Bài liên quan:
Nếu như mà đường sắt dài muôn dặm làm
rồi thì công việc buôn bán, trong chốc lát có thể tập trung đầy đủ được;
từ các đô thị thôn ấp lớn có thể nối liền và đi tới khắp mọi nơi nhanh
chóng. Ngồi ung dung nơi lầu chạm chiếu hoa mà có hiệu quả như vượt núi
qua sông, thật sung sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu không
chịu khó nhọc kinh doanh, xây đắp thì thành sao được? Bây giờ nói đến
những việc phải khó nhọc gian nan như thế sao lại chùn tay lè lưỡi? Vì
chưa biết rằng sau khi đường sắt làm rồi là sướng đó thôi!
Nếu như mà lầu cao muôn trượng xây rồi
thì sao trời, trăng biển bên cửa sổ ngắm như ở trong bàn tay, khí mát
gió trong vờn quanh dưới gót. Ngạo nghễ nơi cửa cao ghế đá mà nhìn thấy
được ba đảo năm châu, sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu
không chịu phí tổn, trù hoạch, khó nhọc thì thành sao được? Bây giờ nói
đến việc làm những công trình lớn lao như thế sao lại cúi đầu thất sắc?
Vì chưa biết rằng sau khi lầu cao đá xây rồi là sướng đó thôi! Biết sau
này có sự ngọt bùi khôn cùng, thì cái cay đắng hôm nay phải chịu đựng
chỉ là cái điểm tiến tới cái ngọt bùi đó, ta nguyện nếm cái cay đắng ấy.
Biết sau này có sự vui mừng khôn cùng thì cái gian lao hôm nay là cái
cơ sở dẫn đến sự vui mừng đó, ta nguyện nhận cái gian lao ấy. Biết sau
này có cái sự lợi khôn cùng thì cái phí tổn hôm nay là cái vật gốc dẫn
đến cái lợi đó, ta nguyện dùng những phí tổn ấy.
Bây giờ tôi xin nói cùng với đồng bào
rằng: muốn tạo dựng được một nước Việt Nam mới có đường sắt muôn dặm và
nhà cao muôn trượng như thế thì tất phải nếm chịu những cay đắng như
vậy, nhận sự gian lao như vậy, và tất cả những phí tổn như vậy. Đồng bào
ta há sợ cực khổ lắm sao? Nếu quả có thế là vì chưa biết rằng nước Việt
Nam ta sau khi đã duy tân rồi là rất sướng, rất vui và có lợi không
lường hết được đó thôi.
Bây giờ tôi xin thưa với đồng bào rằng: nước Việt Nam mới có 10 điều sung sướng lớn như sau:
- Không có cường quốc nào bảo hộ
- Không có bọn quan lại hại dân
- Không có người dân nào mà không được thỏa nguyện
- Không có người lính nào mà không được vinh hiển
- Không có loại thuế nào mà không công bằng
- Không có hình pháp nào mà không thỏa đáng
- Không có sự giáo dục nào mà không hoàn thiện
- Không có nguồn địa lợi nào mà không được khai thác
- Không có ngành công nghệ nào mà không phát đạt
- Không có ngành thương nghiệp nào mà không được mở mang.
Diện tích nước ta có 25 vạn dặm vuông Anh, không phải là rộng sao? Dân số nước ta hơn 50 triệu tráng đinh [1]
không phải là đông sao? Đất đai mầu mỡ phì nhiêu, sản vật dồi dào, non
sông tươi đẹp, nếu đem so sánh với các nước mạnh trong năm châu không
thua kém mấy ai. Thế thì sao ta lại cam chịu để cho nước Pháp bảo hộ?
Than ôi! Căn tính nô lệ đã ăn sâu, thói ỷ lại quá nặng rồi! Mấy ngàn năm
cam bề nội thuộc các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh[2]
xưng tôi tớ không còn có khí người. Giặc Pháp gian giảo, khinh ta yếu,
dối ta ngu, thừa lúc con sư tử đương ngủ say mà nghiễm nhiên lấn át chủ
nhà, giầy xéo con em ta, bắt cha anh ta làm kiếp trâu ngựa, lấy thành
trì nước ta làm sào huyệt của chúng, moi hút máu mỡ dân ta. Thế mà chúng
lại còn dám ngạo mạn công bố với thế giới rằng: nước Pháp là nước thống
trị cõi Đông Dương. Chao ôi! Đồng bào ta ôi! Nước ta là nước ta, dân ta
là dân ta, nước Pháp-lan-tây có gì ở đây mà trái lại chúng lại còn bảo
hộ nước ta?
Từ khi người Pháp bảo hộ cho đến bây
giờ, chúng nắm giữ hết thảy mọi quyền trong tay, muốn làm sống, làm chết
ai cũng được. Tính mạng của muôn người nước Nam chẳng bằng một con chó
Tây. Kìa những người mắt biếc xanh, râu sắc hồng, bay chẳng phải là cha
anh ta, chẳng phải là thầy dạy của ta mà sao lại ngồi chồm chỗm, ỉa đái
trên đầu ta? Đường đường các bậc nam nhi của nước Nam lẽ nào lại không
biết xấu hổ, nhục nhã, phẫn uất giết bọn giặc được hay sao? Thân ta hãy
còn thề phải dẹp bằng lớp sóng biển lớn, quyết giết chết bọn giặc ấy, để
tỏ rõ khí tiết giống da vàng.
Khi đã duy tân rồi, tư
cách nội trị do ta sắp đạt, quyền lợi ngoại giao tự ta nắm giữ. Sự
nghiệp văn minh ngày càng tiến bộ, phạm vi thế lực ngày một mở mang. Ta
sẽ có 300 vạn lục quân mạnh như cọp ngó nhìn bốn cõi; 50 vạn thủy quân
dữ như cá kình thét trong biển lớn. Rồi ta phái các công sứ đi tới các
nước mạnh ở Châu Âu, Châu Mỹ. Các nước mạnh như Nhật, Mỹ, Đức, Anh đều
liên kết với nước Việt Nam ta, coi ta là đồng minh bậc nhất. Các nước
Tiêm La [3],
Ấn Độ và các nước ở quần đảo Nam Dương đều tôn nước ta làm minh chủ.
Nước lớn nhất ở Châu Á là Trung Quốc cũng sẽ là nước anh em thân thiết
với ta. Nước thù cũ của ta là nước Pháp-lan-tây cũng phải sợ ta, nghe
theo ta và nguyện nhận sự bảo hộ của ta. Cờ nước Việt Nam ta phần phật,
bay trên nóc thành Ba Lê và dung mạo nước ta lừng lẫy chói lọi ở hoàn
cầu. Đến lúc ấy, người Việt Nam ta chỉ sợ không rảnh mà bảo hộ cho nước
khác, lại sợ không dư sức lấy con gái nước Pháp, và sự nhục nhã vì người
khác bảo hộ trước đây như là một phương thuốc hay để hoàn thành công
việc duy tân đó mà thôi.
Đài kỉ niệm xây cao, muôn ngọn đuốc dẫn
đường trong đêm tối. Gió tự do thổi mạnh, một luồng vui thấu tận trời
xanh. Chúng ta ưu thắng đến thế, sung sướng biết chừng nào! Cái nọc độc
hàng nghìn năm nay của bọn chuyên chế hại dân ấp ủ từ bên nước Thanh
nhiễm sang nước ta để mà một tên độc phu [4] khống chế vài vạn kẻ dung nhân [5]
làm cá thịt ức vạn dân ta. Rồi vài vạn tên dung phu lại thờ phụng một
tên độc phu làm cá thịt ức vạn dân ta. Thế mà dân ta ngu muội không biết
giành lấy dân quyền, không biết giữ lấy quốc mệnh, chỉ ngày đêm đem hết
máu mỡ khô kiệt của mình cung đốn cho bọn độc phu và dung nhân uống
nuốt. Than ôi! Thật đáng thương thay!
Khi đã duy tân rồi thì
dân trí sẽ mở mang nhiều, dân khí sẽ lớn mạnh hơn, dân quyền tất phải
phát đạt lớn; vận mệnh nước ta tất do toàn dân nắm giữ. Thủ đô nước ta
đặt một tòa nghị viện lớn, tất cả những việc chính sự đều do công chúng
quyết định. Thượng Nghị viện tất phải đợi Trung Nghị viện đồng ý. Trung
Nghị viện tất phải đợi Hạ Nghị viện đồng ý. Hạ Nghị viện là nơi đa số
công chúng có quyền phê chuẩn công việc của Thượng Nghị viện và Trung
Nghị viện. Phàm đã là người dân nước ta, không kể sang hèn, giầu nghèo,
lớn bé đều có nghĩa vụ bỏ phiếu bầu cử. Vua nên để hay nên phế, quan lại
nên truất hay nên thăng, dân ta đều có quyền quyết định cả. Tất cả
những tên vua bạo ngược, quan lại ô trọc không hợp với công đạo thì dân
ta khi khai họp trong nghị viện cùng nhau bàn bạc quyết định thi hành
trừng phạt chúng theo hiến pháp. Đến lúc ấy, bọn quan lại hại dân tất bị
chôn vùi tiệt nọc mãi mãi không còn trên trời đất nữa. Đến lúc ấy,
người nước ta chỉ ca múa thái bình, ngậm cơm vỗ bụng mà thôi. Ngẩng đầu
thấy mặt trời, tiếng ca vui muôn năm còn vọng mãi: tiếng vỗ tay như sấm,
điệu múa hay nghìn thu vẫn còn khen. Chúng ta vinh thịnh đến thế, sướng
biết chừng nào!
Người Pháp cướp nước ta, khóa kín miệng
ta, trói buộc chân tay ta, bịt kín tai mắt ta. Những việc như xuất bản,
sách báo, hội họp luận bàn không kể ngày đêm, không kể đông hay ít, lớn
hay nhỏ đều bị người Pháp áp chế ngặt nghèo. Người Pháp mà tức giận bắt
ta phải coi cha làm thù; người Pháp mà ưa thích đặt chó làm vua cũng
phải chịu. Ngay đến họ vua, nhà quan, kẻ giầu người giỏi nếu không được
giấy của người Pháp cấp cho thì một bước cũng chẳng dám ra khỏi cửa.
Không được người Pháp cấp thuế bài thì chủ nhà cũng giống như trộm cướp.
Kìa những con chó Tây, ngựa Tây, vợ Tây và những kẻ bồi Tây thung dung
tự do muốn nạt ai thì nạt theo ý mình so với người nước ta thật là khác
biệt nhau như thiên đường, địa ngục. bất bình đẳng đến như thế, không
công đạo đến như thế, hỏi nỗi oan khuất trong thế giới này còn có đâu
hơn thế nữa hay không? Lẽ nào ta lại ngồi yên, không dám đứng lên mà réo
muôn tiếng chuông độc lập. Đè nén cong nhiều tất phải bật thẳng, phải
bẻ gãy vòng cường quyền áp chế mới thôi.
Khi đã duy tân rồi thì
uy quyền nước ta, ta nắm trong tay; cái đạo của ta, ta cân nhắc. Nền văn
minh rạng rỡ khắp nơi. Cửa tự do rộng mở không cùng, báo chí đầy đường,
sách mới đầy ngõ. Người dân nghèo tha hồ kiện tụng, tiếng nói vang lên
như sấm; kẻ văn sĩ được thả bút luận bàn chính sự. Bao nhiêu ẩn tình của
chú phu xe, của người lính ngựa, của người mẹ góa, của đứa con côi, hết
thảy đều đạt tới tai vua. Đến khi ấy, người nước ta yêu mến nước ta như
biển lớn vô bờ mắt thu khó hết, lạ vì trời xanh sao quá thấp như chạm
vào đầu. Chúng ta vẻ vang đến thế, sướng biết chừng nào!
Người nước ta khi chưa duy tân, thói dã
man nhiễm đã quá thịnh, chí tiến thủ đã mất đi, tôn hư văn làm thánh làm
thần, coi thực nghiệp như cỏ như rác. Từ vua cho đến quan lại xem tướng
tá như con vật bỏ đi, coi ba quân khác chi chó dại, xem võ quan như vật
để sai khiến chà đạp. Dân ta thì kiến thức ấu trĩ, tai mắt ngu tối,
thấy người trên bỉ bác thì dưới xóm thôn cũng khinh rẻ. Khi sống làm
lính chạy trước ngựa, bỏ xương chốn sa trường, khi chết làm quỷ ở ven
đường, vùi danh nơi hoang vắng. Làm người lính đã vất vả nghèo hèn, phải
chịu tiếng vô phúc như thế thật đáng thương thay! Đáng chán lắm thay!
Đã đáng thương, đáng chán như thế thì ai muốn đi lính nữa, mà không ai
muốn đi lính thì lấy ai ra giữ nước? Đến khi nước mất biết để lỗi cho
ai? Than ôi! Vận mệnh một nước phần nhiều gửi gắm, trông mong ở ba quân,
người lính tức là nước nhà ta vậy. người lính bị khinh rẻ đến thế, hỏi
nước nhà còn tồn tại được không? Xe trước đổ gương còn soi đó, gọi to
hồn người ném đá bắn tên [6];
tương lai kia hãy còn dài, đánh tiếng trống làm khí thiêng sông núi.
Người lính ơi, người lính! Xin hãy xem từ nay về sau mình sẽ thế nào.
Khi đã duy tân rồi thì
võ quan một đường, vua dân một thể. Nước nhà trông cậy và người lính bảo
vệ, người lính được kính trọng vô cùng. Tôi cùng đồng bào cả nước đều
biết rằng, nước là nước chung của tất cả mọi người thì ai ai cũng phải
có trách nhiệm giữ gìn đất nước. Mọi người đều có trách nhiệm giữ nước
thì ai ai cũng phải có nghĩa vụ vào lính. Mọi người có nghĩa vụ vào lính
thì ai ai cũng phải có tấm lòng trọng người lính. Trong nước từ trên
xuống dưới, từ trong ra ngoài đã là có tai có mắt, không ai là không chú
trọng tới người lính. Có bút mà viết, có lưỡi để nói, không thể nào nói
hết, viết hết về cái hay của người lính. Người lính khi sống làm cho
quốc sĩ được mở mày, gây oai hùng trong thế giới, đến khi chết làm quốc
linh, hồn phách mãi mãi trường tồn với núi sông. Người trong nước đem
máu thịt của mình mà sùng phụng những người chết vì Tổ quốc là người
lính, vua trong nước lên tận đàn tế mà bái chúc những người hi sinh vì
Tổ quốc là người lính (ở Đông Kinh nước Nhật Bản có lập một đàn tế gọi
là “Tịnh quốc Thần xã” để tế những người lính tử trận, mỗi năm hai kì
Thiên Hoàng phải thân hành đến tế lễ ở đàn ấy. Sau khi duy tân rổi ta
cũng sẽ lễ theo cách đó). Kho tiền công, kho chứa lúa của Nhà nước phải
được dùng đề nuôi nấng vợ con người lính chết trận. Triều đình và xã hội
phải bảo toàn, lo lắng đến gia đình, họ hàng những người lính chết
trận. Tượng đồng nguy nga ngất trời dành riêng để đúc chân dung người
lính: mộ đá nhấp nhô trên mặt đất để dành đắp cho nơi yên nghỉ của người
lính. Người lính ơi! Người lính! Vinh hiển trong nước thực chẳng ai
bằng, danh dự muôn đời thực chẳng hề phai. Lúc bấy giờ, người nước ta
chỉ có mở mắt mà ngắm trời đất, khen ông cha ta trước từng làm người
lính mở đường, quay lại nhìn thôn xóm mới buồn rằng mình phải chết già
dưới cửa sổ thật là như kẻ vô duyên vậy. Chúng ta hoan hỉ đến thế, sướng
biết chừng nào.
Các triều đại vua trước ở nước ta, thu thuế của dân có phần khoan nhẹ, nhưng chưa thoát khỏi chế độ chính trị dã man như:
- Một là tệ quan lại tham lam gian trá
- Hai là tệ cường hào tàn ác hách dịch
- Ba là tệ hương lí lộng hành.
Trăm mối phiền nhiễu, dân không chịu
nổi. Nhưng dù sao vẫn còn nhân đạo ít nhiều. Đến như người Pháp hiện nay
thì coi dân ta như súc vật, trâu ngựa để buôn bán mà thôi. Xin hỏi các
bậc cha anh, chú bác, con em dòng họ nước ta rằng: giặc Pháp thu dân ta
mỗi người một năm phải nạp thuế công sưu hoặc 2 đồng, 3 đồng hoặc 4, 5
đồng thì so với một con trâu, con ngựa, con gà phải nạp bao nhiêu tiền
hỏi có khác gì không? Than ôi! Người nước ta bị vắt kiệt đến hết cả mỡ
màng, huyết mạch để cung đốn cho các ông Tây, bà đầm, chó Tây một năm
biết mấy nghìn ức vạn. Tất cả vật gì có thể dùng để ăn uống được cũng
đều phải có thuế. Bao nhiêu sự sinh sống gì cũng đều phải đóng thuế, bao
nhiêu những nơi sinh hoạt, nơi nào cũng phải đóng thuế. Cho đến cái
thân ta là do đất trời sinh thành, cha mẹ tổ tiên ta để lại: mỏi chân
tay, hao tâm huyết để cung phụng, nuôi nấng bọn giặc Pháp mà rồi mỗi năm
phải bỏ ra 4, 5 đồng bạc để chuộc tấm thân bảy thước của mình! Than ôi!
Cái tấm thân ta! Thật chẳng bằng con trâu, con ngựa, con chó, con gà.
Thật đáng thương thay! Thật đáng thương thay! Người nước ta bị giặc làm
nhục đến thế mà còn không biết tự mình phấn kích lên là tại làm sao?
Công sưu, thuế thân là những thứ thuế mà các nước trong địa cầu chẳng
nước nào có cả, chỉ riêng có ở nước ta thôi. Người nước ta không phải
gỗ, đá, đồng bùn mà sao cam chịu nhục hèn đến thế? Con thú kia khi khốn
quẫn còn biết cắn mổ giương lông giương vuốt. Con sâu khi bị nhốt còn
biết cách vươn mình tìm trốn thì con người phải biết tính sao đây để có
ngày mở mày mở mặt?
Khi đã duy tân rồi về
lâu dài phải trừ bỏ ngay những tệ phiền toái cũ kéo đến mấy triều vua
trước, trước mắt phải sửa đổi, tẩy sạch hết phép chính trị hà khắc của
người Pháp. Công sưu, thuế thân chẳng những không còn, mà tất cả những
thứ thuế khác nữa đều phải xin nghị viện phê chuẩn. Việc thu các loại
thuế, các khoản quyên tiền cứu trợ đều phải được nhân dân công nhận, coi
đó là nghĩa vụ cần kíp để giúp đỡ cho công ích. Sau đó chính phủ mới
được sức giấy xuống để trưng cầu ý của dân. Dân ta dù thiệt một đồng
tiền, góp một hạt thóc đều vui vẻ thoải mái, xuất phát từ lòng yêu nước
mà đóng góp hết sức nhiệt thành, không hề có một tí gì gọi là dã man
cưỡng bức. Trời cao biển rộng ai ai cũng như thấy mình bay nhảy khôn
cùng. Ngày ấm gió hòa, ai nấy đều vui vẻ, tự do nhảy múa. Chúng ta vui
vẻ, có lợi đến thế, sướng biết chừng nào!
Hình luật nước ta trước kia, tay chân bị
gông cùm, thân thể bị đè nén. Thân muốn động mà không dám động, miệng
muốn nói mà không dám nói. Người tù khi ăn uống, thức ở so với con trâu
ngựa, gà lợn không có gì khác biệt. Than ôi! Phàm đã là đồng bào ta đều
là con em ta cả, ai mà không cùng chung cốt nhục với mình. Sự nhẫn nhục
chịu cảnh khổ cực cũng không có lòng nào khác, việc xây dựng một đất
nước, cũng đều không ngoài mục đích là được sinh ra và làm ăn trên đất
nước của mình. Người nước ta ơi! Người nước ta ơi! Xin xem hình pháp sau
khi duy tân.
Khi đã duy tân rồi thì
trong cả nước không một người nào là không có lòng yêu nước, không một
người nào là không phụng sự việc công, không một người nào là không
thương yêu nhau, không một người nào là không phục tùng theo phép tắc
văn minh. Như vậy, cần gì phải có những hình pháp lôi thôi nữa. Tuy
nhiên, nếu không may mà có một vài người phạm tội, tất cũng phải xử lí
theo khuôn khổ hình pháp văn minh. Trong thời đại duy tân, hình pháp
cũng bắt chước theo các nước như Nhật Bản và Châu Á. Tại kinh đô lập ra
một Viện Cảm hóa có viên tài phán ở đại học đứng ra phụ trách. Phàm
những người phạm tội, lập ra cho họ một trường học riêng khiến cho họ
khi vào học ở đó sẽ mở mang lương thiện, tu dưỡng tư cách của một người
dân; lập một xưởng thợ riêng, khi họ vào học, tùy theo sở trường của
từng người mà dạy họ các nghề ở đó để họ có đủ tư cách làm việc trong
khuôn khổ cuộc sống, khiến họ không thể tái phạm lầm lỗi nữa. Lại đặt
một người thẩm phán công minh, những nhà giáo hiền lành có trách nhiệm,
hàng ngày vào nhà giam mà thuyết giáo những điều phải trái, khiến cho
phạm nhân biết ăn năn hối cải. Đến khi hết hạn giam, họ cũng như người
vô tội, mọi thứ dân quyền đều được bình đẳng. Khi đương bị giam thì họ
là con em thụ giáo, khi ra khỏi nhà giam thì là dân một nước cùng làm
những việc hay giỏi, tự do như ngọn gió xuân thổi khắp trong ngoài có
bệnh tật gì rồi cũng được mạnh khỏe. Đến lúc bấy giờ dân ta chỉ còn biết
trị hóa mà không hề biết gì đến hình pháp. Đau đớn bệnh tật nhờ thuốc
trời mà chữa khỏi, lòng dữ như con cọp beo, chim cú nhờ có nước thánh mà
bị tiêu tán hết. Chúng ta sinh sống đến thế, sướng biết chừng nào!
Việc giáo dục là một cái lò đúc nên
người để trị nước. Quan lại, binh lính cũng đều từ đó mà ra. Cho nên
giáo dục là cái gốc trong di sản của chính trị. Thuế má, hình pháp cũng
đều từ giáo dục định ra. Nền giáo dục của nước ta sở dĩ hủ bại, cũ nát
là bởi vì trước đó chưa duy tân đó thôi, chẳng nên nói làm gì. Như cánh
tay chín lần gãy mới biết thuốc tốt, cho đến bây giờ chỉ có nền giáo dục
mới làm tan biến đi mọi sự ngu dốt được. Trong thời đại duy tân nền
giáo dục sẽ mãi mãi hoàn thiện, điều đó không nói cũng biết, nhưng người
nước ta còn có người chưa rõ. Vì thế xin nói ra để người trong nước rõ
thêm.
Khi đã duy tân rồi thì
triều đình sẽ dốc hết lòng, tận tụy trông nom nền giáo dục. Tinh thần
toàn xã hội dồn hết cho giáo dục. Đức dục, trí dục, thể dục… tất cả đều
được đề cao mà không bỏ điều gì. Phải học Trung Quốc, học Nhật Bản, học
nước ngoài tất nhiều người sẽ hái lượm được đầy đủ kiến thức. Các vườn
cho trẻ chơi, trường tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học từ kinh đô
đến thôn quê nơi nào cũng có. Khi mới duy tân thì các giáo sư ở các học
đường tất phải mời người Nhật Bản, người Châu Âu, người Mỹ dạy: trong
thời duy tân thì người nước ta cùng với một số người nước ngoài tham gia
giảng dạy, khi duy tân sắp xong rồi thì nhân tài nước ta trình độ sẽ
hơn hẳn họ, nên không cần phải mời người nước ngoài dạy nữa. Tên gọi các
trường học, tư cách của học sinh, đặt ra các môn học, sự nghiệp học
hành đạt kết quả cao, cơ bản đều phải thu lượm theo cái hay, cái tốt của
nước Nhật và Châu Âu, đồng thời phải tìm cách để tự hoàn thiện nữa.
Trong các trường học, các môn như triết học, chính trị học, kinh tế,
quân sự, hình pháp, ngoại giao, công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp,
nữ công, y học, lâm nghiệp, phàm tất cả những gì liên quan tới cuộc
sống con người cần phải học tập và phải mời thày giáo dạy tại học đường
đầy đủ. Người nước ta được vào học không kể sang hèn, giàu nghèo, nam
hay nữ, cứ từ 5 tuổi trở lên thì vào học ở vườn trẻ chịu sự giáo dục của
bậc trẻ em, từ 8 tuổi trở lên vào học bậc tiểu học chịu sự giáo dục của
bậc tiểu học, từ 14 tuổi trở lên vào học ở trường trung học chịu sự
giáo dục của bậc trung học; cho đến khi 18 tuổi tài chất đã khá rồi thì
được nhận vào học ở các trường bậc cao học theo sự giáo dục của các
ngành chuyên môn bậc đại học. Tất cả những phí tổn về việc giáo dục, do
triều đình, xã hội đảm nhiệm. Nếu người dân nào nghèo túng quá không thể
đủ tiền đóng học phí thì triều đình và xã hội phải giúp đỡ, chu cấp
thêm khiến cho con em trong cả nước đều được học qua ở các trường tiểu
học bậc cao. Trước khi vào học ở các trường tiều học, đều phải đặt các
trường dạy quốc ngữ, quốc văn, khiến cho nhi đồng và phụ nữ đều có thể
đọc được báo chí, để nghe biết được những tin tức mới, bàn luận về thời
sự để mở mang dân trí. Trong các trường học, hết thảy phải dùng chữ Quốc
ngữ khiến cho mọi người ai ai cũng đọc được, khi đọc được ai ai cũng
hiểu biết được để đến khi vào học ở các trường tiểu học ai nấy đều có
điều kiện và hết lòng lĩnh hội kiến thức, mới có thể có đủ tư cách trở
thành một người dân tốt hơn được. Hơn nữa, các sách giáo khoa ở các
trường tiểu học, trung học, đại học phải được Bộ Văn [7]
kiểm định, nhưng có sự châm chước, xét duyệt, bàn bạc chung trong nghị
viện. Nội dung cơ bản của sách vở đều là cội nguồn để mở mang lòng yêu
nước, khai thông tình ruột thịt đồng bào, phát huy dân trí giúp dân
quyền khiến cho mọi người ai ai cũng tiến bộ ngày hàng ngàn dặm.
Tựu trung việc đào tạo nhân cách con
người là trên hết, nhưng đối với binh lính và phụ nữ thì việc giáo dục
đó lại càng cần thiết hơn. Vì người lính có trách nhiệm bảo vệ người làm
ruộng và người đi buôn bán; có nhiệm vụ đi mở đất, dời dân và tăng thêm
thế mạnh, uy nghi của một nước. Nếu ngay từ ban đầu, giáo dục không chu
đáo, sâu sắc thì người lính làm sao mà dám xả thân vì nước, làm sao mà
có lòng yêu thương đồng bào và làm sao mà gây dựng cho nước nhà ngày một
cường thịnh được? Sau khi duy tân rồi thì người lính ở nhà được giáo
dục tại nhà, ở doanh trại thì được giáo dục tại doanh trại. Là pháo
binh, kị binh, công binh thì được giáo dục về công việc của pháo binh,
kị binh, công binh. Là lục quân, hải quân, sĩ quan thì được giáo dục
theo cách thức của lục quân, hải quân, sĩ quan. Không chỗ nào, không lúc
nào là không giáo dục người lính để làm cho người lính sẵn sàng chết,
làm tướng thì có khả năng cầm quân, làm cho nước nhà trở thành cường
quốc trong năm châu. Đó cũng là mục đích trên hết để giáo dục người lính
vậy.
Phụ nữ là người có trách nhiệm làm một
người mẹ hiền, một người vợ đảm, có trách nhiệm trong việc buôn bán, làm
đồ công nghệ, có trách nhiệm dạy dỗ con em, giúp đỡ việc quân. Có người
mẹ anh hùng thì mới có thể giúp cho người chồng thành người anh hùng
được. Vả lại, trên các mặt nghệ thuật, kinh tế người phụ nữ thực sự sẽ
nắm được những quyền lợi vô cùng. Chỉ có giáo dục người phụ nữ một cách
sâu sắc thì mới tạo ra cho họ lòng yêu nước sâu sắc, bỏ được riêng tư mà
theo công lợi, dám hi sinh vì việc nghĩa để làm nên một quốc gia cường
thịnh được. Cho nên trong một nước mà không có người phụ nữ yêu nước thì
cuối cùng nước ấy sẽ phải làm đầy tớ cho nước khác mà thôi. Sau khi duy
tân rồi, tất phải chú ý đặc biệt tới sự giáo dục cho phụ nữ. Sách giáo
khoa dạy cho chị em phụ nữ phải chọn những sách có nội dung thật tốt;
trường học để dạy chị em phụ nữ phải khuyến khích, lựa chọn những giáo
viên thật giỏi. Những trường công nghệ, bệnh viện, thương điếm, ngân
hàng, bưu điện, xe hơi, tàu thủy… cùng tất cả những ngành gì có liên
quan đến tài chính nên tuyển dụng phụ nữ có trình độ học vấn cao, khiến
cho họ phát huy hết tài năng để giúp cho việc quân, việc nước và có
nghĩa vụ bình đẳng với nam giới. Tất cả những gì mà quốc gia khen
thưởng, những vấn đề thuộc về xã hội thì người phụ nữ cũng có giá trị
bình đẳng với nam giới. Điều đó, khiến cho phụ nữ trong cả nước không ai
là không mong muốn làm một người mẹ anh hùng, làm một người vợ anh
hùng, làm một người phụ nữ giàu lòng yêu nước. Bia đá tượng đồng tạc
phường khăn yếm, việc sử dụng súng ống, lưu danh tên tuổi, việc hội ước,
xông pha nơi chiến trường thì người phụ nữ so với kẻ mày râu đều cùng
giá trị. Do đó, việc giáo dục người phụ nữ là mục đích trên hết vậy.
Còn như trong khuôn khổ của một nền
chính trị thì lấy việc học về công đức, học về lòng bác ái là một việc
tối quan trọng. Nói người trong nước, đó là tiếng gọi chung người trong
một nhà.
Nước ta phía Nam đến tận Hà Tiên, phía
Bắc đến tận Lạng Sơn. Một dải núi sông, thực như nhà chung của mọi
người. Cùng được sinh ra và lớn lên như trong một nhà, cùng sống và đoàn
tụ như trong một nhà, cùng được trời che đất chở, thì sẽ là anh em đồng
bào ruột thịt với nhau. Khi sống chơi với nhau một chốn, khi chết cùng
chôn với nhau một gò. Huyết mạch từ nghìn năm, giống nòi ai để lại? Tên
họ sau muôn thuở, người nào đến viếng thăm? Há đâu cứ nhìn vào các nước
Hồ, Hán, Tần, Việt mà nói rằng người nước ta chẳng phải một nhà?
Đau khổ xót thương cũng đều có quan hệ xương thịt với nhau, ấp ủ, giúp đỡ nhau chẳng khác nào như thích mùa xuân vậy.
Nước ta đương buổi duy tân, tất phải
khiến cho dân trong nước không có người nào là không có chỗ ở. Lại đặt
viện từ thiện cảm hóa để giáo dục cho những người tàn tật đáng thương.
Lập nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi dưỡng người già yếu, nhà hộ sinh cho
phụ nữ. Tất cả những trường học đó đều nhằm giáo dục những người nghèo
khó, cô đơn. Phàm tất cả những trường phải chọn học sinh nam nữ là những
người tốt có đạo đức và những thày giáo giàu lòng bác ái để dạy bảo,
chăm sóc, trông nom, khiến cho họ cùng với quốc dân, cùng hưởng thái
bình, tự do và hạnh phúc. Đến khi ấy, nền giáo dục thật hoàn thiện,
không có thiếu sót gì, cũng như trời mưa to vạn vật đều tươi tốt, biển
lặng sóng yên cá tôm cùng nhảy múa. Chúng ta được thấm ơn như thế, sướng
biết chừng nào!
Đất đai nước ta, phía Tây sát nước Tiêm La, phía Bắc thông đến xứ Việt – Điền [8], phía Đông liền biển lớn, phía Nam tiếp đến Côn Lôn, ở giữa là tỉnh Nghệ An có 4 trấn [9], xứ Bắc Kỳ có 10 châu, Quảng Trị có 2 xứ Cam [10], Nam Kỳ có hai Xá [11],
đất đai đều có thể cày cấy được, rừng có thể chăn nuôi được, núi có thể
khai khẩn được. Riêng những điều đó thôi thì nước ta đã không thể đứng
dưới một nước trung đẳng được. Huống hồ nước ta lại có cả đồng bằng rộng
lớn, có nhiều hồ lớn và vùng đất tốt đã được cày cấy từ lâu. Nhưng vì
sao cũng vẫn còn có nơi nửa văn minh, nửa dã man? Là bởi vì dân trí chưa
được mở mang, nhân tài chưa nhiều, chỉ mới dùng sức chân tay mà làm chứ
chưa biết dùng máy móc. Lại còn mùa màng hạn hán, thiên tai hoành hành,
mất hàng nửa công sức để khai khẩn ruộng đất, bỏ hoang, đến một đấu
thóc, nửa thăng thóc mà dân cũng không có mà tích trữ. Mà đất đai thì có
đến hàng ngàn, vạn mẫu bỏ hoang. Triều đình có thế lực mà không biết mở
mang ra, xã hội có công cụ làm ăn mà không biết vun trồng lại, đất nước
ngày càng nghèo, dân càng ngày càng khổ. Thật đáng thương thay!
Khi đã duy tân rồi thì
việc nghiên cứu về nông nghiệp phát triển mạnh, nghề nông ngày một tiến
tới. Sức người không đủ sẽ có máy móc bổ sung hỗ trợ cho. Thiên tai bất
lợi sẽ có trí tuệ con người chinh phục. Một người khai khẩn chưa xong
thì xã hội giúp tiền để cùng làm cho thành. Dưới dân mà làm không xong
thì triều đình sẽ đốc thúc quan lại giúp đỡ thêm. Quan đại thần trông
coi việc nông phải là bậc học sĩ cao cấp. Người nghiên cứu về nông
nghiệp phải sử dụng những người sành sỏi, tài giỏi về nghề nông. Rồi thì
khắp mặt đất mới chứa đầy mầm châu báu, trời rộng kia mới chở hết sự
mạnh giàu. Trên rừng núi không bỏ sót nguồn lợi nào, ở làng xóm tài sản
không bao giờ cạn. Lúc bấy giờ, đất đai ngày một mở rộng, thế nước mạnh
như nuốt các nước láng giềng. Của cải, sản vật tràn trề khắp nơi, danh
giá nước ta trên thế giới ngày càng được trọng vọng. Chúng ta sung túc,
giàu có đến thế, sướng biết chừng nào!
Người nước ta có sự suy nghĩ khôn ngoan,
có tai mắt thông minh, so với người Châu Âu chỉ có hơn chứ không thua
kém. Thế mà bao nhiêu thứ hàng hóa, vật dụng đều phải mua của nước
ngoài, bao nhiêu lợi quyền đều chịu để nước ngoài nắm giữ. Các thứ dùng
để ăn uống, từ thuốc cho đến trà, rượu, các đồ mặc như gấm, nhung cho
đến vải lụa, nếu chẳng phải là do người nước ngoài làm ra thì cũng do
người Hoa đem đến, nếu chẳng phải từ bên Tây chở sang thì cũng từ nước
Thanh mang lại. Vì vụng về ngu muội nên tiền của tiêu hao, sản vật của
trời đất sinh ra để cho người nước ngoài ra sức mà ăn nuốt hết. Hôm nay
mặc hàng Tây, ngày mai mua đồ Hoa, ví như người này mặc hàng Hoa, người
kia mặc hàng Tây. Người nước ta há lẽ nào không biết suy nghĩ, không có
tai mắt mà nhìn mà nghe hay sao? Đất nước ta lẽ nào lại không có khoáng
sản, không có công trường hay sao? Mà sao lại ngu dại để cho máu mỡ của
mình dần dần mất hết, sớm tối tay chân nhọc nhằn vất vả đến thế? Đó là
bởi triều đình không có phương pháp khuyến thợ khen nghề, xã hội không
biết đấu tranh cho lợi quyền đó thôi. Người Pháp lấy cái lợi của ta bởi
rằng ta ngu, thường ngày lo tìm cách ngăn lấp tri thông minh của ta,
khiến cho ta quên hết mọi điều cổ hủ vậy. Đó là trước kia.
Khi đã duy tân rồi thì
tai mắt người nước ta được rộng hiểu. Tâm tư trí tuệ người nước ta tất
phát triển phi thường. Trường học bách công mọc đầy khắp trong nước. Thợ
tìm mỏ, thợ nấu vàng, thợ điện khí, thợ cơ khí, thợ chế tạo vật phẩm
buôn bán, thợ chế tạo dụng cụ dùng cho nhà nông, thợ hội họa, mĩ thuật,
thợ may, cho đến hàng trăm các phẩm vật khác phục vụ cho đời sống con
người đều có thợ cả. Tất cả các trường dạy thợ, đều lấy những kiến thức
tối ưu nhất của Châu Âu, của Nhật Bản để giảng dạy. Ngành học về khai mỏ
ngày càng tiến bộ, nguồn lợi khai mỏ ngày càng nhiều, của cải dưới lòng
đất khai thác ngày càng tăng, những công nhân giỏi ngày một đông đảo.
Miền núi sẽ đẹp như gấm vóc, thôn quê cũng hóa đô thành. Đến lúc ấy
người nước ta đầu óc thông minh, tay chân khôn khéo rong ruổi khắp non
sông đất nước, vật phẩm tuyệt đẹp đến nỗi Châu Âu, Châu Mỹ cũng phải
chịu thua giá trị. Chúng ta bay nhảy đến thế, sướng biết chừng nào!
Việc đi buôn mạnh như cọp, như cá kình
thì trong thế giới nước nào mà không nuốt nổi. Đi buôn bán nhà mà có
gươm súng thì trong thế giới dân nào chẳng bắt được. Thật đáng thương
cho nền thương mại yếu kém của ta! Thật đau xót cho giới kinh doanh
thương mại của ta bị đình đốn! Hàng hóa sản vật của cải có xuất mà không
có nhập, như máu mỡ chỉ có mất mà không hề tăng lên. Nhà nghèo có điều
kiện bôn tẩu đó đây, nhưng mà lại không đủ sức, nhà giàu có của thừa
thãi mà lại chẳng có lòng làm. Không tâm không lực thì không thể mà sinh
tồn nổi trong thời đại cạnh tranh buôn bán này được. Dò xét nguyên nhân
mới hay rằng: một là người nước mình không có tinh thần tin yêu nhau,
hai là người nước mình không có cái chí tiến thủ mạo hiểm. Không cò lòng
tin yêu nhau thì người nghèo có trí mà không cùng bàn bạc với người
giàu, người giàu có của mà không chịu giúp người nghèo. Như thế xã hội
đến tan nát, của cải tiêu mòn. Không biết cách làm, không biết hợp của
cải lại thì buôn bán làm sao được. Không có chí tiến thủ mạo hiểm thì
một đồng tiền cũng chẳng dám rời tay, huống hồ đem của cải nhiều đến
hàng vạn quan tiền! Một bước cũng không dám rời cửa, huống hồ phải vượt
biển rộng đến ngàn trùng! Cầm túi giữ chặt, chôn của chờ tiêu, không dám
đi buôn bán xa, không dám xông pha đây đó thì làm sao mà có thể đi buôn
bán được?
Khi đã duy tân rồi, dân
trí ngày càng phát đạt lớn, sự học tập về thương mại ngày càng phát
triển nhanh. Người nước ta có tình cảm thương yêu nhau nhiều, hợp của
cải muôn người làm của chung, hợp sức muôn người thành một sức chung thì
việc buôn bán trong xã hội ngày một cố kết mà chẳng tách rời nhau.
Người nước ta tất sẽ dũng cảm mà có chí tiến thủ mạnh. Nhà nào có thực
nghiệp [12]
thì được triều đình đặc biệt chú trọng, ai có tài kinh doanh được xã
hội tôn vinh thì việc buôn bán sẽ mạnh mẽ như ngọn thủy triều không sức
nào ngăn cản nổi. Đến lúc đó, người nước ta đồng lòng hiệp sức, quyên
góp tiền vốn lại cùng với nước ngoài đua tranh buôn bán. Thóc gạo ê chề,
tơ, gỗ lạt cùng các vật phẩm xuất cảng, so với các nước khác, hàng hóa
Việt Nam ta sẽ chiếm mức tối đa.
Tất cả các công ti buôn bán lớn ở các
thành phố như Pa-ri nước Pháp, Bá Linh nước Đức, Luân Đôn nước Anh, Nữu
Ước nước Mỹ cùng với các nước khác hết thảy đều thấy rằng nền thương mại
Việt Nam là thịnh vượng nhất. Tàu buôn các nước ra vào buôn bán ở các
cảng Việt Nam mỗi ngày không dưới vài ngàn chiếc. Hàng hóa tiền bạc của
các nước nhập vào kho thương mại của Việt Nam mỗi ngày không dưới ức vạn
đồng. Chúng ta sẽ lấy của cải mà đắp nên thành trì, trên thế giới không
có loại pháo nào mà công phá nổi. Chúng ta sẽ kết tàu làm trận, thì
Châu Mỹ, Châu Âu cũng dễ lướt qua như sóng vậy. Người nước ta đầy đủ và
mạnh đến thế, sướng biết chừng nào.
Nếu biết lấy việc thu hoạch mùa màng là
sự vui sướng thì việc dầm mưa dãi gió, vất vả sớm hôm cũng không quản
ngại: biết tụ họp xóm làng ca hát là vui thì thì việc chuyển đá dời non,
đắp đường mở lối cũng không thấy nhọc nhắn. Sướng thay nước Việt Nam
mới! Sướng như thế đó! Người trong nước ta có ai mà không đẹp lòng? Có
ai mà không nhón gót giương mày ngẩng cổ mà trông?
Tuy nhiên, chợt nghe thì mừng, quá mừng
lại ngờ vì cách thức để gây dựng nước Việt Nam, tiền của để xây dựng
nước Việt Nam mới nước ta còn có người hoang mang chưa rõ. Tôi tuy là
người hèn kém bất tài nhưng cũng may mắn được là người con yêu mến của
nước ta, xin kính cẩn bày tỏ một số hiểu biết kém cỏi của mình sau đây
để tất cả các bậc cha anh, chú bác, anh em lựa chọn lấy.
- Mong mọi người trong nước ai ai cũng có ý chí tiến thủ mạo hiểm.
- Mong mọi người trong nước ai ai cũng có tinh thần thương mến, tin cậy lẫn nhau.
- Mong mọi người trong nước ai ai cũng có tư tưởng tiến bước lên nền văn minh.
- Mong mọi người trong nước ai ai cũng có sự nghiệp thực hành yêu nước.
- Mong mọi người trong nước ai ai cũng có sự nghiệp thực hành công đức.
- Mong mọi người trong nước ai ai cũng có hi vọng về danh dự và lợi ích.
Nguồn: Phan Bội Châu, Tân Việt Nam.
Bản điện tử được thực hiện từ ấn bản của Cục Lưu trữ Nhà nước năm 1989,
do Võ Văn Sạch dịch và chú thích, Đinh Xuân Lâm viết lời giới thiệu,
tr. 19-28
_____________________________________
Chú thích:
[1] Dân số nước ta lúc đó có lẽ chỉ khoảng 25 triệu dân.
[2]
Ở đây cụ Phan Bội Châu không nhắc tới nhà Thanh. Chúng tôi cũng chưa rõ
vì lí do gì. Nhưng có thể do nhà Thanh chưa đặt được ách nô lệ trên
nước ta, hoặc do Phan Bội Châu có ý tránh không đụng chạm đến Trung Quốc
ở đó đang có nhiều người yêu nước Việt Nam hoạt động.
[3] Chỉ nước Thái Lan ngày nay
[4] Chỉ tên vua
[5] Chỉ bọn quan lại
[6] Chỉ người lính đánh thành
[7] Tức Bộ Giáo dục
[8] Tức hai tỉnh Quảng Đông và Vân Nam của Trung Quốc
[9] Trấn Ninh, Trấn Định, Trấn Biên, Trấn Tĩnh
[10] Cam Lộ, Cam Linh
[11] Thủy xá và Hỏa xá
[12]
Ở đây, ý chỉ một trong các ngành nghề như nghề nông, nghề công, nghề
thương cùng tất cả các công việc làm cho mối lợi được phát triển mạnh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét