưởng là ngài nói chuyện thần thoại. Nhưng do vẫn nghĩ đến phép
lạ, nên tôi nghe theo lời ngài. Tôi nghĩ đây là một trò vui và cũng là
dịp tự thử thách mình. Ðúng như dự đoán, trước Noel 1984 ba ngày, lần
lượt chúng tôi bị kêu ra ngoài thẩm cung và xà lim bị khám xét rất kỹ.
Nhưng họ vẫn không phát giác ra được mấy điếu thuốc lào và thuốc B1 tôi
giấu trong lai quần. Có lẽ do người hôi thối quá nên, anh cán bộ nào
cũng sợ mó vào quần áo tôi. Chỉ còn thanh tre mỏng. Tôi nghĩ ra một kế
nên báo cáo cán bộ cho xin một thanh tre mỏng mang vào xà lim để làm dồ
cạo lưỡi. Viên cán bộ hỏi tôi: “Lưỡi anh làm sao?” Tôi nói: “Ðóng bợn ba
năm rồi không được cạo, nên xin cán bộ”. Anh ta không nghi ngờ gì cả
nên gật đầu: “Nhưng tre ở đâu ra?” Tôi nói ngay: “Ở nhà bếp chắc có”.
Anh cán bộ gọi trật tự Hùng đen: “Xuống nhà bếp bảo họ cho tôi một vỏ
tre cạo lưỡi cho anh này”. Tôi lại gặp may lần nữa. Mấy anh em nhà bếp
tưởng làm cây cạo lưỡi cho cán bộ nên họ làm rất kỹ và tôi có một thanh
cạo lưỡi bằng vỏ tre khô dài khoảng 2 gang tay.
Sau khi trở lại
xà lim, tôi bắt đầu thực tập ngay. Tháo một quai dép lốp ra, tôi luồn
thanh tre vào và dùng hai tay kéo cưa. Thấy nóng thật, tôi ra sức kéo
mạnh. Cha Vàng vội can: “Kéo từ, thở ra hít vào đều, ít ra cũng một
tiếng đồng hồ”. Tôi lại chọc cha Vàng: “Bố ơi, mình dang ở thời kỳ đồ
đất mà kéo như thế này, chắc phải ăn 5 phần khoai mì may ra mới bù lại
được. Ðồ đất dễ vỡ lắm!” Vị linh mục cười hiền lành: “Thôi dừng có nói
nữa, anh nói nhiều xì hơi còn sức đâu mà kéo”.Trong khi tôi đánh vật với
chiếc dép và thanh tre, thì Cha Vàng móc trong tay nải lấy hai miếng
vải đã phơi khô ra và làm thành một con cúi. Ông chà một đầu con cúi
xuống sàn rồi lấy móng tay út lúc đó đã dài như móng tay của mấy bà
người Tàu bó chân, khẩy khẩy cả tiếng đồng hồ vào những thớ vải lúc đó
đã hơi bung ra. Ðến khi thấy mệt, mồ hôi ra như tắm, tôi nói với Cha
Vàng: “Con chịu thua rồi bố ơi, mệt quá”. Cha Vàng khuyến khích: “Ðừng
ngừng, tiếp tục để bố thử coi”. Tôi tiếp tục kéo. Bột tre đã văng ra có
thể nhìn thấy trên sàn. Khi Cha Vàng lựa thế đưa cúi vào thì tôi gia
tăng tốc độ. Cha Vàng reo lên: “Hơi ngún rồi tại, chưa bén than vì anh
kéo chưa đủ đô”. Quả thật tôi cũng thấy một chút khói bốc lên. Ngày hôm
sau, chúng tôi lại thử, một cuộc chạy đua tiếp sức của hai người. Ðể con
cúi vải xuống sàn, tôi và Cha Vàng thay phiên nhau kéo, từ 9 giờ sáng
cho đến hơn 11 giờ thì “phép lạ” đã đến. Ðầu con cúi bắt đầu ngún và có
khói, có nghĩa là bột tre nóng quá độ đã khiến cho lớp bông nhẹ trên con
cúi bén lửa. Một lát sau khi thấy xuất hiện những đốm hồng, Cha Vàng
thổi nhẹ nhẹ, vết lửa lan ra, trang sử của mấy ngàn năm trước được lật
lại Cha Vàng tiếp tục thổi nhẹ để nuôi dưỡng ngọn lửa. Và khi đã ngủi
thấy mùi khét của vải, ngài thổi hơi mạnh. Ngọn than hồng lan rộng ra
hơn và cuối cùng chỉ cần một hơi nhẹ, ngọn lửa bùng lên. Vị tu sĩ nhìn
con cúi vải có than hồng giống như một điếu thuốc lá mới được đốt lên,
rồi cười vang: “Mình thắng”. Ngài lục trong tay nải một miếng giấy châm
vào cúi vải, ngọn lửa lan sang đóm giấy. Xong, cha nắm chặt tay tôi giơ
lên cao như một võ sĩ được trọng tài nắm tay giơ cao sau khi đấm địch
thủ do ván.
Chúng tôi ngồi nghỉ một lát, sau đó Cha Vàng nói:
“Chúng ta đã học xong bài học lúc bố đã ngoài 50, còn con đã 33 tuổi.
Nhưng tự bố, bố thấy chúng ta xứng đáng với bài học ấy. Ðó là kiên trì
đạt mục tiêu trong hoàn cảnh khó khăn nhất”.Ðúng vào tối24-12-1984,
trước khi Cha Vàng cử hành thánh lễ nửa đêm trong xà lim số 6, chúng tôi
đã hút mỗi người một điếu thuốc lào. Hút bằng một miếng giấy cuộn tròn
như loa kèn và ngậm nước. Hút như thế, miệng mình chính là cái điếu, và
cũng có tiếng kêu, cũng chếnh choáng say như khi hút bằng điếu cày. Chỉ
có điều khác với hút thuốc lào bằng điếu cày: Sau khi hút phải nhổ nước
đi. Trong hoàn cảnh tôi và Cha Vàng lúc đó thì hơi tiếc vì chúng tôi
thiếu nước uống kinh niên.
Kể từ ngày sống cùng một xà lim với
Cha Nguyễn Văn Vàng, tôi học được nhiều điều. Trong suốt thời gian này,
ngài giảng cho tôi bộ Tân Ước. Dù tôi là một Phật tử, nhưng nghe một nhà
truyền đạo Công giáo chuyên môn giảng kinh, nên bộ Tân Ước đã củng cố
những lập luận sau này của tôi rất nhiều. Quan trọng hơn hết, đó chính
là kỷ niệm với một tu sĩ mà tôi kính trọng.
Tháng 4-1985, Cha
Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài đã quá yếu. Có lẽ ngài đã kiệt
sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Tôi đập cửa kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng
lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào khám bệnh, thì mọi
việc có vẻ quá muộn. Hai viên trụ sinh không đủ khả năng làm Cha Vàng
tỉnh lại. Vào đúng lúc cả hai chúng tôi đều cảm nhận được mùa Giáng Sinh
đã trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một nhà thờ dường
như ở cách chúng tôi xa lắm vọng về trong đêm lạnh giá và u tịch. Linh
Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời ngay trong xà lim số 6. Trước đó, dù yếu và
bệnh, ngài đã bàn với tôi là làm sao có được bánh thánh lúc ngài làm lễ
nửa đêm trong Noel 1985 mà con chiên duy nhất trước ngài lúc đó lại là
một Phật tử như tôi.
Nhưng mơ ước của Ngài không thành, kể cả
việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình
thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng sóng đỏ.
Nhưng dù
ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của tôi cho đến bây giờ, Linh Mục Nguyễn
Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải ngày nào
bỗng bùng lên soi sáng cái không gian tăm tối của tất cả những xà lim
đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.
Vũ Ánh
Oakland, CASun May 2, 2010 DHN
Posted in: Lịch sử
0 nhận xét:
Đăng nhận xét