- Phan Bội Châu: 10 thang chuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt
- Phan Bội Châu: Tiểu sử
- Thử nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX
- Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực
- Phiên tòa lịch sử xét xử Phan Bội Châu
- Phan Bội Châu: Tân Việt Nam
- Phan Bội Châu: Thời thế và anh hùng
Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà?
(Tú Xương, “Đêm dài”, đầu thế kỷ XX)
Khoảng một trăm năm trước, khi tại các quầy rượu, quán cà-phê ở những
thành phố tiêu biểu cho văn hóa Tây phương vào cuối thế kỷ XIX như
Paris, Vienne, Berlin, khách văn nhân nghệ sĩ gặp nhau đàm luận về những
tư trào trong văn học nghệ thuật Tây phương lúc bấy giờ như “nghệ thuật
vị nghệ thuật” (l’art pour l’art), chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism) hay
trường phái tự chiêm ngưỡng (narcissism), thì ở xứ Đông Dương xa xôi bên
kia nửa vòng trái đất, nước ta hãy còn im lìm trong giấc nồng của đêm
dài mất nước và ngay cả cái tên Việt Nam vẫn chưa được mấy ai nghe biết
đến. Ngọn lửa Cần Vương kháng chiến cuối cùng ở Vũ Quang do Phan Đình
Phùng lãnh đạo cũng đã bị dẹp tắt (1896). Dưới chính sách của toàn quyền
Paul Doumer là triệt để khai thác nhân lực cùng tài nguyên của xứ thuộc
địa này nhằm phục vụ tối đa cho quyền lợi của mẫu quốc, từ 1902 - năm ở
Hà Nội người Pháp rầm rộ làm lễ khánh thành cầu Doumer (tức cầu Long
Biên sau này) - Đông Dương bắt đầu mang lại những lợi lộc kinh tế và tài
chánh cho nước Pháp trong khi tuyệt đại đa số người Việt phải chịu cảnh
tôi đò ngay chính trên quê hương của họ. Về sau, khi viết hồi ký Doumer
đã kiêu hãnh ghi lại như sau: “Khi Pháp mới đến Đông Dương, nước An Nam
đã chín muồi trong tình cảnh nô lệ”!
Trong hoàn cảnh đất nước bi đát như thế, Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh là hai sĩ phu, hai bậc đại hào kiệt đi hàng đầu trong vận động
giành lại độc lập dân tộc vào giai đoạn giao thời 25 năm đầu thế kỷ XX.
Tuy cùng chung hoài bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan
trên một số vấn đề căn bản của đất nước lại rất khác nhau, thậm chí có
khi tương phản. Trong nhiều năm gần đây, sau nhiều lần đọc lại các trước
tác của hai nhận vật kiệt hiệt này, chúng tôi nhận thấy có nhiều kinh
nghiệm của người xưa - thành công cũng như thất bại - vẫn còn ý nghĩa
cho đến ngày nay.
Trong khuôn khổ bài viết này, ta hãy
thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò của Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX.
“Gọi hồn nước”
Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản dội sang
nước ta qua những "tân thư" (sách mới) và "tân văn" (báo mới" của Lương
Khải Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Những trang sách "tân
thư" "tân văn" mang đến cho các sĩ phu yêu nước không khí rạo rực của
cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản và khí thế sôi sục của Mậu Tuất Chính
biến (1898) ở Trung Quốc. Sĩ phu Việt Nam lần đầu tiên nghe đến các học
thuyết dân chủ, dân quyền, chủ nghĩa lập hiến và làm quen với các tên
nghe lạ tai như Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau),
Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire), v.v... Từ chỗ "ếch ngồi đáy giếng thấy bao
nhiêu trời", họ bắt đầu có tầm nhìn "doanh hoàn" (toàn cầu) - dĩ nhiên
điều này không có nghĩa là ai ai nay cũng có thể nhìn một cách khách
quan về đất nước hay về thế giới bên ngoài. Quan điểm cạnh tranh sinh
tồn, mạnh được yếu thua (survival of the fittest) qua thuyết tiến hóa xã
hội (social Darwinism) của Dật-nhĩ-văn (Darwin) mà ngày đó hãy còn gọi
là thuyết "vật cạnh" (vạn vật cạnh tranh để sinh tồn), "thiên diễn luận"
(sự tiến hóa tự nhiên của sự vật) hay thuyết "tự do đào thải", khiến họ
ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước.
Phan Bội Châu về sau đã ghi lại trong tự truyện: "Tôi vì xem những
pho sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải,
thảm trạng đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc
hơn"[1]. Nỗi lo diệt chủng cũng được nhắc nhở trong bài "Đề
tỉnh quốc dân ca" (không rõ tên tác giả) lưu truyền rộng rãi trong nước
vào năm 1906:
Nỗi diệt chủng bề thương bề sợ
Nòi giống ta biết có còn không?
Nòi giống ta biết có còn không?
Trong hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu
có lẽ là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn
nước. Thơ văn Phan Bội Châu có ảnh hưởng sâu rộng đối với người đọc
không chỉ vì những dòng thơ Phan mang nhạc điệu trầm hùng thiết tha, khi
rạo rực sôi nổi, mà cũng vì những gì Phan nói lên thường khơi dậy nỗi
nhục mất nước và kích động những cảm xúc sâu xa của tình tự dân tộc.
Những câu sau đây ngày ngay đọc đến ta vẫn thấy xao xuyến trong lòng,
huống hồ là đối với độc giả sống trong tình trạng "mất nước" vào đầu thế
kỷ XX:
Lời huyết lệ gửi về trong nước,
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ...
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau...("Hải hoại huyết thư" (1906), Lê Đại dịch)
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ...
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau...("Hải hoại huyết thư" (1906), Lê Đại dịch)
Hoặc giả:
Than ôi! Lục tỉnh Nam Kỳ
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không
Mịt mù một giải non sông
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai...
("Ai cáo Nam kỳ phụ lão" (1907), Phan Bội Châu tự dịch)
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không
Mịt mù một giải non sông
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai...
("Ai cáo Nam kỳ phụ lão" (1907), Phan Bội Châu tự dịch)
Trong bài "Sinh văn cụ Phan Sào Nam" (1940), Huỳnh Thúc Kháng đã diễn
tả một cách sống động về sức rung cảm lòng người của ngòi bút Phan Bội
Châu:
Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một,
giữa từng không mù cuốn mây tan,
Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ [2]
giữa từng không mù cuốn mây tan,
Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ [2]
Do ảnh hưởng văn thơ của Phan Bội Châu, mà "hàng nghìn thanh niên đã
cắt cụt tóc bím, vất hết sách vở văn chương cử tử cùng cái mộng công
danh nhục nhã gắn trên đó, lìa bỏ làng mạc, nhà cửa vợ con, rồi băng
ngàn lội suối, bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở, để qua
Xiêm, qua Tàu, qua Nhật mà học hỏi và trù tính việc đánh Tây" [3].
Ngoài ra, cũng cần để ý là ảnh hưởng của Phan Bội Châu không chỉ giới
hạn trong những thế hệ trưởng thành trong nửa đầu thế kỷ XX, mà ngay cả
trong thời gian "đất nước phân kỳ", bất luận Nam Bắc, văn thơ Phan đã
khơi dậy lòng yêu nước của không biết bao nhiêu thanh niên.
Ý thức "Quốc gia Quốc dân"
So với người cùng thời, Phan Bội Châu sớm ý thức về vận mệnh đất nước
và cũng là một trong những sĩ phu đầu tiên đối đầu với các vấn đề liên
hệ đến Việt Nam như một "quốc gia quốc dân" (nation-state).
Vì từ "quốc gia quốc dân" (hay "nhà nước quốc dân") vẫn chưa được
nhắc đến ngay trong các cuốn từ điển tiếng Việt, Anh Việt hay Pháp Việt,
v.v... xuất bản gần đây (những năm cuối cùng của thế kỷ XX!), ta thử
tạm mượn định nghĩa của từ này trong một cuốn từ điển tiếng Nhật Bản -
một ngôn ngữ có nhiều từ vựng hiện đại "xuất cảng" sang chữ Hán và tiếng
Việt vào buổi đầu thế kỷ XX.
Trích:
Kokumin kokka ("Quốc-gia quốc-dân", hay "nhà nước quốc dân"): một quốc gia thống nhất được hình thành dựa trên cơ sở của ý thức về sự đồng nhất của quốc dân, hay dân tộc (Nihongo daijiten [Nhật-Bản-ngữ đại-từ-điển], Tokyo: Kôdansha, 1989, trang 691).
Ngay từ hồi chưa xuất dương, Phan đã từng đi chu du nhiều nơi trong
nước - miền Nam xứ Nghệ (quê Phan) từ Huế vào Nam Ngãi, Bình Phú, rồi
Gia Định, cho đến tận vùng Thất Sơn ở Châu Đốc; miền Bắc từ Nam Định, Hà
Nội, lên tận rừng Yên Thế của Đề Thám - nhằm tìm cách kết giao đặng mưu
đồ việc nước với những người có nghĩa khí, từ sĩ phu tới các "hảo hán"
trong giới "lục lâm giang hồ" sống ngoài vòng pháp luật. Trong thời kỳ
Đông Du (1905-1909), hàng ngày tiếp xuvs và lo việc ăn học cho các thành
viên từ Nam chí Bắc, Phan ý thức sâu sắc về tình trạng thiếu đồng thuận
giữa người Việt với nhau do một lý do khá đơn giản: đây là lần đầu tiên
các thanh niên này có dịp tiếp xúc, đối thoại và sinh hoạt với nhau.
Trong Việt nam quốc sử khảo (1908), Phan nêu lên 5 điều khiếm khuyết
trong dân trí nước ta: hay nghi kỵ lẫn nhau, coi trọng những điều xa hoa
vô ích (như trong việc hôn nhân, cúng bái, v.v ...), biết lợi mình chứ
không biết hợp quần, tiếc của riêng mà không nghĩ đến lợi chung, biết
thân mình mà không nghĩ đến việc nước [4]. Ý thức "quốc gia
quốc dân" trong tư tưởng cũng như hành động của Phan phải nói là một sự
đề kháng đối với chính sách "chia để trị" của chính quyền đô hộ, khác
hẳng với đầu óc địa phương hẹp hòi thường thấy ngay ở các nhân vật tai
to mặt lớn trong nước lúc bấy giờ. Bình tình mà nói, bệnh chia rẽ, óc
địa phương không chỉ do chính sách cai trị của người nước ngoài, bởi lẽ
ngay khi người Việt nắm lấy vận mệnh đất nước, vẫn không thấy những biện
pháp tích cực nhằm khắc phục tư tưởng cục bộ "ăn cây nào, rào cây ấy"
hay tình trạng "phép vua thua lệ làng". Đóng góp của Phan trên mặt này
ngay từ hồi đầu thế kỷ đúng là một điểm son đáng trân trọng, cần được
ghi nhớ.
Cũng cần để ý rằng "vong quốc" (mất nước), "đồng bệnh" (cùng bệnh) và
"quang phục" (khôi phục vinh quang đã mất) là những từ thông dụng trong
thuật ngữ chính trị ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam - ba nước "cùng
mang bện mất nước" - vào đầu thế kỷ XX. "Vong quốc" ở đây có nghĩa là
mất độc lập, mất chủ quyền. Phan Bội Châu giải thích: "Gọi là một nước
thì phải có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái
ấy đều không đủ tư cách làm một nước" [5]. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên
mã những nỗ lực khôi phục độc lập ở ba nước Đông Á nói trên thường lấy
tên "quang phục": vận động lật đổ triều đình Mãn Thanh ở Trung Quốc do
Thái Nguyên Bồi khởi xướng năm 1904 lấy tên là Quang phục Hội (về sau
gia nhập Đồng minh Hội của Tôn Dật Tiên); ngày Hàn Quốc lấy lại độc lập,
thoát khỏi ách cai trị của người Nhật gọi là ngày Kwangbok (tức Quang
Phục, 15/8/1945); và cái tên Việt Nam Quang phục Hội do Phan Bội Châu
cùng các đồng chí thành lập ở Quảng Đông (1912) cũng không ngoài nghĩa
đó.
Việt Nam - Từ Quân chủ tới Dân chủ
Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX? Trả
lời câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vô-thưởng-vô-phạt này sẽ giúp ta nhận thức
rõ hơn về vai trò của Phan Bội Châu và Quang phục Hội.
Quốc hiệu "Việt Nam" nguyên đã có từ đầu thời vua Gia Long, nhưng
trên thực tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép là vua Gia Long
lúc đầu khi mới lên ngôi (1802) muốn đặc quốc hiệu là Nam Việt, nhưng
vua Gia Khánh nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi
lại chuyện Triệu Đà và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày
trước. Thanh triều chỉ chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai năm
(1804) khi quốc hiệu Nam Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam [6].
Bước sang thế kỷ XX, trong khi người nước ngoài đều dùng tên "An Nam"
để chỉ nước ta, theo thiển ý của chúng tôi, Phan Bội Châu là người đầu
tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay từ khi mới sang Nhật Bản. Bằng cớ
là Phan đã dùng tên Việt Nam trong các trước tác viết trong thời kỳ
Đông Du: Việt Nam vong quốc sử (1905), Tân Việt Nam (1906), Việt Nam
thảm trạng (1907?), Việt Nam quốc sử khảo (1908). Ngoài ra, sau khi giải
tán Duy Tân Hội, như đã nói ở trên, Phan cùng đồng chí cũng đã dùng tên
Việt Nam (thay vì An Nam hay các tên khác) khi đặt tên Việt Nam Quang
phục Hội vào năm 1912.
Tuy Quang phục Hội có một lịch sử đáng chú ý, nhưng điều ngạc nhiên
là trước đây ít người nói tới. Những điều giới thiệu sau đây có thể tìm
thấy ngay trong "Phan Bội Châu niên biểu" (hay "Tự phán") chứ không phải
tìm đâu xa xôi. Trước hết, Quang phục Hội không chỉ là hội đoàn theo
nghĩa thông thường mà trên hết thực tế là một "chính phủ lâm thời" (lưu
vong), có quy định cả quốc kỳ, quân đội (Việt Nam Quang phục Quân), quân
kỳ, và phát hành cả giấy bạc (dưới dạng "quân dụng phiếu") "in bằng
điện, tinh xảo như giấy bạc Tàu". Quang phục Hội cũng đã quy định lá
quốc kỳ đầu tiên của Việt Nam. Theo lời kể lại của Phan Bội Châu, "một
sự quái lại" là trước đó "nước ta chỉ có cờ hoàng đế mà không có quốc
kỳ". Bởi vậy, Quang phục Hội mới "chế định cờ ngũ tinh" (năm ngôi sao)
làm lá quốc kỳ đầu tiên. Năm ngôi sao trên lá cờ này có hình liên kết
với nhau (ngũ tinh liên châu), tiêu biểu cho ba kỳ của Việt Nam, cộng
thêm Lào và Cămpuchia (!). Quốc kỳ Quang phục Hội có nền vàng, tượng
trưng cho nhân chủng da vàng của người Việt, màu hồng của năm ngôi sao
biểu tượng cho vị trí phương Nam của nước Việt ("Nam phương thuộc hỏa,
hỏa sắc hồng"). Hình dạng quân kỳ cũng giống như quốc kỳ, điểm khác nhau
là thay vì hồng tinh (sao hồng), quân kỳ dùng bạch tinh (sao trắng),
nhằm "tỏ rõ mục đích" của Việt Nam Quang phục Quân là "cốt đánh đổ chính
phủ người da trắng".
Tôn chỉ "độc nhất" của Quang phục Hội là "khôi phục nền độc lập của
Việt Nam" và thành lập một nước "cộng hòa dân quốc". Nói một cách khác,
với sự thành lập của Quang phục Hội, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
chủ nghĩa quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ "được xác định".
Dĩ nhiên Phan Bội Châu đã đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng
đường lối của Quang phục Hội [7]. Cho dù việc thay đổi "ngọn cờ quân
chủ" (mà Phan Bội Châu đã đề cao để chống Pháp lúc xuất dương) thành lá
cờ dân chủ phần nhiều là do ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở
Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh lịch sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam,
sự kiện này có ý nghĩa như một khúc nhạc dạo đầu báo hiệu sự cáo chung
của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực tế sẽ xảy ra trong quá trình
ba, bốn mươi năm sau đó.
"Bạo động kịch liệt" và bế tắc
Khác hẳn với chủ trương ôn hòa của Phan Châu Trinh
là duy tân để tự cường rồi mới dành độc lập; Phan Bội Châu chủ trương
bạo động, một phần vì bản tính ("sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp
khích" [8]) và một phần do áp lực của "bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh... hối thúc tôi trong việc quân giới" [9].
Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự),
đối với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam.
Tuy nhiên, Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp,
do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong
Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước "đồng văn đồng
chủng" mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục
xuất khỏi Nhật, Phan chuyển hướng, muốn liên kết với các nước "đồng
bệnh" - trước hết là Trung Quốc - chống lại "cường quyền". Tuy nhiên,
suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên Á (Asianism), tin rằng nếu không
có sự giúp đỡ của các nước "đồng văn đồng chủng" như Trung Quốc, Nhật
Bản... thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.
Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa rất chủ quan.
Có thể nói một trong những lý do khiến Phan thất bại là vì mặc dầu đứng
trong tư thế người lãnh đạo một phong trào chống Pháp, Phan không bao
giờ có ý định tìm hiểu về người Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày
xưa "kẻ thù của địch là bạn ta", Phan ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi
với các nước mà Phan coi là có quyền lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ:
Đức, Nga, và đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Phan cả tin và chủ quan
về những "nước bạn", rồi với trạng thái tâm lý được diễn tả và châm
biếm qua câu ca dao "Thương thì thương cả đường đi, ghét thì ghét cả
tông chi họ hàng" (hoặc "Thương thì trái ấu cũng tròn, không thương trái
bồ hòn cũng méo"), Phan tưởng rằng những "nước bạn" sẽ là những đồng
minh muôn thuở, bất luận trong tình huống nào và vô hình trung cho rằng
"Pháp là nước duy nhất có ý đồ xâm chiếm Việt Nam". Vì Phan hoạt động
trong giai đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị chưa chia phối hàng
ngũ người Việt trong nước cũng như hải ngoại, nên mặc dầu những thuật
ngữ Phan dùng có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ sau, nhưng phải
nói trạng thái tâm lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét trong quan niệm đối
ngoại của Việt Nam ít ra mãi cho đến gần đây.
Chủ trương bạo động của Phan Bội Châu tùy thời điểm có mức độ khác
nhau. Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ quân sự chống lại
Pháp, Phan gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời khuyên chí tình của
họ Lương, Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên sang Nhật du
học. Qua bút đàm, Lương khuyên Phan: "Quý quốc chớ lo không có ngày độc
lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập... Thực lực của
quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài". Mặc dầu thời kỳ Đông Du là
khoảng thời gian mà chính Phan xem là "đắc ý" nhất trong đời, Phan vẫn
còn vương vấn với khuynh hướng "bạo động" nên cũng không hết lòng tin
tưởng vào vai trò của giáo dục. Phan mượn câu nói của Mã-Chí-Nê
(Mazzini) làm chủ thuyết của mình: "Giáo dục dữ bạo động đồng thời tịnh
hành" (Giáo dục và bạo động cùng tiến hành song song) [10].
Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật (1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng
trở về Quảng Đông thành lập Quang phục Hội (1912), Phan chủ trương "bạo
động kịch liệt" nhằm "tìm cái sống trong muôn vạn cái chết" và những
mong bạo động sẽ là "môi giới để cải lương giáo dục"!
Trái hẳn với Phan Bội Châu, châm ngôn của Phan Châu Trinh là "Vọng
ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử" (Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào
nước ngoài là ngu; không nên bạo động, bạo động là chết) và "ỷ Pháp cầu
tiến bộ" mà trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền
thuộc địa nhằm mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của người
Pháp, rồi từng bước phục hồi nền độc lập quốc gia. Khi bị tù ở Côn Đảo,
Phan Châu Trinh đã từng nói: "Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có
nhờ cậy sức nước ngoài chỉ diễn cái trò 'đổi chủ làm đầy tớ lần thứ
hai', không ích gì... mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình,
Triều Tiên, Đài Loan là cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người
Pháp" [11].
Phan Châu Trinh là nhà sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền ở nước ta [12].
Ông chống bạo động, dấy phong trào duy tân "chấn dân khí, khai dân trí,
hậu dân sinh" và chủ trương "tự lực khai hóa" không phải vì ươn hèn sợ
hãi, mà bở vì ông thấy dân trí nước ta còn quá thấp. Theo ông, trong
tình trạng như vậy thì dầu có giành được độc lập "cũng không phải là
điều hành phúc cho dân". Ông là người quả cảm, có khí phách, không sợ
hiềm nghi hay gièm pha, dám đưa ra một chủ thuyết khác hầu hết mọi người
đương thời. Phan Tây Hồ là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa của nó.
Vì Phan Bội Châu theo chủ thuyết bạo động nên không phải ngẫu nhiên
mà phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc vào đầu thế kỷ
(dưới ảnh hưởng của Phan) đã học những trường quân sự, và đại đa số
những người này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động, mưu toan
ám sát người Pháp cùng những người Việt cộng tác với chính quyền thuộc
địa, hay các binh biến lẻ tẻ. Than tiếc cho sự việc này, Phan Châu Trinh
đã viết: "Phải chi dùng số người xuất dương đó phân tán trong nước, đem
trí thức, trình độ cao đó khiến cho mười mấy triệu người trong nước
cũng có trí thức cao lên để tranh dành với Pháp" [13]. Bởi
vậy, trong lời tựa của tập tự truyện "Phan Bội Châu niên biểu" mà tác
giả đã viết với sự cân nhắc và phản tỉnh sâu lắng trong tuổi già, Phan
Bội Châu ghi: "Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên lụy với tôi mà
kẻ chết người tù, họa tràn quận quốc, độc trôi đồng bào... Anh em chúng
ta nếu xem cái gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở
ra một lối thành công sau...". Phan Bội Châu khuyên đồng bào nên xem
cuộc đời họat động của mình như một "chiếc xe đã bị lật đằng trước nhằm
cảnh giác" (tiền xa phúc, hậu xa giới) mà mở lối thành công. Những lời
này của Phan Bội Châu nên được xem như là những lời phản tính và nhắn
nhủ chân thành của một nhà đại hào kiệt "có lòng thương nước" nhưng vô
tình đã "không biết cái đạo thương nước". Bình luận về Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh đã có những nhận xét sắc bén và thẳng thừng như sau:
"Ông Phan Bội Châu tư chất thông minh, chí khí rất to lớn, sớm có quan
niệm quốc gia. Trong thời đại nước Việt Nam chuộng khoa cử, ông cũng là
người có học thức lầm lạc (mậu vọng) những dụng công rất nhiều, lòng tự
tin mãnh liệt, cho nên những ưu và khuyết điểm cùng tập quán của dân tộc
Việt Nam đều ăn sâu vào não tủy ông ta. Cho nên có thể cho ông là người
xứng đáng đại biểu cho tập tánh của người Việt Nam." Hoặc giả: "Ông là
người lịch sử dân tộc trên hai ngàn năm, nào ưu điểm, nhược điểm đã hun
đúc thành con người đó" [14].
Nền độc lập mà Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cùng các sĩ phu khác
vào đầu thế kỷ hằng mơ ước ngày nay đã về trong tay người Việt. Nhưng
vấn đề dân chủ, dân trí, dân sinh mà Phan Chu Trinh hằng nhắc nhở từ đầu
thế kỷ vẫn là những vấn đề hiện thực nóng bỏng của đất nước sau chiến
tranh. Thực tâm giải quyết những vấn đề này sẽ mang lại sinh khí cho dân
tộc, đất nước nhờ đó sẽ được hồi sinh.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai nhân vật kiệt hiệt của đất
nước, nhưng chỗ đứng của họ trong cuộc hành trình dân tộc trong 100 năm
qua lại khác nhau như âm với dương. Mặc dầu chúng ta cần đánh giá vai
trò thức tỉnh hồn nước và ý thức quốc gia quốc dân của Phan Bội Châu,
nhưng đồng thời cần nhận thức rằng Sào Nam tiên sinh không phải là người
đã đề xướng dân chủ, dân trí và dân sinh. Lmà việc đó đã có tiếng nói
hùng hồn của Phan Chu Trinh. Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết
vào đầu thế kỷ, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn
diễn thuyết đâu đây.
Vĩnh Sính
Tháng 8-1999
_______________________________________
Tham khảo:
[1] "Tự phán" (TP, tức Phan Bội Châu niên
biểu) (Huế: Nhà xuất bản Anh Minh, 1956), trang 27. Khi trích dẫn từ
sách này, chúng tôi đã tham khảo nguyên văn chữ Hán và đôi khi đã sửa
đổi vài chỗ trong bản dịch quốc ngữ cho sát với nguyên văn và nghe thuận
tai hơn.
[2] Xem Nguyễn Q. Thắng, "Huỳnh Thúc Kháng - Con người và thơ văn" (Sàigòn: Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách văn hóa, 1972), trang 278
[3] Đặng Thai Mai, "Văn thơ Phan Bội Châu" (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, 1967), trang 105.
[4] Xem "Việt Nam quốc sử khảo", trong "Những tác phẩm của Phan Bội Châu" (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1982), trang 223-237.
[5] Như trên, trang 217
[6] Xem Kawamoto Kunie, "Etsunanjin no ketsuda" (Quyết đoán của người Việt), trong cuốn "Kanji minzoku ketsudan" (Quyết đoán của những dân tộc dùng chữ Hán) do Hashimoto Mantaro, Suzuki Takao và Yamada Hisamu biên soạn. (Tokyo: Taishukan Shoten, 1987), trang 481.
[7] Về các tư liệu trích trong phần này, xem "Tự phán", trang 146-154.
[8] "Tự phán", trang 150.
[9] NTT, trang 51
[10] "Tự phán", trang 53
[11] Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, "Thi tù tùng thoại" (Sàigòn: Nam Cường, 1951), trang 105.
[12] Xem Nguyễn Văn Xuân, "Phong trào Duy Tân" (Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995), trang 107.
[13] Phan Chu Trinh, "Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam" (Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp), bản dịch của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Văn Tường, trong Nguyễn Q. Thắng, "Phan Chu Trinh - Cuộc đời và tác phẩm" (TP Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1987), trang 252.
[14] Như trên, trang 251-254.
[2] Xem Nguyễn Q. Thắng, "Huỳnh Thúc Kháng - Con người và thơ văn" (Sàigòn: Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách văn hóa, 1972), trang 278
[3] Đặng Thai Mai, "Văn thơ Phan Bội Châu" (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, 1967), trang 105.
[4] Xem "Việt Nam quốc sử khảo", trong "Những tác phẩm của Phan Bội Châu" (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1982), trang 223-237.
[5] Như trên, trang 217
[6] Xem Kawamoto Kunie, "Etsunanjin no ketsuda" (Quyết đoán của người Việt), trong cuốn "Kanji minzoku ketsudan" (Quyết đoán của những dân tộc dùng chữ Hán) do Hashimoto Mantaro, Suzuki Takao và Yamada Hisamu biên soạn. (Tokyo: Taishukan Shoten, 1987), trang 481.
[7] Về các tư liệu trích trong phần này, xem "Tự phán", trang 146-154.
[8] "Tự phán", trang 150.
[9] NTT, trang 51
[10] "Tự phán", trang 53
[11] Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, "Thi tù tùng thoại" (Sàigòn: Nam Cường, 1951), trang 105.
[12] Xem Nguyễn Văn Xuân, "Phong trào Duy Tân" (Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995), trang 107.
[13] Phan Chu Trinh, "Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam" (Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp), bản dịch của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Văn Tường, trong Nguyễn Q. Thắng, "Phan Chu Trinh - Cuộc đời và tác phẩm" (TP Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1987), trang 252.
[14] Như trên, trang 251-254.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét