So với những người yêu nước cùng thời, Phan Châu Trinh có một quan niệm
rất khác biệt về độc lập dân tộc. Đối với ông, độc lập dân tộc không
phải là mục tiêu duy nhất và cũng không phải là mục tiêu tiên quyết.
Giữa hai giá trị độc lập và tự do, ông nghiêng nhiều về phía tự do, hay
nói chính xác hơn, đối với ông độc lập không có ý nghĩa nếu không gắn
liền với tự do
Sở dĩ ông có cái nhìn khác người như thế là vì
ông đánh giá nguyên nhân mất nước bằng một cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt
hơn nhiều người khác. Thông thường, đối với một người yêu nước, nhìn
thấy đất nước mình bị mất chủ quyền, bị người nước khác đến đè đầu cưỡi
cổ, thì phản ứng tự nhiên là quy nguyên nhân cho bên ngoài: ta mất nước
là vì dã tâm của kẻ xâm lược. Vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, kẻ xâm
lược đó chính là nước Pháp, do đó ghét Pháp là tình cảm tự nhiên, không
cần phải lý luận dông dài. Quan điểm đó bắt nguồn từ một cách nhìn nặng
phần cảm tính, không phải là cái nhìn khách quan, khoa học. Nhưng nó
lại là một phản ứng tự nhiên, bột phát của những người dân trong một đất
nước bị lệ thuộc, kể cả giới trí thức.
Riêng đối với Phan
Châu Trinh, ông có một cách nhìn khác hẳn. Đối với ông, ta mất nước, ta
yếu hèn thì chỉ có 50% là do người khác, còn 50% là do bởi chính ta:
Huống ta ở dưới tay người Pháp,
Sáu mươi năm thấm thoát đã qua.
Lỗi lầm cũng nửa bởi ta,
Cạn suy vụng tính, hóa ra lỡ làng. (1)
Nói cách khác, ta mất nước, ta yếu hèn không phải chỉ do lòng tham hoặc
do ác tâm của nước khác, mà trước hết là do ta yếu, ta hèn. Trong cuộc
cạnh tranh ác liệt vào nửa cuối thế kỷ 19, một quốc gia yếu hèn đương
nhiên sẽ rơi vào tay một quốc gia hùng mạnh khác. Vì vậy, để có thể giải
quyết vấn đề tận gốc, trước hết phải chữa căn bệnh trong chính bản thân
ta. Muốn chữa được căn bệnh yếu hèn, phải giải đáp được câu hỏi : tại
sao các nước phương Tây lại mạnh lên và tại sao các nước phương Đông lại
trở nên hèn yếu? Độc lập dân tộc chỉ có ý nghĩa khi căn bệnh yếu hèn
được chữa khỏi, khi dân tộc đủ sức vươn vai đua chen cùng các dân tộc
khác. Nếu không, chủ trương “độc lập bằng mọi giá” sẽ dẫn đến tình trạng
dân tộc giành được độc lập rồi mà vẫn phải tiếp tục sống trong cảnh
nghèo nàn, lạc hậu, giành được địa vị giữa chính trường quốc tế mà vẫn
phải ngửa tay xin tiền một cách không biết nhục. Đó chính là tình trạng
của hàng loạt quốc gia Á, Phi, Mỹ la-tinh ngày nay, sau hàng chục năm
độc lập vẫn tìm cách biện minh cho sự yếu kém trong quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế bằng cách đổ trách nhiệm về tình trạng đói nghèo cho
thực dân, đế quốc mặc dù “quân xâm lược” chỉ còn là hình bóng của quá
khứ.
Hiểu được quan niệm về độc lập và tự do của Phan Châu
Trinh, chúng ta mới có thể hiểu được mối bất đồng sâu sắc giữa Phan Châu
Trinh và Phan Bội Châu vào đầu thế kỷ trước. Trong cuốn Phan Bội Châu
niên biểu (còn gọi là Tự phán), Phan Bội Châu kể lại việc Phan Châu
Trinh đến thăm Nhật vào tháng 4 âm lịch (tức tháng 5 dương lịch) năm
1906 như sau:
Hồi tôi lên Đông Kinh, cụ Tây Hồ cùng đi với tôi. Cụ
với tôi thăm các học đường và khảo sát những công việc chính trị giáo
dục của Nhật Bản. Cụ bảo tôi rằng:
“Trình độ quốc dân Nhật Bản
như thế, mà trình độ quốc dân ta thì như thế, không nô lệ làm sao được!
Được bấy nhiêu học sinh vào nhà học Nhật Bản là sự nghiệp rất lớn của
ông đó. Từ nay nên lưu Đông yên nghỉ, hết sức chăm chỉ ở việc làm sách
và bất tất nói chuyện bài Pháp làm gì, chỉ nên đề xướng dân quyền. Dân
đã biết có quyền, thì việc khác đều có thể tính làm được”.
Từ
đó luôn mười ngày, tôi với cụ tráo trở bàn bạc, ý kiến rất trái nhau. Cụ
thì muốn đánh đổ quân chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân quyền, dựa
vào Pháp mà đánh đổ quân chủ. Còn ý tôi thì trước muốn đánh đổ người
Pháp, chờ nước mình độc lập rồi, mới bàn đến việc gì khác. Vì thế, mà
đương lúc đánh với Pháp, phải lợi dụng quân chủ. Chính kiến của hai
người rất phản đối nhau. Bởi vì cụ với tôi vẫn cùng một mục đích, mà thủ
đoạn thì khác nhau xa. Cụ thì muốn đi theo lối dựa Pháp đánh đổ vua,
tôi ưng theo lối bài Pháp phục Việt, sở dĩ mâu thuẫn với nhau là vì thế.
Tuy nhiên, chính kiến vẫn trái nhau, mà ý khí lại rất ưa
nhau, cụ với tôi kề gối chung giường, ước non một tháng thì cụ muốn về
nước. (2)
Như vậy, sự khác nhau căn bản là ở chỗ theo Phan Châu
Trinh, trước hết phải “nên đề xướng dân quyền; dân đã biết có quyền, thì
việc khác đều có thể tính làm được.” Ngược lại, Phan Bội Châu thì
“trước muốn đánh đổ người Pháp, chờ nước mình độc lập rồi, mới bàn đến
việc gì khác.” (3)
Sau khi từ Nhật trở về, Phan Châu Trinh và
một số đồng chí bắt đầu cuộc vận động văn hóa –chính trị mà các nhà sử
học thường gọi là Phong trào Duy tân (nói theo ngôn ngữ thời nay là
“phong trào đổi mới”). Thấy ảnh hưởng và uy tín của nhóm Quảng Nam ngày
càng lên cao, lo sợ nhiều người yêu nước sẽ ngả theo hướng này, Phan Bội
Châu đã viết một lá thư cho Phan Châu Trinh, trong đó có ý can ngăn
việc đề xướng thuyết dân chủ, bởi vì:
… quốc dân ta ngày nay
còn đang măng sữa, khác nào còn ở giai đoạn phôi thai. Răng đứa trẻ con
chưa chắc mà đã đút xương bắt nhai; chân đi chưa vững mà lấy roi vọt
khua bắt chạy, làm thế nào mà nó không hóc, không què, thì thiệt là vô
lí! Trình độ quốc dân ta còn kém hẳn người Âu. (…) Bây giờ vội vã đề
xướng một học thuyết không đầu không đuôi, đưa người đến giữa ngã ba,
ngã bẩy, tiếng đó la lên, rồi đây sẽ được mấy người tán thành? Thế rồi
những kẻ tài năng có thể gánh vác công việc, trí khôn có thể tập hợp anh
em, sẽ do sự bất đồng ý kiến đó mà mâu thuẫn cùng nhau. Kẻ thù bên
ngoài chưa diệt được mà trong nội bộ Đảng đã chia rẽ… Dân không còn nữa,
mà chủ với ai ? Khi đó thì dầu Huynh ông có bầu máu nóng đến mấy đi
nữa, rồi chả biết rưới vào đâu nữa đâu ! (4)
Mãi cho đến ngày nay,
vẫn còn rất nhiều trí thức – trong đó có cả những nhà sử học, dựa vào ý
kiến này để phê phán Phan Châu Trinh. Nội dung của lập luận này là: dân
không còn, nước không còn, lấy gì để nói đến dân chủ?
Tự do có trước, độc lập có sau
Thực ra, nếu chịu khó nghiên cứu lịch sử của nhiều quốc gia khác và bớt
đi cái nhìn thành kiến đối với những nhà yêu nước chủ trương giành độc
lập bằng con đường đấu tranh chính trị ôn hòa, chúng ta sẽ thấy rằng lời
phê bình của Phan Bội Châu đối với Phan Châu Trinh là một lời phê bình
không xác đáng, và cách đánh giá của hậu thế đối với Phan Châu Trinh là
không công bằng.
Trước hết, khi một quốc gia mất độc lập thì
chủ quyền của nước đó không còn nhưng không thể nói là dân không còn.
Nói một cách cụ thể, vào cuối thế kỷ 19, khi Việt Nam bị rơi vào tay
thực dân Pháp thì vương quyền của triều Nguyễn không còn (vua không còn)
hay chỉ còn là hư vị (vua bù nhìn) nhưng không thể nói là “dân không
còn”. Hai là : trong một nước mất độc lập, người ta vẫn có thể xây dựng
dân chủ, bởi vì dân chủ là một thể chế được xây dựng dần từ thấp đến
cao, không thể một sớm một chiều có được một cách trọn vẹn, hoàn chỉnh.
Hơn thế nữa, một dân tộc vẫn có thể đạt đến một trình độ dân chủ nhất
định trước khi giành được độc lập trọn vẹn.
Ở đây tôi chỉ nêu hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất là Na Uy. Sau khi Napoleon thất trận tại Leipzig,
Đan Mạch (đồng minh của Napoleon) phải ký hiệp ước Kiel (tháng 1 năm
1814) đồng ý giao Na Uy cho Thụy Điển. Người Na Uy đã nhân cơ hội này
mưu toan giành độc lập bằng cách triệu tập một Quốc hội tại Eidsvoll và
thông qua một bản hiến pháp. Bị Thụy Điển khuất phục bằng một chiến dịch
chớp nhoáng kéo dài 14 ngày, người Na Uy đành phải chấp nhận gia nhập
vào một Liên hiệp Vương quốc mới : Liên hiệp Thụy Điển – Na Uy, trong đó
quyền lực tối cao thuộc về Thụy Điển. Họ đành chịu mất quyền ngoại giao
và quốc phòng vào tay người Thụy Điển, nhưng quyết tâm giữ vững thành
quả dân chủ vừa đạt được trong khuôn khổ một chế độ tự trị. Trong gần
một thế kỷ, người Na Uy đã nhẫn nhục xây dựng chính quyền của họ thành
một chính quyền dân chủ vững mạnh trước khi tiến hành giành độc lập hoàn
toàn. Trong thực tế, mãi đến năm 1905 Na Uy mới giành được độc lập trọn
vẹn, nhưng chế độ đại nghị ở đây đã được xác lập vào năm 1884 và được
mở rộng cho các giai cấp, tầng lớp dân cư trong những thập niên cuối thế
kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Các nhà sử học đánh giá rằng chế độ đại nghị đã
hình thành và phát triển tại Na Uy sớm hơn so với hai nước độc lập trong
vùng là Đan Mạch và Thụy Điển.
Như vậy là trong gần một thế
kỷ, các giai cấp và tầng lớp ở Na Uy một mặt đấu tranh với nhau về mặt
quyền lợi, nhưng vẫn đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh giành độc
lập. Nói cách khác, cuộc đấu tranh giành độc lập ở Na Uy gắn liền với sự
nghiệp xây dựng chế độ dân chủ.
Trường hợp thứ hai là Ấn Độ.
Đảng Quốc Đại (Indian National Congress, hay còn gọi là Congress Party)
được thành lập từ năm 1885 với mục tiêu mang tính « cải lương » là đấu
tranh để những trí thức Ấn đã được hưởng một nền học vấn kiểu Tây phương
giành được địa vị xứng đáng trong bộ máy chính quyền thuộc địa. Chính
Allan Octavian Hume, một công chức người Anh, đã tổ chức phiên họp đầu
tiên của đảng tại Bombay, với sự đồng ý của Huân tước Dufferin, phó
vương tại Ấn Độ vào thời đó. Thay vì tẩy chay, nhiều nhà yêu nước tại Ấn
Độ đã tham gia vào tổ chức chính trị mang tính chất « cải lương », «
xôi thịt » đó và từng bước biến đổi nó thành một môi trường hoạt động
chính trị công khai, hợp pháp.
Vào thời kỳ đầu, đảng Quốc Đại
chưa đặt vấn đề về sự hiện diện của người Anh trên đất nước Ấn Độ. Mãi
về sau, do tác động của các nhà yêu nước, đòi hỏi của đảng ngày càng trở
nên cấp tiến hơn và đảng trở thành tổ chức đóng vai trò chủ chốt trong
cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong quá trình đấu tranh, mục tiêu được
đặt ra đầu tiên là tự trị, mãi đến giai đoạn sau yêu cầu độc lập mới
được đặt ra. Mặt khác, trong từng giai đoạn, Đảng Quốc đại đã chấp nhận
tham gia tranh cử vào các cơ quan lập pháp ở địa phương để đạt được
những thắng lợi từng phần. Chính đường lối đấu tranh này đã góp phần
thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, và những mầm mống của chế độ dân chủ sau
này đã hình thành ngay trong thời kỳ Ấn Độ chưa giành được độc lập.
Khi có độc lập mà không có tự do
Lịch sử của thế kỷ 20 đã cho thấy có rất nhiều quốc gia rơi vào tình
trạng có độc lập mà không có tự do. Một số tổ chức chính trị trong quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc đã ra sức kêu gọi người dân hy
sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi chung của Tổ quốc, nhưng sau khi
giành được độc lập lại không cho phép người dân được hưởng các quyền tự
do căn bản. Họ tiếp tục bắt buộc người dân hy sinh quyền lợi riêng để
phục vụ cho quyền lợi của « Tổ quốc », nhưng lúc này Tổ quốc đã bị đánh
tráo, nghĩa là bị đồng hóa với một dòng họ, một đẳng cấp hay một đảng
phái chính trị. Thực chất của chủ nghĩa yêu nước giả hiệu đó là từ chối
tự do, nhân quyền, từ chối chế độ dân chủ để thiết lập những hình thức
độc tài kiểu mới nhân danh dân tộc, nhân danh Tổ quốc. Trong những chế
độ đó, một thiểu số có đặc quyền, đặc lợi được hưởng mọi thứ tự do – kể
cả tự do tham nhũng mà không bị pháp luật trừng trị, trong khi « tự do »
trở thành một thứ xa xỉ phẩm đối với tuyệt đại đa số người dân.
Và để ngăn cản cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ, các chế độ độc tài
kiểu mới đó đã ra sức rao giảng, quảng bá những thứ chủ nghĩa bài ngoại
đội lốt chủ nghĩa dân tộc hay « chủ nghĩa phương Đông » trong đó các giá
trị tự do, dân chủ được gắn liền với nền văn minh phương Tây. Họ lập
luận rằng văn minh phương Tây là nguồn gốc của chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa đế quốc, cho nên tự do, nhân quyền là món « hàng xuất khẩu » của
phương Tây không thể đem áp dụng vào các nước chậm phát triển. Như vậy,
tự do, dân chủ đáng lẽ là mục tiêu phấn đấu để một khi dân tộc được giải
phóng thì từng thành viên của dân tộc cũng phải được hưởng tự do, nay
bỗng dưng lại biến thành hàng quốc cấm.
Trong số các đảng phái
chính trị chủ trương « độc lập không-tự do », có Đảng cộng sản Việt
Nam. Mặc dù cũng nói đến hai chữ “tự do”, nhưng khi đề cập đến nội dung
của khái niệm này, các nhà lãnh đạo của Đảng lại giải thích nó chẳng
khác gì hai chữ ”độc lập”. Dựa trên hệ tư tưởng Marx-Lenin, các nhà lý
luận chính thống coi tự do, nhân quyền là các giá trị gắn liền với giai
cấp tư sản, với chủ nghĩa tư bản, với thực dân đế quốc. Họ rao giảng một
thứ chủ nghĩa tập thể nhằm thủ tiêu các quyền tự do, bởi vì các quyền
tự do căn bản (được gọi chung là nhân quyền) thực chất là quyền của cá
nhân. Tệ hại hơn nữa, bộ máy “chuyên chính” còn tìm cách gán ghép cuộc
đấu tranh cho tự do, nhân quyền với âm mưu của các thế lực phản động bên
ngoài nhằm phá hoại độc lập dân tộc, xâm phạm chủ quyền của quốc gia.
Trong hơn nửa thế kỷ ở miền Bắc và hơn ba thập niên trên quy mô cả
nước, Đảng cộng sản đã thành công phần nào trong việc làm rối loạn các
giá trị tinh thần, đổi trắng thay đen, khiến cho rất nhiều người mơ hồ,
lẫn lộn, coi tự do, nhân quyền chỉ là chiêu bài của các nước phương Tây
nhằm che đậy âm mưu can thiệp vào nội bộ đất nước mình. Rất nhiều người
thuộc các thế hệ sinh sau, đẻ muộn đã không biết được rằng: người đầu
tiên coi tự do là giá trị ưu tiên so với độc lập, người đầu tiên chủ
trương thực hiện dân quyền (tức nhân quyền) để làm cho đất nước Việt Nam
được cường thịnh không phải là một người phương Tây hay một người Việt «
tay sai » của thực dân hay đế quốc mà là một người Việt yêu nước đã
từng bị thực dân Pháp bỏ tù đến hai lần, một lần thông qua triều đình
Huế và một lần thông qua bộ máy chính quyền ngay tại chính quốc.
Trong bản thảo bài trường thi « Tỉnh quốc hồn ca II », Phan Châu Trinh viết:
Cuộc đời là cuộc đôi co,
Công quyền là thánh, tự do là thần. (5)
Diễn giải theo ngôn ngữ thời nay, hai câu thơ trên đây có nghĩa là :
trong cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia trong xã hội hiện đại, mỗi dân
tộc muốn giành thắng lợi phải đề cao hai nguyên tắc : công quyền và tự
do. Nói công quyền có nghĩa là : quyền lực chính trị là của chung, Nhà
nước là của toàn dân, tức là nói đến chế độ dân chủ - một chế độ trong
đó quyền lực chính trị không là tài sản riêng của bất cứ cá nhân, phe
nhóm, đảng phái nào. Nói tự do có nghĩa là : tất cả mọi người - không
phân biệt chủng tộc, chính kiến, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, đều phải
được hưởng các quyền tự do căn bản mà chúng ta thường gọi là quyền con
người (nhân quyền). Mỗi quốc gia muốn trở thành cường thịnh để không bị
thua thiệt mỗi khi bước vào “cuộc đôi co”, phải xây dựng chế độ dân chủ
và tạo điều kiện cho người dân được hưởng các quyền tự do căn bản. Điều
đó là chân lý đối với tất cả các quốc gia, nhưng đối với một quốc gia
nhỏ bé nằm bên cạnh một cường quốc chưa lúc nào từ bỏ chủ nghĩa dân tộc
nước lớn (chauvinism) lại càng phải tâm đắc hơn với bài học đó.
Những sự thật đã dần dần được phơi bày kể từ cuối thế kỷ 20 cho đến nay
lại càng chứng minh cho mối quan hệ gắn bó giữa độc lập và tự do: một
khi nhân dân không được hưởng tự do thì nền độc lập dân tộc cũng không
thể được bảo vệ vẹn toàn. Do say sưa bởi quyền lực chính trị, một thứ
quyền lực không giới hạn và được sử dụng một cách tùy tiện, do coi
thường nhân dân và không dựa vào nhân dân, Đảng cộng sản Việt Nam đã
đánh rơi ngọn cờ dân tộc trước sự uy hiếp của Đảng cộng sản Trung Quốc -
một đảng luôn luôn coi việc giành từng tấc đất, từng mét vuông lãnh
hải, hoặc từng hải đảo xa xôi của các nước láng giềng như một thành tích
của công cuộc “xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”. Thái
độ nhu nhược của các cấp có thẩm quyền ở nước ta trước hành động ngang
ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc chứng minh một điều: chỉ khi nào tự
do được thực hiện thì độc lập dân tộc mới vẹn toàn, bởi vì lúc đó công
cuộc bảo vệ đất nước sẽ trở thành sự nghiệp chung của toàn dân, tạo điều
kiện cho sức mạnh dân tộc được phát huy trọn vẹn. Một chính quyền mà
chỗ dựa của nó chỉ là một tầng lớp đặc quyền đặc lợi, chỉ tồn tại nhờ
vào sự sợ hãi, phục tùng của người dân thì dù có binh hùng tướng mạnh
đến đâu cũng không thể bảo vệ được đất nước một cách hiệu quả, vì nó chỉ
có thể hùng hổ, dọa nạt người dân thấp cổ bé họng chứ không thể đương
đầu với một chính quyền ngoại quốc có tiềm lực kinh tế và lực lượng quân
sự lớn mạnh hơn nhiều lần.
Chưa bao giờ độc lập và tự do gắn
bó với nhau như lúc này. Đối với một quốc gia nhỏ bé sống cạnh một cường
quốc mang đầy dã tâm, chỉ có một chế độ thật sự dân chủ mới có thể huy
động hết sức dân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Những người đấu tranh cho tự do, nhân quyền, dân chủ ở Việt Nam hiện
nay luôn luôn có thể tự hào về sự nghiệp của mình. Bởi vì họ có được một
vị tiền bối như Phan Châu Trinh, một người suốt đời xả thân cho tự do
và dân chủ, suốt đời hy sinh cho một nền độc lập chân chính trong đó mỗi
công dân, mỗi thành viên của xã hội đều được hưởng các quyền tự do căn
bản. Đó cũng là một người tù chính trị đấu tranh cho sự giải phóng tất
cả các tù nhân chính trị khác, một người suốt đời nuôi ước vọng về một
nước Việt Nam không còn nhà tù chính trị - ước vọng mà mãi cho đến nay,
vẫn chưa trở thành hiện thực.
Đà Lạt 20.10.2008
MAI THÁI LĨNH
______________________________
(1) “Tỉnh quốc hồn ca II”, câu 425-428; Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập
Phan Châu Trinh, in lần thứ hai, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006, tr.365.
(2) Phan Bội Châu, Toàn tập, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây - Nxb
Thuận Hóa, 2001, tập 6, trang 158-159. Bản dịch từ nguyên bản chữ Hán
sang chữ quốc ngữ do chính Phan Bội Châu thực hiện. Ở đây tác giả dùng
chữ “thủ đoạn” với cùng ý nghĩa như chữ “sách lược” mà hiện nay ta quen
dùng.
(3) Riêng về chủ trương “dựa Pháp” (ỷ Pháp) của Phan
Châu Trinh, một chủ trương đã bị hiểu lầm hay xuyên tạc bởi rất nhiều
người, tôi sẽ bàn đến trong một dịp khác.
(4) Phan Bội Châu, Toàn tập, sđd, tập 2, trang 272.
(5) “Tỉnh quốc hồn ca II”, câu 347-348; Nguyễn Văn Dương, sđd, tr.360.
Posted in: Chính trị - Văn hóa,Tư tưởng - Triết học
0 nhận xét:
Đăng nhận xét