Khi nghiên cứu về sự phát triển của con người, tôi đã rút ra kết luận rằng sự phát triển của con người lệ thuộc vào hai yếu tố.
Yếu
tố thứ nhất mà từ xưa đến nay chúng ta vẫn bàn là hoàn cảnh khách quan,
được thể hiện tập trung bằng thể chế và luật pháp. Những yếu tố đó vừa
kiểm soát, vừa hạn chế, vừa xúc tiến con người phát triển thông qua cấu
trúc các quyền con người. Quyền con người chính là vỏ vật chất, vỏ pháp
chế của tự do. Ngày nay chúng ta không thể chỉ bàn đến tự do như là
quyền tự nhiên cổ xưa nữa, tự do hiện đại phải được khẳng định là các
quyền chính trị, các quyền xã hội, các quyền văn hóa, các quyền kinh tế.
Quyền con người bao giờ cũng được thể hiện trên cơ sở những khía cạnh
như vậy. Không có kinh tế tự do, không được buôn bán làm ăn một cách tự
do thì không có quyền tự do kinh tế. Không có các quyền tự do báo chí,
tự do ngôn luận, tự do cư trú thì con người không có các quyền tự do xã
hội. Sống trong một môi trường mà ở đấy con người không bị trừng phạt về
mặt luật pháp nhưng bị chất vấn và níu kéo bởi các yếu tố văn hoá lạc
hậu thì con người không tự do về văn hóa. Do đó, nhân quyền là sự chi
tiết hóa các quyền tự do của con người. Một không gian khách quan thuận
lợi cho sự phát triển của con người là không gian mà các quyền con người
được khẳng định một cách đầy đủ nhất.
Yếu
tố thứ hai là trạng thái tự do bên trong của mỗi con người. Nghiên cứu
các quy luật của tự do diễn ra trong đời sống tinh thần của con người là
một nửa nhiệm vụ của nghiên cứu khoa học về tự do. Khi tìm hiểu về một
trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất của con người là phong trào "Khai sáng" ở thế kỷ XVI, XVII, tôi nghĩ rằng có lẽ từ "Khai sáng" không thật đúng lắm với bản chất của cuộc cách mạng này. "Khai sáng" là
hoạt động khai mở về nhận thức của đối tượng này với đối tượng kia
nhưng xét theo những gì mà cuộc cách mạng ấy đem lại cho nhân loại thì
nên gọi đó là thời kỳ "Thức tỉnh" mới
đúng, bởi vì nhờ có phong trào ấy mà mỗi con người bỗng nhận ra mình là
một cá nhân. Tuy nhiên, rất đáng tiếc rằng cho đến bây giờ một bộ phận
lớn của nhân loại vẫn chưa nhận ra mình là ai, có nhiều người được giáo
dục rất cẩn thận cũng không nhận ra mình là ai và có nhiều dân tộc vẫn
chưa thức tỉnh một thực tế, một chân lý, một sự thật vô cùng hệ trọng
đối với tiến trình phát triển của nhân loại là: mỗi chúng ta là một cá nhân.
Tôi
cho rằng, cần phải đặt ra vấn đề nghiên cứu quy luật hình thành các cá
nhân, cấu trúc không gian tinh thần của một cá nhân và các điều kiện cần
thiết cho việc hình thành các giá trị cá nhân, hình thành cấu trúc tinh
thần lành mạnh của một cá nhân. Đó là những nhận thức rất cần thiết,
bởi vì, mỗi con người muốn trở thành một cá thể phát triển nhất thiết
phải ý thức được rằng mỗi người đều có không gian tinh thần của riêng họ
và họ phải biết rõ không gian tinh thần ấy, đồng thời để thể hiện ra
bên ngoài thì họ phải có những không gian vật chất tối thiểu nào để có
những điều kiện bình đẳng đối thoại theo những tiêu chuẩn thông thường.
Hơn nữa con người cũng cần hiểu rằng, khi những qui luật của tự do bên
trong và bên ngoài đời sống tinh thần của con người bị phá vỡ thì nó sẽ
gây ra những hỏng hóc phổ biến nào và mỗi người phải làm gì để giữ gìn
sự lành mạnh của chính mình. Đó là những mục đích chính của nghiên cứu
này.
I. KHÁI NIỆM KHÔNG GIAN TINH THẦN
1. Cái tôi là hạt nhân cơ bản của cấu trúc đời sống tinh thần
Phân tích cái Tôi là điểm xuất phát của toàn bộ việc nhận thức lại cuộc sống và con người. Bản chất của nghiên cứu cái Tôi là nghiên cứu giá trị cá nhân. Cái
tôi là hạt nhân cơ bản trong cấu trúc đời sống tinh thần của con người.
Nếu không tôn trọng cái Tôi, không tôn trọng cá nhân thì chúng ta đã
phá vỡ ngôi nhà tinh thần chứa đựng những nội dung cao quý của cuộc
sống. Cái Tôi là một không gian phức hợp, bao gồm tất cả từ cái Tôi vật
chất, cái Tôi tinh thần, cái Tôi trách nhiệm, cái Tôi quyền lực đến cái
Tôi quyền lợi, cái Tôi hưởng thụ... Nghiên cứu cấu trúc của cái Tôi
chính là nghiên cứu cấu trúc nền tảng tâm lý, nền tảng tự nhiên của các
quyền cá nhân hay nghiên cứu triết học của nhân quyền. Cái Tôi là một từ biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất nội dung của khái niệm gọi là nhân quyền. Nhân
quyền là quyền của con người mà không có con người thì không thể có
quyền của con người. Nếu không hiểu được cấu trúc tinh thần, cấu trúc
nội dung của cái Tôi thì chúng ta sẽ không hiểu con người và mọi nghiên
cứu còn lại đều không có ý nghĩa. Nghiên cứu quy luật hình thành cái
Tôi, nghiên cứu nội dung cấu trúc của cái Tôi, không gian của cái Tôi...
là nghiên cứu điểm xuất phát tạo ra các chính sách hay lý thuyết chính
trị để tạo ra một xã hội lành mạnh và phát triển.
Cái
Tôi là một không gian tinh thần trong đó không gian đầu tiên là không
gian quyền lợi, đây là không gian có liên quan đến các giá trị vật chất
như nhà cửa, xe cộ... Điều đó có nghĩa là khi nói đến cái Tôi phải nói
đến sở hữu của cái Tôi. Sở hữu vật chất là một trong những nội dung dễ
nhận biết nhất liên quan đến quyền con người. Nếu không làm rõ khái niệm
sở hữu liên quan đến một con người thì tức là chúng ta tước bỏ một phần
quan trọng để con người có thể có kinh nghiệm ban đầu về các quyền của
mình. Suy cho cùng, khi người ta lên án cái Tôi chủ yếu muốn nói đến
khía cạnh vật chất của cái Tôi. Chính cái Tôi vật chất này nếu không
được tôn trọng, không được thể hiện trong nội dung của cá quyền con
người thì nó sẽ trở thành xuất phát điểm của các hiện tượng tiêu cực như
tham nhũng. Nếu chúng ta không giải quyết thoả đáng tất cả các quy tắc
để cấu tạo nên cái Tôi chính đáng thì cái chúng ta gặt hái sẽ là hiện
tượng tham nhũng mà các nước chậm phát triển đang phải đương đầu.
Không
gian thứ hai quan trọng hơn và thường dễ bị tha hoá hơn là cái Tôi tinh
thần. Nó bao gồm không gian quyền lực, không gian trách nhiệm, không
gian nghĩa vụ, những trạng thái tâm lý, những năng lực, những giá trị
tinh thần... để phân biệt cái Tôi này với cái Tôi khác. Ranh giới của
con người này với con người kia chính là ranh giới của sự khác nhau về
mặt nội dung của không gian này. Dấu hiệu cá nhân thể hiện ở cái khác
ấy. Sự khác nhau của con người hay sự tồn tại của các cá nhân chính là
một trong những tố chất mỹ học quan trọng nhất để cấu tạo nên nhân loại.
2. Cái Tôi và cái Chúng ta
Một
trong những nội dung quan trọng của cái Tôi là cái Chúng ta. Chúng ta
là một trạng thái phát triển của cái Tôi, một trạng thái cá biệt của cái
Tôi. Chúng ta và Tôi không phải là hai không gian độc lập khác nhau.
Cái Tôi là trên hết, là nguồn gốc của mọi thứ còn lại, trong đó có cái
Chúng ta. Nhiều người vẫn luôn cho rằng cái Chúng ta bao trùm lên cái
Tôi nhưng không phải thế, cái Tôi chứa tất cả mọi thứ. Khi nào cái Chúng
ta ở bên ngoài cái Tôi, bao lên cái Tôi thì đó là trái tự nhiên.
Nếu
đặt cái Chúng ta lên trên cái Tôi sẽ làm phá vỡ định nghĩa quan trọng
nhất về con người. Tự do sinh ra con người, con người là chủ thể của sự
đàm phán và tạo ra các khế ước. Cái Chúng ta tồn tại được là nhờ những
thoả thuận mà không có những cái Tôi thì không thể có thoả thuận. Tóm
lại, cái Tôi có trước, cái Tôi chứa đựng mọi thứ, cái Tôi là điểm bắt
đầu của mọi quá trình xã hội. Nếu cái Tôi là cái bánh thì cái Chúng ta
là yếu tố tạo ra nhân của cái bánh. Cái Chúng ta là một trong những nội
dung quan trọng nhất, thể hiện tầm vóc của cái Tôi, nhưng nó không thể
thay thế cái Tôi được. Nếu không có cái Chúng ta trong cái Tôi thì anh
là một người xấu, nhưng nếu không có cái Tôi thì anh không thành con
người.
Nghiên cứu về nội dung Chúng ta sẽ giúp làm rõ không gian nghĩa vụ và trách nhiệm trong cái Tôi. Cái Tôi biến thành cái Chúng ta thông qua không gian trách nhiệm, không gian nghĩa vụ. Không
gian nghĩa vụ và trách nhiệm tạo ra phần Chúng ta trong cái Tôi, tức
tạo ra tâm lý đại diện. Do đó, cái Chúng ta chính là cơ sở của lý thuyết
đại diện. Nếu một người tự nhận là đại diện mà không ý thức được nghĩa
vụ và trách nhiệm của mình thì người đó đại diện cho ai và hy sinh cái
gì? Kẻ muốn làm đại diện thì phải biết ta đại diện cho ai, ta phải mất
cái gì để thực hiện quyền đại diện, ta phải có những năng lực nào để
hoàn tất nghĩa vụ đại diện. Tuy nhiên, nếu dừng ở mức độ hoàn tất nghĩa
vụ thì mới chỉ đủ cho sự tồn tại của xã hội chứ chưa đủ cho sự phát
triển. Có những nghĩa vụ bắt buộc và có cả những nghĩa vụ không phải là
bắt buộc mà là sứ mệnh. Ví dụ, không phải ai cũng buộc phải có trách
nhiệm hy sinh thân mình vì Tổ quốc nhưng có những người làm như thế. Như
vậy, con người vẫn luôn có những hành vi vượt ra ngoài nghĩa vụ và
trách nhiệm. Cần phải nghiên cứu cả hiện tượng này vì đó là cấu trúc
Siêu Chúng ta. Cái Siêu Chúng ta là trạng thái phát triển cao của cái
Tôi. Không
gian Siêu Chúng ta là nơi con người tiến hành những hành động bên ngoài
nghĩa vụ và trách nhiệm. Đó là những hành vi có ý nghĩa phục vụ sự phát
triển của nhân loại. Nếu chúng ta không lý giải được các hiện tượng như
vậy thì không tìm ra được lối thoát để phát triển nhân loại.Nhân
loại tồn tại bằng ý thức trách nhiệm và tinh thần nghĩa vụ nhưng nhân
loại phát triển bằng tinh thần siêu nghĩa vụ, siêu trách nhiệm, tinh
thần sứ mệnh. Ý thức nghĩa vụ và tinh thần trách nhiệm là những
phẩm chất cần và đủ để từng cái tôi tham gia vào tiến trình phát triển,
và thứ lãnh đạo chương trình phát triển ấy chính là cái Siêu Chúng ta.
Có
những cái Tôi có thể biến thành cái Siêu chúng ta, nhưng cũng có những
cá thể chỉ có thể phát triển thành cái Chúng ta, thậm chí có những cá
thể không phát triển thành cái Chúng ta được. Cái Chúng ta tạo ra trạng
thái thông thường, đó là sự tụ họp hay sự phản ánh quan hệ của những cá
thể thông thường. Còn cái Siêu Chúng ta là sự tụ họp hay phản ánh của
những mối quan hệ không thông thường. Cá thể không thông thường ấy cũng
là kết quả của cả hai quy luật: quy luật tự nhiên và quy luật tự do. Anh
có những điều kiện tự do đến mức anh trở thành người thủ lĩnh, nhưng
anh có những ràng buộc tự nhiên để có điều kiện thực hiện các ý nghĩ
siêu Chúng ta. Những
ai ý thức được về cái Chúng ta thì trở thành người đại diện còn ý thức
được về sứ mệnh, về cái Siêu Chúng ta thì trở thành nhà lãnh đạo, trở
thành yếu tố lãnh đạo.
Những
xã hội không phát triển là xã hội mà ai cũng muốn làm to nhưng không đủ
năng lực và trí tuệ để làm bất kỳ cái gì vừa vừa, tức là họ không có
cái Chúng ta, họ không nghĩ đến nghĩa vụ và sứ mệnh của người đại diện.
Đó là sự chiếm đoạt của những con thú lớn chứ không phải là sự thực thi
nhiệm vụ của người ý thức được về nghĩa vụ và sứ mệnh. Tôi không phê
phán cái Tôi mà chỉ phê phán cái Tôi không có nhân. Chúng ta vẫn thường
nghe thấy những khẩu hiệu như "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người". Nghe thì rất có lý nhưng nếu ngẫm kỹ thì rất vô trách nhiệm.
Đúng ra là mỗi cá nhân hãy lo cho mình trước rồi sẽ thấy cái chúng ta ở
trong mình. Một con người mà không biết yêu mình thì sẽ không yêu người
khác. Ví dụ, tôi yêu công ty của tôi, tôi yêu những thành viên đã tạo ra
công ty đó. Để công ty của tôi làm ăn được tôi phải yêu cái xã hội đó.
Nếu anh yêu anh một cách có trách nhiệm thì anh sẽ có Chúng ta trong
anh. Nếu anh không yêu anh thật thì anh sẽ hành động theo nhu cầu nhằm
thoả mãn anh, tức thoả mãn cái chết tinh thần của anh.
3. Sự đa dạng của đời sống tinh thần
Mỗi
một cái Tôi có những giá trị phổ biến và có cả những giá trị riêng của
nó. Giá trị phổ biến của cái Tôi tạo ra nhân loại, giá trị riêng của cái
Tôi tạo ra sự đa dạng của nhân loại. Nếu như nội dung phổ biến của cái
tôi tạo ra sự giống nhau của con người, tạo ra cái chúng ta, tạo ra xã
hội loài người thì cái khác nhau của cái Tôi tạo ra tính đa dạng. Loài
người mà không đa dạng thì không còn là loài người nữa và con người có
nhận ra mình là một cá nhân cũng không còn ý nghĩa nữa. Sự khác biệt của
những cái Tôi hay tính đa dạng của xã hội loài người là một khách quan.
Sự đa dạng tồn tại khách quan và là một thuộc tính của cuộc sống, nó là
một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng để cuộc sống được cân bằng. Sự
đa dạng tinh thần phản ánh sự tôn trọng tính đa dạng tự nhiên của cuộc
sống, nó làm tăng thêm sự đa dạng của những vật thể sống trong đời sống
tự nhiên. Ở đâu cuộc sống tốt đẹp thì sự đa dạng về tinh thần được đảm
bảo, không chỉ được đảm bảo trên thực tế mà còn được đảm bảo bằng thể
chế. Sự bền vững của tính đa dạng chính là sự bền vững của sự phát
triển.
Ở
xã hội phương Đông, con người chưa kịp tự giác để trở thành một cá nhân
thì nó đã bị bọc lại bởi cái bao của chủ nghĩa tập thể, thậm chí còn
trước đó. Chủ nghĩa tập thể đã có từ trong truyền thuyết, đấy là nhược
điểm trong nhận thức khởi đầu của đa số các dân tộc ở phương Đông, do đó
chúng ta không phát triển được. Chúng ta bao gồm các cá thể yếu phải
nương tựa vào nhau thành chủ nghĩa tập thể. Chúng ta không dám xẻ đàn
ra. Trong truyền thuyết chúng ta duy nhất chỉ có sự xẻ đàn khi 50 người
lên núi, 50 người xuống biển nhưng phải đi kèm với ông bố và bà mẹ.
Truyền thuyết này thể hiện rất rõ rệt về cái gọi là chủ nghĩa tập thể và
sự yếu kém của các cá thể. Chúng ta phải đi với nhau và phải đi với bố
hoặc mẹ, nghĩa là chúng ta phải có nhau, tức không có cái Tôi mà chỉ có
cái Chúng ta, có người lãnh đạo là bố và mẹ. Yếu tố Chúng ta ấy tố giác
một điều rất quan trọng đó là chúng ta gồm những cá thể yếu mà những cá
thể yếu thì không có hoặc ít có cái Tôi, và một cá thể yếu thì không xúc
tiến sự phát triển được. Lịch sử dân tộc do đó luôn là lịch sử đấu
tranh để giữ gìn đoàn kết, tức giữ gìn cái Chúng ta và đấu tranh để
trung thành với sự lãnh đạo của ai đó. Làm như vậy chính là duy trì
trạng thái chậm phát triển để bảo tồn các yếu tố phục vụ cho sự tồn tại
hay đấu tranh để tồn tại chứ không phải đấu tranh để phát triển. Một xã
hội văn minh là một xã hội có các cá thể trọn vẹn, tức là một cộng đồng
có tính cá thể. Một cộng đồng mà không có tính cá thể hay chất lượng cá
thể không trọn vẹn thì sẽ tan rã, bởi con người ai cũng sợ nhất sự giống
nhau và trên thực tế con người tồn tại trên nguyên lý của sự khác nhau.
Hãy thử tưởng tượng nếu con người không còn năng lực để nhận ra nhau
như một cá thể nữa thì khủng khiếp như thế nào.
Tính
đa dạng tinh thần của cuộc sống chính là năng lực hưởng ứng và hiểu
biết của cuộc sống đối với các chương trình chủ quan của nhà cầm quyền.
Rất nhiều chính phủ tưởng rằng sự đa dạng tinh thần ngăn cản sự phát
triển chính trị, ngăn cản sự phát triển kinh tế, ngăn cản sự phát triển
xã hội. Đó là sai lầm hoàn toàn. Sự đa dạng của cuộc sống làm cho cuộc
sống có những năng lực đánh giá một cách khách quan và đúng đắn giá trị
của các cố gắng chính trị của các chính phủ. Đương nhiên nó cũng có mặt
ngược lại là người ta cũng đánh giá cả những mặt tiêu cực một cách cực
kỳ nhạy cảm và chính vì sợ những đánh giá tiêu cực của các tiến trình
chính trị cho nên người ta phải đã tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống,
tức là về bản chất là tiêu diệt cuộc sống. Làm như vậy giống như bắt
cuộc sống thở theo yêu cầu chính trị mà không được thở theo đòi hỏi tự
nhiên của nó. Tính đa dạng vô cùng quan trọng, đó chính là biểu hiện
năng lực sống của xã hội. Xã hội mà không được thở theo nhu cầu của nó
thì xã hội sẽ héo hon, đơn điệu và xã hội thoái hoá.
4. Các tầng của đời sống tinh thần
Cái
tôi là hạt nhân cơ bản trong cấu trúc không gian tinh thần của mỗi con
người, vậy cái tôi ấy vận động như thế nào trong đời sống tinh thần? Để
hiểu được điều đó có lẽ chúng ta cần phải có những mường tượng rõ hơn về
các không gian hình thành trong đời sống tinh thần của nhân loại mà tôi
gọi là các tầng của đời sống tinh thần.
Tầng phổ biến nhất trong đời sống hàng ngày chính là Tầng Thực dụng.
Để tồn tại, con người phải sống ở tầng thực dụng, phải lặn lội trong
tầng thực dụng, phải giành giật trong tầng thực dụng. Nhưng nếu cho rằng
con người chỉ có tầng thực dụng thôi và xem đấu tranh giai cấp là quy
luật chi phối chủ yếu sự phát triển của loài người thì lại là sai lầm và
sai lầm này đã được chứng minh trên thực tế. Để tồn tại, con người phải
giải quyết các mâu thuẫn của tầng thứ nhất, tức là tầng thực dụng, tầng
sinh tồn. Nhưng con người không chỉ sống ở tầng thực dụng mà còn sống
cả ở Tầng Tư tưởng nữa.
Công cụ tư tưởng hình thành bên ngoài đời sống thực dụng để duy trì
những thói quen tinh thần của con người tức là làm cho những nét căn bản
của con người trong văn hóa và tư tưởng không bị biến mất. Nó là công
cụ để tập hợp, để hướng dẫn trong những hoạt động phi thực tế của con
người. Như vậy, đời sống tư tưởng là đời sống có sự hướng dẫn của hệ tư
tưởng hoặc là văn hóa, nó nằm bên trên, tách bạch ra khỏi đời sống thực
dụng của con người. Đời sống tư tưởng là đời sống hưởng thụ của con
người đối với những kinh nghiệm đã được khái quát hoá từ đời sống thực
dụng, do đó, giống như trạng thái thực dụng của con người, trạng thái tư
tưởng cũng là một trạng thái có thực.
Nhưng
đời sống tư tưởng cũng không phải là chặng cuối cùng của con người vì
con người còn phải trở nên cao thượng. Tư tưởng chỉ làm cho con người
trở nên tự giác chứ chưa làm con người trở nên cao thượng. Ngay cả ở
trong tầng tư tưởng, con người vẫn có những cuộc tranh giành ảnh hưởng,
vẫn tiếp tục có những mâu thuẫn không giải quyết nổi, con người vẫn
không thống nhất được, do đó con người vẫn có bất hạnh. Và con người đã
tìm cách khắc phục cái bất hạnh trong tầng tư tưởng của đời sống bằng Tầng lý tưởng.
Cái khiến con người trở nên cao thượng chính là các giá trị lý tưởng.
Tầng lý tưởng là nơi con người trở thành thần thánh hay là nơi con người
gặp trạng thái thần thánh của chính mình. Cái đó có thật không? Chắc
chắn là có thật. Nếu không có tầng thần thánh thì làm sao có thần thánh.
Tầng thần thánh của đời sống tinh thần con người tạo ra các thần thánh,
bởi vì thần thánh cũng vẫn là sản phẩm của con người. Đó là trạng thái
siêu thoát, trạng thái lý tưởng của con người. Đấy là nơi con người thu
xếp với nhau. Ở đó con người không đấu tranh với nhau, con người hưởng
thụ tất cả cái tinh khôi của đời sống tinh thần, tất cả sự cao quý của
đời sống tinh thần. Trong đời sống thật của con người tồn tại cả ba tầng
như vậy và con người luôn tự cân bằng giữa ba tầng ấy. Con người vừa là
con người tích cực tức là thực dụng, vừa chủ động tức là tư tưởng, vừa
hướng thiện tức là lý tưởng. Ba trạng thái ấy chính là ba trạng thái
phát triển của các phẩm chất của con người. Đấy là lối thoát tinh thần
của con người. Đấy là công nghệ sống của con người và đấy chính là hình
ảnh trọn vẹn của sự phân bố các quyền tự do lên đời sống tinh thần của
con người.
Để
duy trì được trạng thái cân bằng giữa các tầng của đời sống tinh thần,
điều kiện quan trọng nhất, có vai trò quyết định nhất mà con người cần
có là Tự do. Tự do có giá trị như là một thứ dung môi tạo ra sự dịch
chuyển tự nhiên của con người giữa các tầng khác nhau của đời sống tinh
thần. Tự
do tạo ra sự luân chuyển một cách duyên dáng các trạng thái khác nhau
của đời sống tinh thần phù hợp với đòi hỏi của đời sống cá nhân. Đó
là một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của tự do. Tự do là một
chất dầu bôi trơn để tạo ra sự trôi nổi tự nhiên của cái Tôi ở những
trạng thái khác nhau từ thực dụng đến thần thánh trong đời sống tinh
thần của con người. Nó tạo cho con người trạng thái cực kỳ đáng yêu, làm
cho con người không có những nỗi ngượng vu vơ, hoặc là vẫn giữ được sự e
lệ cần thiết của đời sống tinh thần. Con người nhiều khi có những nỗi
ngượng ngăn chặn, bóp chết rất nhiều cảm hứng, nhưng con người bằng sự
thực dụng thái quá cũng làm mất đi sự e lệ để tạo ra vẻ đẹp cần thiết
của đời sống tinh thần. Tự do tạo ra sự dịch chuyển, sự xuất hiện một
cách duyên dáng, một cách dễ chịu, một cách kịp thời những trạng thái
phù hợp với đòi hỏi của đời sống. Nếu trong con người khô cứng, thiếu
dầu bôi trơn thì nó không ở trạng thái dễ dịch chuyển, do đó, con người
rất khó vận hành để lôi ra từ trong ký ức của mình những trạng thái tinh
thần phù hợp với đòi hỏi tức thời của cuộc sống, trong trạng thái ấy,
con người rất dễ mất cân bằng.
II. TRẠNG THÁI THIẾU TỰ DO VÀ SỰ MẤT CÂN BẰNG CỦA ĐỜI SỐNG TINH THẦN
Ở
một bộ phận lớn của thế giới là khu vực chậm phát triển, hiện tượng cái
Tôi bị thoái hoá xảy ra rất phổ biến. Đây là một vấn đề cần được quan
tâm nghiên cứu bởi nếu các cá nhân, tức là các viên gạch mà hỏng thì làm
thế nào để thể xây dựng một xã hội lành mạnh, làm thế nào để thể thúc
đẩy xã hội phát triển. Theo ý kiến của tôi, cái Tôi là hình ảnh của cuộc sống được phản ánh vào trong tinh thần của mỗi cá nhân. Bàn
về sự tha hoá của cái Tôi là bàn về ảnh của cuộc sống được phản ánh vào
trong con người. Cái ảnh ấy nếu bị hỏng tức là cá nhân ấy không chụp
được một cách chính xác các cấu trúc của cuộc sống, anh ta có những dị
tật mà vì nó anh ta đã nhận dạng cuộc sống một cách méo mó. Những dị tật
ấy chỉ có thể là kết quả hoặc của sự mất cân bằng sinh học hoặc của sự
mất cần bằng trong đời sống tinh thần. Ở đây, tôi chỉ phân tích những
biểu hiện tha hoá của cái tôi như là biểu hiện của sự mất cân bằng trong
đời sống tinh thần và mối quan hệ của nó với trạng thái thiếu tự do.
1. Mối quan hệ giữa trạng thái thiếu tự do và sự mất cân bằng của đời sống tinh thần
Tại
sao đời sống tinh thần của con người lại trở nên mất cân bằng? Liệu có
mối liên hệ nào giữa trạng thái thiếu tự do với sự mất cân bằng của đời
sống tinh thần? Tôi cho rằng chính trạng thái thiếu tự do đã gây ra sự
mất cân bằng trong đời sống tinh thần của con người. Tự do là nguồn gốc
sự phát triển của con người. Nếu không có tự do thì không có tiền đề,
không có không gian ban đầu, không có sự sạch sẽ tâm hồn để con người
tiếp nhận tất cả các khả năng tìm kiếm lối thoát phát triển, tức là
không có miền năng lực. Sự hạn chế của không gian tự do bên ngoài và bên
trong đã làm cho cái tôi thoái hoá mà biểu hiện rõ rệt nhất là sự mất
mát năng lực.
Có
thể nói, trạng thái thiếu tự do là trạng thái phổ biến trên toàn thế
giới. Nói một cách chính xác là đại bộ phận con người đang ở trong trạng
thái thiếu tự do bởi vì họ không có tự do hoặc là nó bị kìm hãm không
được quyền tiếp cận với tự do, họ được giáo dục để không hiểu hết các
giới hạn mới của tự do. Điều quan trọng là họ không nhận ra rằng mình
không phải là con người. Hàng ngày, người ta vẫn được hướng dẫn là phải
đi theo con đường mà người này hay người kia chọn. Không mấy ai nhận
thức được rằng họ có quyền chọn con đường mà họ thích chứ không phải con
đường đã được chọn sẵn. Khi không có tự do về mặt tinh thần thì con
người sẽ không sáng tạo được và không thể là chính mình và do đó cũng
không thể tự chịu trách nhiệm về mình. Như vậy có nghĩa là sự mất cân
bằng trong đời sống nhận thức do tác động từ bên ngoài là một nguyên
nhân đẩy con người vào tình trạng mất năng lực.
Tình
trạng thiếu tự do không chỉ tồn tại ở bên ngoài các các thể mà nó còn
xảy ra ở bên trong mỗi cá thể, tức là trạng thái thiếu tự do còn tồn tại
dưới một dạng khác, đó là con người không tự do đối với chính mình và
con người không ý thức được sự tồn tại có thật của các tầng của đời sống
tinh thần. Đây cũng là một nguyên nhân khiến con người mất năng lực.
Chính sự thiếu tự do trong đời sống tinh thần khiến cho con người lạc
vào một tầng cá biệt của đời sống tinh thần và ngộ nhận rằng đó là tầng
duy nhất của cuộc sống. Sai lầm của con người thiếu tự do bên trong
chính là người ta nghĩ rằng mỗi một tầng như vậy là cái duy nhất. Những
người ở tầng trên khinh thường những hoạt động trong tầng dưới. Những kẻ
ở tầng dưới khinh bỉ sự vu vơ của con người ở tầng trên. Con người chỉ
không dám động chạm đến tầng thần thánh - tầng lý tưởng, vì đấy là sự
trọn vẹn của con người mà con người không dám động đến. Nhưng sự khiếp
sợ của con người đối với tầng lý tưởng cũng là một dấu hiệu tiêu cực,
bởi vì con người không đến đấy, con người chỉ đứng ngoài đấy. Con người
không đủ các phẩm hạnh tốt đẹp để có thể hưởng thụ cảm giác thần thánh
mà mình tạo ra cho chính mình thì sẽ khiếp sợ, sẽ bị khuất phục, sẽ bị
thôi miên bởi những chất lượng thần thánh của người khác. Và đấy cũng là
một biểu hiện của sự mất cân đối trong đời sống tinh thần. Nhiều người
cứ lạc mãi vào trong một tầng nào đó và không thoát ra được vì họ không
có không gian tinh thần đủ tự do để lôi họ ra khỏi sự mê muội ấy. Con
người phải đủ khả năng lên-xuống, vào-ra ở các miền khác nhau của đời
sống tinh thần. Tức là con người phải được giáo dục để hiểu rằng đời
sống tinh thần của con người bao gồm cả ba miền như vậy, con người phải
có năng lực sáng tạo ở cả ba miền ấy, phải có đủ dũng cảm và tự tin để
đi đến các miền khác nhau của đời sống, nếu không con người sẽ trở thành
kẻ khiếp nhược và mất năng lực.
2. Sự mất mát năng lực - Hệ quả của sự mất cân bằng của đời sống tinh thần
Mất năng lực phản ánh sự thật
Năng
lực đầu tiên mà con người nhận biết được là năng lực nhận thức và phản
ánh cuộc sống trung thực như cuộc sống vốn có, đó là một năng lực mang
chất lượng triết học. Cái Tôi chỉ có thể được coi là lành mạnh khi cuộc
sống và cả những biến dạng của cuộc sống được phản ánh một cách chính
xác trong nó. Do đó, ranh giới giữa cái Tôi lành mạnh và cái Tôi không
lành mạnh được xác lập theo năng lực nhận thức cuộc sống hay năng lực
phản ánh sự thật. Con người là một lăng kính đa diện, lăng kính đó có
thể phóng to và thu nhỏ các mặt khác nhau của đời sống. Xét nghiệm hình
ảnh cuộc sống trong cái Tôi sẽ hiểu được các dị tật hay khuyết tật của
con người. Sự
tha hoá của cái Tôi chính là sự biến dạng, sự mất cân đối của hình ảnh
cuộc sống trong tâm hồn mỗi con người thông qua nhận thức. Sự
tha hoá của cái Tôi một phần là do những nguyên nhân chủ động, đó là khi
con người dối trá. Dối trá là sự tha hoá chủ động, có dụng ý của cái
Tôi và con người bắt đầu mất đi sự trung thực, cũng chính là mất đi năng
lực phản ánh sự thật.
Tuy
nhiên, một nguyên nhân nữa đáng nói hơn vì nó nguy hiểm hơn, đó là việc
nhận thức sai do sự áp đặt. Khi con người nhận thức chủ quan do sự áp
đặt thì sẽ có những quyết định chủ quan. Ở một số quốc gia chậm phát
triển, con người chìm đắm trong một luồng tư tưởng 50-60 năm về mặt
chính trị, lúc nào cũng quanh quẩn với một loại tư tưởng và vì thế đã tự
tiêu diệt năng lực nhận thức một cách chủ động của mình. Nhiệm vụ của
mỗi con người phải là nhận biết cuộc sống nói gì nhưng người ta lại đào
tạo rất nhiều trí thức mà những vấn đề họ nghiên cứu không phải là cuộc
sống nói gì mà vẫn là những người vĩ đại ở thế kỷ trước nói gì. Nghĩa là
họ nhận thức cuộc sống không phải qua chính nó mà qua ảnh của nó mà ảnh
đấy được chụp từ thế kỷ trước. Ngay cả khi những người vĩ đại ấy có
năng lực phản ánh đúng sự thật cuộc sống ở thời của họ thì những điều họ
nói chưa chắc đã đúng trong thời nay. Thời của họ chưa có Internet,
chưa có điện thoại... nên họ khó mà có thể hình dung ra cuộc sống thời
nay. Là những thiên tài, họ có thể dự báo nhưng không thể hình dung được
và cũng chỉ có thể dự báo định tính chứ không thể dự báo định lượng. Họ
không thể dự báo được rằng có 2 hay 20 triệu điện thoại đang được sử
dụng ở Đức hay ở Nga và cuộc sống có 20 triệu điện thoại khác xa, thậm
chí đã khác về chất, so với cuộc sống chỉ có 2 triệu điện thoại. Nếu
tiếp tục nhận thức quá khứ thay cho nhận thức cuộc sống hiện tại có
nghĩa là tiếp tục duy trì định kiến hay giáo điều đối với mỗi cá nhân và
đó là cách chắc chắn nhất dẫn đến những cái Tôi hỏng. Đời sống tinh
thần khi đó trở nên mất cân bằng, cái Tôi không còn giá trị nhận thức
nữa, thậm chí, cái Tôi bắt đầu gây tội ác. Cái Tôi khi nhận thức sai sẽ
gây hại cho chính nó, bởi vì, về cơ bản con người nhận thức và hành động
cho những lợi ích của mình, cho nên, khi con người nhận thức sai, chụp
ảnh cuộc sống sai thì con người tự dẫn mình đến những chỗ sai và tạo ra
sự thất thiệt cho chính mình. Khi nhận thức sai, con người sẽ mắc phải
sai lầm trong quá trình tương tác với xã hội. Những sai lầm đó, đến lượt
mình, sẽ tất yếu dẫn đến những thất thiệt cả về vật chất lẫn tinh thần.
Đối diện với sự thất thiệt này, con người sẽ rơi vào cảm giác hoảng
loạn vì bị mất mát quyền lợi. Cảm giác hoảng loạn đó là điểm bắt đầu của
chu trình biến dạng của cái Tôi. Kết luận này cũng đúng đối với cái Tôi
dân tộc. Do đó, nghiên cứu cái Tôi là nghiên cứu vai trò của nhận thức
đối với hành động của một cá nhân cũng như với việc hoạch định chính
sách của một dân tộc .
Mất năng lực xấp xỉ tương lai
Con
người không có khả năng tưởng tượng ra những yếu tố mới cho sự phát
triển thì có thể là do năng lực sinh học nhưng năng lực sinh học không
phải là vấn đề nghiên cứu của bài viết này. Mục tiêu của tôi là nghiên
cứu những hạn chế phổ biến của xã hội đối với năng lực hình dung ra
tương lai của con người. Sự mất mát năng lực xấp xỉ tương lai sẽ khiến
cho con người không còn là con người lành mạnh nữa. Nói cách khác, quá
trình thoái hoá của cái Tôi chính là quá trình thoái hoá của năng lực
xấp xỉ tương lai của mỗi một cá nhân. Cho nên, khi nghiên cứu sự lành
mạnh của một xã hội, chúng ta phải nghiên cứu sự lành mạnh của quá trình
hình dung hay xấp xỉ tương lai của các cá nhân trong xã hội.
Nhận
thức là sự phản ánh của chủ thể nhận thức về đối tượng nhận thức và
trên một bình diện rộng lớn thì đấy chính là cuộc sống. Nhưng thông
thường, trình độ nhận thức của con người không đo được ngay tất cả các
khía cạnh của cuộc sống hay các giai đoạn, các trạng thái khác nhau của
cuộc sống. Có những giai đoạn có những thành tố xuất hiện mà với kinh
nghiệm tại thời điểm quan sát, con người chưa đủ năng lực để đánh giá
đúng. Cho nên, trong nhận thức có một giai đoạn suy tưởng, tức là dùng
trí tưởng tượng để hình dung về những đối tượng mới, những thành tố mới.
Đấy chính là quá trình xấp xỉ tương lai của mỗi cá nhân. Con người luôn
luôn cố gắng nhận thức một cách gần đúng tương lai của mình nhưng con
người không đoán được hết tương lai mà luôn xấp xỉ tương lai và tương
lai của con người phụ thuộc rất nhiều vào năng lực xấp xỉ ấy. Nhận thức
có thể là một quá trình cao hơn, chuyên nghiệp hơn nhưng ở đây, chúng ta
nói đến nhận thức phổ biến, tức là những nhận thức tối thiểu, về những
điều kiện cần và đủ tối thiểu để mỗi người nhận thức tương lai hay hình
dung ra tương lai của mình. Ở những xã hội như Trung Quốc hay Nga, con
người không hình dung ra tương lai của mình cho nên có những trường hợp
trở thành tỷ phú đột ngột rồi lại rơi vào tình trạng nghèo khổ một cách
đột ngột; thậm chí, có những nhà khoa học từng được xã hội kính trọng
còn bán mình cho những thế lực đen tối, đó chính là những người bị mất
cân bằng trong tương lai mà họ không có năng lực hình dung. Hoặc ví dụ
như ở xã hội chúng ta, hầu hết mọi người đều không có năng lực xấp xỉ
tương lai của mình. Từ năm 1986, chúng ta bắt đầu mở cửa và có tiền,
nhưng cũng từ đó chúng ta có thêm tất cả các khuyết tật của việc tiêu
tiền. Điều đó cho thấy khi không có năng lực xấp xỉ tương lai, con người
sẽ bị mất thăng bằng trong tương lai mà họ không dự báo được.
Tương
lai được cấu trúc từ trong quá khứ thì đấy chính là tha hoá. Thông
thường, con người có những lúc nhớ đến quá khứ và có những kỷ niệm về
quá khứ nhưng không quay lại quá khứ và sống bằng quá khứ, đấy là con
người lành mạnh. Nhưng cũng có rất nhiều người không tìm thấy tương lai
nên họ quay lại tìm chính bản thể của họ trong quá khứ và đi giật lùi
đến tương lai, đấy chính là những con người không lành mạnh. Con người
nào cũng cần phải nhìn thấy mình trong tương lai, khi con người không
còn nhìn thấy mình nữa là con người đã chết về mặt tinh thần. Khi con
người không có tương lai thì quá khứ trở thành hình mẫu của tương lai.
Con người không có khả năng tưởng tượng hay không có khả năng sáng tạo,
con người quanh quẩn với những hình mẫu cũ thì tức là con người không có
năng lực phát triển. Quá trình phát triển của một cá nhân chính là tế
bào mẫu của quá trình phát triển của xã hội, cho nên khi số đông nhìn
thấy mình trong quá khứ thì xã hội không phát triển. Con người cần phải
có năng lực hoạc định tương lai; tương lai ấy có cả bóng dáng của quá
khứ, hay nói cách khác, một tương lai có sự kế thừa quá khứ một cách rõ
ràng và đó chính là trạng thái lành mạnh nhất của con người khi hoạch
định và vươn tới tương lai.
Cần tìm cách phá bỏ các hạn chế một cách phổ biến của xã hội đối với năng lực tiếp cận tương lai của con người.
Tương lai không chỉ là lời hứa, tương lai là trạng thái ngày mai của
con người và hôm nào con người cũng cần phải có ngày mai của mình. Con
người phải hình dung tương lai một cách liên tục và đó chính là con
người lành mạnh. Nói cách khác, dấu hiệu quan trọng chứng minh sự không thoái hoá của Cái Tôi là năng lực duy trì liên tục khả năng hình dung ra tương lai.
Tương lai là quá trình duy nhất được gọi là cuộc sống, con người không
hình dung ra tương lai nữa thì đối với con người cuộc sống đã dừng lại.
Cũng như khi chúng ta tìm thấy một con người lạc vào trong rừng 20 năm,
có nghĩa là cuộc sống và sự phát triển dừng lại với người đó từ ngày anh
ta bị lạc vào trong rừng. Sự khác nhau giữa người không lạc vào trong
rừng và người lạc vào trong rừng là ở chỗ người không lạc tham gia một
cách liên tục vào cuộc sống kể từ ngày người kia bị lạc và không lạc hậu
với các nhịp điệu cuộc sống. Một dân tộc đóng cửa, không liên lạc với
thế giới bên ngoài, chỉ quanh quẩn với những vấn đề của mình, chỉ giữ
gìn bản sắc của mình thì dân tộc ấy sẽ bị bỏ quên, bị "lạc" trong
cuộc sống. Đó là lý do chúng ta phải cải cách văn hoá để có một nền văn
hoá mở tạo ra một dung môi tinh thần để ở đấy con người không lạc hậu
và có năng lực xấp xỉ, tưởng tượng ra tương lai của mình.
Mất năng lực hướng thiện
Một
trong những năng lực cơ bản quan trọng của con người là hướng thiện.
Cái thiện chính là tôn trọng các quy tắc nhân đạo. Hướng thiện thực chất
là làm tăng chất lượng của lẽ phải tâm hồn con người, là tôn trọng các
quy tắc để con người sống với nhau. Con người liên kết tất cả các lẽ
phải thông qua tình cảm của mình. Tình cảm của con người vươn tới đâu,
tạo ra mối liên kết tới đâu thì giá trị của con người hình thành đến
đấy. Đấy chính là sự phát triển toàn thiện về cả nhân cách và trí tuệ.
Khi
con người không có tự do thì con người không thể tự lập. Sự thiếu tự do
đã làm cho con người mất mát những năng lực cơ bản và trở nên những
sinh vật luôn phụ thuộc vào những nhận thức được áp đặt. Do đó mà họ
cũng mất luôn cả lòng tự trọng. Khi con người không còn lòng tự trọng
thì đương nhiên là họ cũng không có danh dự. Mặt khác, sự thiếu các điều
kiện tự do bảo đảm cho sự phát triển và tồn tại của cái Tôi trong xã
hội cũng khiến cho con người dần dần không còn cảm giác về danh dự của
mình nữa. Danh dự là một cảm giác mang chất lượng sở hữu cá nhân. Khi
nào danh dự trở thành sở hữu cá nhân thì đó chính là điểm phát triển cao
nhất của ý thức hướng thiện. Trạng thái đóng góp của các danh dự cá
nhân đôi lúc tạo ra danh dự tập thể, nhưng danh dự tập thể không phải là
trạng thái thường xuyên mà ngay cả tập thể có danh dự thì nó cũng bị
phân chia thành từng mẩu một và được chứa đựng trong từng cá nhân. Danh
dự tập thể chính là cái Chúng ta mà cái Chúng ta là nội dung của cái
Tôi. Khi cái Tôi không được bảo hộ hoặc bị tấn công hay hướng dẫn một
cách bừa bãi thì nó sẽ bị phá hoại. Phá hoại cái Tôi chính là phá hoại
những nhân tố cơ bản tạo ra xã hội. Tại sao xã hội trở nên lộn xộn? Đó
là vì cái Tôi đã bị tiêu diệt. Ở một đất nước anh hùng nhưng không ai
dám nói tôi là một cá nhân anh hùng trong tập thể anh hùng ấy thì có
nghĩa là trong tâm hồn mỗi người không có niềm tự hào cụ thể, có nghĩa
là con người không có danh dự cụ thể.
Con
người không có cảm giác danh dự thì không phải là con người. Phải có
danh dự thì mới biết thương yêu con người. Nếu tôi yêu một con người
bằng danh dự của tôi thì tôi mới trở thành một con người được. Nhân cách
của một con người phát triển cùng với tình yêu của người đó. Danh dự là
một chỉ tiêu mang chất lượng tinh thần, không có sự cân bằng của đời
sống tinh thần, không có sự nâng đỡ của tâm hồn thì con người không có
danh dự và do đó không có lối thoát phát triển. Ở những quốc gia mà con
người không có danh dự thì không thể có sự phát triển, bởi vì con người
không có danh dự thì không thể đứng trước người khác được, nhất là người
khác chủng tộc. Không đủ tự tin để đứng trước ai cả thì làm thế nào để
trở thành con người và bằng cách nào để hình thành các năng lực được?
Không
có cách gì để thiếu danh dự mà phát triển lành mạnh được. Người ta
không thể làm cho xã hội trở nên tốt đẹp nếu thiếu danh dự. Nếu thiếu
danh dự thì mọi sự phát triển đều biến thành sự phát triển của những yếu
tố tiêu cực. Một dân tộc muốn trở thành dân tộc lành mạnh thì mỗi con
người phải trở thành một con người hoàn chỉnh, cân bằng về mặt tinh
thần. Mỗi một con người phải xác nhận giá trị của mình thì mới có giá
trị đóng góp cho cuộc đời. Đấy chính là tự trọng. Tự trọng là nguồn gốc
của cảm giác danh dự. Nếu không tự trọng thì không có cảm giác danh dự,
mà không có danh dự thì con người không thể là con người lương thiện.
III. CÁC YẾU TỐ LÀM HẠN CHẾ TỰ DO
Qua
các phân tích về sự tha hóa của cái tôi, chúng ta đã thấy được những
ảnh hưởng của trạng thái thiếu tự do đối với chất ượng phát triển của
con người. Vậy cái gì ngăn cản con người, cô lập con người khỏi tự do?
Tôi cho rằng về cơ bản có hai loại nguyên nhân đến từ bên ngoài và phát
sinh từ bên trong mỗi người.
1. Sự ngăn cản của các yếu tố bên ngoài.
Không
gian vĩ mô bên ngoài là không gian có những tác động rất lớn đối với
trạng thái tự do của con người. Theo quan điểm của tôi, sự thiếu tự do ở
không gian bên ngoài chủ yếu là do sự kìm hãm của những yếu tố như Nhà
nước, Hệ Tư tưởng, Văn hoá và sự Nghèo đói.
Nhà nước: Tự
do bị kìm hãm phần lớn bởi chính quyền lợi của nhà nước, hay nói cách
khác là nó bị ràng buộc bởi nhà nước. Hầu hết các trạng thái này thuộc
về các nước chậm phát triển. Ở đó người ta sử dụng công cụ nhà nước như
là một phương tiện để bảo vệ một nhóm lợi ích nhỏ và do đó vô tình tiêu
diệt hoặc hạn chế tự do của người khác. Vậy điều đó diễn ra như thế nào?
Nhà
nước là người điều hành, điều chỉnh toàn bộ cái gọi là khế ước xã hội.
Khế ước xã hội chính là cái kho chứa đựng các quyền tự do cá thể khi nó
được góp vào, còn nhà nước chính là người điều khiển và sử dụng cái kho
tự do ấy. Nhà nước là một lực lượng xã hội bởi nếu thống kê chúng ta sẽ
thấy số lượng công chức nhà nước cũng chiếm một tỷ lệ phần trăm dân số.
Trong một chế độ chính trị mà nhà nước có đảng chính trị của nó, có quân
đội của nó, có nền kinh tế của nó, thì nó là một lực lượng xã hội có
những quyền lợi riêng, do đó có sự tranh chấp quyền lợi của nhà nước với
xã hội. Sự tranh chấp quyền lợi giữa nhà nước với xã hội góp phần hạn
chế tự do của con người. Những nhà nước như vậy là nhà nước phi dân chủ.
Ở những nhà nước phi dân chủ, phần tự do do con người góp vốn không
những không được sử dụng hiệu quả mà còn bị sử dụng như là công cụ để
kìm hãm phần tự do còn lại của con người. Con người không có quyền thảo
luận về các quyền của mình, con người bị kìm hãm bởi quyền lợi của nhà
nước thì thực ra đó là cuộc sống có chất lượng nô lệ. Thế nhưng nhiều
nhà nước vẫn cho rằng đó là thành tích của nhà nước, tức là lo cho dân.
Suy cho cùng, giải phóng nô lệ không phải chỉ vì lòng nhân đạo đối với
mỗi một con người. Sự hình thành của tất cả các hình thái nhà nước đều
có nguồn gốc từ sự đòi hỏi phát triển, tức là một hình thái nhà nước
biến mất và bị thay thế bởi một hình thái nhà nước khác tích cực hơn là
do nhu cầu của con người về một chế độ chính trị ngày càng ưu việt.
Chính vì thế, ở bất kỳ đâu mà nhà nước nói to về nghĩa vụ và thành tích
của mình lo cho dân thì đó là bằng chứng không gì hùng hồn hơn để chứng
minh sự lạc hậu về chính trị và sự chậm phát triển về kinh tế của quốc
gia đó. Tất cả những nhà nước chân chính đều được sinh ra bởi nhân dân,
đều là sản phẩm của xã hội, tức là nhân dân phải đóng thuế cho sự tồn
tại của nhà nước chứ nhà nước không lo cho sự tồn tại của nhân dân. Cần
phải lên án mạnh mẽ nếu các nhà nước vẫn tiếp tục “lo” cho dân theo
những tiêu chuẩn của nhà nước vì đó là ràng buộc tự do của người dân.
Con người không có quyền tự lo cho chính mình, không có quyền hoạch định
tương lai của mình thì tức là không có con người, không có các quyền cá
nhân. Tinh thần tự do của thời đại đòi hỏi rằng không ai có quyền nhân
danh lo cho nhân dân yên ổn mà không chú ý đến các quyền cá nhân, quyền
nhân thân cụ thể. Sự bảo hộ của nhà nước đối với đời sống của người dân
càng lớn thì tức là con người không được tôn trọng, các quyền con người
không được tôn trọng.
Nhà
nước là một ranh giới nhân tạo có tính chất tất yếu của tự do. Nhưng
điều cần lên án là những nhà nước phi dân chủ đã vượt qua cả giới hạn
tất yếu đó để kìm hãm tự do của con người, trở thành lực lượng chèn ép
cuộc sống. Đó là những nhà nước mà ở đó những quyền cơ bản của con người
không được thảo luận và đảm bảo thực thi trên thực tế. Khi nào xã hội
chưa được quyền thảo luận về quyền con người thì chưa thể phát triển
được. Không có một chính phủ tiên tiến nào có thể tạo ra sự tiên tiến
thật sự của quốc gia được nếu con người ở đó không nhận thức đầy đủ về
các quyền con người của mình. Đấy là bài học của các nước châu Á. Chính
phủ Triều Tiên tiên tiến nhưng không đồng nghĩa với xã hội Triều Tiên là
xã hội phát triển, do đó phải trả giá bởi sự khủng hoảng. Malaysia là
một nước có chính phủ tiên tiến, nhưng xã hội Malayxia cũng không phải
là một xã hội tiên tiến, do đó Malaysia không đi xa được. Vì thế tự do
chính trị là đòi hỏi không thể không chấp nhận được vì sự phát triển của
từng cá nhân con người. Vấn đề quyền con người không phải là tiêu chí
chính trị mà đó là một đòi hỏi của sự phát triển bền vững, sự phát triển
trên nền tảng phát triển của từng cá nhân. Nếu nhà nước nào không được
xây dựng trên cơ sở lý luận như vậy thì nó sẽ tiếp tục là một trong
những nhân tố gây ra sự thiếu tự do của con người.
Tư tưởng: Hệ
tư tưởng không phải là cái đích, không phải là mục tiêu của các dân tộc
mà hệ tư tưởng là phương tiện của nhận thức. Vấn đề cần lên án chính là
ở chỗ người ta áp đặt hệ tư tưởng lên trên nhận thức của con người và
tiêu diệt khả năng tự do nhận thức, tự do tư tưởng, của con người. Đó là
dấu hiệu nguy hiểm nhất của cái gọi là xây dựng cưỡng bức hệ tư tưởng.
Hệ tư tưởng được xây dựng một cách cưỡng bức làm cho con người đi theo
một cái rãnh, đi theo một trật tự logic được phổ biến, nó như con ngựa
kéo xe được đóng vào một cái xe cụ thể và để cho chắc chắn, người ta còn
bịt mắt hai bên để nó không thể rẽ. Có thể gọi đó là trạng thái bịt mắt
con người có định hướng, khi bịt mắt con người có định hướng thì tức là
con người chỉ có một khuynh hướng để lựa chọn. Khi đó hệ tư tưởng trở
thành hệ bánh lái trói buộc con người vào một khuynh hướng. Vậy sự trói
buộc con người vào một khuynh hướng là tốt hay không tốt? Trong những
quá trình phát triển tự nhiên trong một giai đoạn cụ thể mà chúng ta có
thể tiên lượng rằng xã hội cần phải nhất quán về mặt khuynh hướng để
giải quyết một nhiệm vụ có chất lượng chiến lược của cuộc sống thì việc
tạo ra các khuynh hướng nhất quán có thể có ích, tuy vậy vẫn trái với tự
nhiên. Nhưng tới một thời điểm nào đó mà cuộc sống buộc phải rẽ thì
những kẻ bị bịt mắt có định hướng không rẽ được và nó tạo ra rủi ro cho
chính nó. Cho nên tự do về tư tưởng, không áp đặt về các hệ tư tưởng
chính là tạo ra khả năng để con người chống lại sự rủi ro trong quá
trình phát triển, trong quá trình diễn biến một cách hoàn toàn ngẫu
nhiên, hoàn toàn tự nhiên của cuộc sống. Hay nói cách khác, chống lại
việc trói buộc vào các tiêu chuẩn giáo điều hoặc nhất quán của một hệ tư
tưởng là nâng cao năng lực chống lại rủi ro. Cần phải nâng cao năng lực
chống lại rủi ro bằng việc trả lại cho con người sự đa dạng tinh thần
vốn có và cần phải có. Khi con người định kiến, con người nói rằng gạo
là thực phẩm duy nhất, ăn cơm là việc bắt buộc không chỉ do nhu cầu ăn
mà còn là củng cố thêm truyền thống văn hóa của dân tộc, bởi chúng ta
không ăn cơm nữa thì chúng ta không cần đũa. Khi dân tộc chúng ta mà
không ăn đũa nữa thì tất cả các bản sắc văn hóa của chúng ta sẽ dần dần
biến mất. Nếu một ngày nào đó mà người ta không ăn đũa nữa thì tất cả
các bản sắc ấy mất đi cùng một lúc, đấy là nỗi lo của các nhà chính trị.
Nhưng nếu chúng ta không trói buộc con người, không bắt con người buộc
phải ăn một thứ là cơm thì con người sẽ hiểu rằng nếu không tìm được gạo
thì có thể lấy những thứ gì thay thế, do đó tỷ lệ rủi ro là chết đói sẽ
giảm xuống rất nhiều. Còn nếu như giáo dục con người là chỉ có gạo mới
ăn được thì chỉ có một số kẻ còn giữ được ý chí tự do của mình là sống
sót thôi, bởi nó ương bướng không chịu ăn theo chỉ dẫn nên nó biết có
nhiều thứ khác có thể ăn được.
Cái sai lầm của con người là đã sử dụng đời sống tư tưởng để lãnh đạo đời sống thực dụng của con người.Toàn
bộ tấn bi kịch của thế kỷ XX và một vài thế kỷ trước đó là người ta đã
để cho đời sống tư tưởng lãnh đạo đời sống thực dụng và làm kìm hãm sự
phát triển. Chúng ta có nhiều thế kỷ mà tư tưởng đã trở thành
yếu tố thống trị không gian nội dung của sự phát triển, đến mức người ta
có từ "chủ nghĩa", và
người ta nghĩ rằng nếu không có một chủ nghĩa nào đó thì con người
không phát triển được. Rất nhiều người vào giờ phút này không thể tưởng
tượng được về cuộc sống không có công cụ lý luận hay không có công cụ tư
tưởng và xem công cụ tư tưởng như là vũ khí duy nhất của sự phát triển.
Nhưng thực tế đã chứng minh rằng những thứ được gọi là "chủ nghĩa" ấy
đã làm xã hội đi giật lùi đến sự phát triển. Sự áp đặt tư tưởng làm con
người thoái hoá trong đời sống tinh thần. Khi đó con người mất đi ý chí
và sự dũng cảm vươn tới trạng thái tự do về mặt tinh thần để hưởng thụ,
để hoạch định tương lai chủ động của mình. Sự tan rã về mặt tinh thần
làm cho con người không thấy tương lai chứ không phải chỉ có sự nghèo
khổ làm cho con người không thấy tương lai. Tương lai luôn luôn là một
bộ phận của những phần lành mạnh trong đời sống tinh thần của con người,
vì thế mỗi một con người cần phải có cuộc sống lành mạnh bên trong
không gian tinh thần của mình, tức là có các gien của đời sống tương
lai.
Một
khía cạnh nữa cần lên án là tính quá đát của hệ tư tưởng như là kết quả
của tính bảo thủ hay là tính lười biếng của con người. Con người thường
có xu hướng bám chặt vào các nguyên lý mà mình nhận thức để làm tiêu
chí, làm công nghệ cho hành động của mình. Do đó, con người không dám
tiếp tục nhận thức chủ động mà vẫn bám giữ các hệ giá trị được xây dựng
bởi hệ tư tưởng cũ và nó tạo ra tính lạc hậu của hệ tư tưởng đối với sự
phát triển của đời sống. Điều này biến hệ tư tưởng trở thành một trong
những tác nhân góp phần hạn chế sự phát triển thông qua việc kìm hãm
nhận thức, kìm hãm tự do của con người.
Văn hoá: Văn
hóa là tất cả những gì hình thành sau một chặng của sự phát triển có
chất lượng lịch sử. Đó chính là môi trường tinh thần của con người, và
môi trường này cũng có khả năng trói buộc con người, hạn chế tự do của
con người. Sự ràng buộc về văn hóa cũng làm giảm khả năng tự do, giảm
chất lượng tự do của con người và làm cho con người không đủ năng lực để
thỏa mãn đòi hỏi của thời đại.
Nói
đến sự kìm hãm của văn hoá đối với tự do của con người không thể không
nói về sự đơn nguyên hoá về văn hoá, hệ quả của những áp đặt chính trị.
Biểu hiện của sự đơn nguyên hoá về văn hoá là một nền văn hoá không lành
mạnh và phi tự nhiên. Ở đâu các giá trị văn hoá được thể hiện dưới dạng
đa nguyên hay các nguyên của đời sống con người được tôn trọng một cách
công bằng thì ở đấy văn hoá được hình thành một cách lành mạnh hay hệ
quả của nền văn hoá ấy là lành mạnh. Ngược lại, một nền văn hoá không
lành mạnh là nền văn hoá mà ở đấy người ta sử dụng công cụ nhà nước để
áp đặt một số giá trị và làm biến mất tất cả các giá trị khác. Ở không
ít quốc gia, nhất là những quốc gia chậm phát triển, nền văn hoá bị biến
thành công cụ chính trị và bị thao túng cho những mục đích chính trị và
hậu quả là nền văn hoá trở nên lạc hậu, nền văn hoá đó không hỗ trợ sự
phát triển. Các giá trị nội tại của một nền văn hoá luôn là chất xúc tác
cho sự phát triển các giá trị cá nhân, tạo ra sự phát triển đa dạng của
cộng đồng xã hội. Khi bị thao túng vì những động cơ chính trị khác nhau
văn hóa sẽ trở thành vật cản cho sự phát triển đa dạng của cuộc sống,
tức là ngăn cản tự do của con người. Những yếu tố cực đoan của văn hoá
làm biến dạng sự hình thành của nhân cách và giá trị con người. Sự phong
phú trong nhận thức của con người chính là vũ khí quan trọng nhất giúp
con người ứng phó với cuộc sống. Khi những người cầm quyền, bằng sức
mạnh chính trị của mình, cố gắng tiêu diệt tính đa dạng của văn hoá, họ
đã không hiểu rằng chính họ đang tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống mà
tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống chính là làm cho con người "chết"
ngay cả khi họ đang sống.
Văn
hóa là hệ thống thói quen, là không gian tinh thần để hỗ trợ cho các
hành vi. Mỗi một nền văn hóa đều hỗ trợ tích cực cho một số loại hành vi
nào đó. Nếu một nền văn hóa mà chỉ hỗ trợ một vài loại hành vi, không
hỗ trợ, không khuyến khích và không thuận tiện cho các loại hành vi thì
chính là giới hạn số lượng chủng loại các hành vi của con người. Mà con
người bị giới hạn bởi một số lượng hẹp các hành vi thì nó sẽ bị giới hạn
ở một số lượng hẹp các cơ hội. Con người càng ít năng lực để làm phong
phú chủng loại hành vi của mình thì con người càng ít khả năng nhặt
nhạnh cơ hội. Sự phong phú về hành vi tạo ra cơ hội và biến cơ hội trở
thành có ích, cho nên nền văn hóa càng cởi mở càng hỗ trợ con người có
nhiều chủng loại hành vi. Con người càng phong phú về chủng loại hành vi
thì con người càng tiếp cận được với nhiều cơ hội, con người tiếp cận
được với nhiều cơ hội thì dân tộc mà nó cấu tạo ra sẽ dễ phát triển hơn.
Sự nghèo đói: Sự
nghèo đói cũng hạn chế không gian tinh thần, không gian tự do của con
người. Ví dụ, một người muốn đến nước Mỹ thăm quan nhưng không có tiền
nên không đi được. Sự không có tiền đã hạn chế tự do của họ đến nước Mỹ
mặc dù không ai cấm họ. Nhà nước không cấm, văn hóa không cấm, hệ tư
tưởng không cấm nhưng túi tiền của họ cấm. Sự hạn hẹp về các điều kiện
vật chất được gọi là sự nghèo đói làm hạn chế tự do của con người, bởi
dưới mức nghèo đói thì con người không còn là con người nữa, ở trạng
thái đó con người không thể có tự do.
Ba
yếu tố đầu là tất yếu nhân tạo còn cái cuối cùng là tất yếu tự nhiên.
Khi đã hội tụ đủ điều kiện là con người không tự do về tư tưởng, nhà
nước không phải sinh ra để phục vụ con người và văn hóa chỉ là công cụ
tinh thần để bảo trợ một thể chế chính trị lạc hậu thì nghèo đói là một
tất yếu tự nhiên. Sự nghèo đói là cách để duy trì trạng thái thiếu tự do
của con người ở quy mô rộng lớn đến mức các nhà chính trị thường hay
lợi dụng việc khắc phục nghèo đói để hạn chế tự do của con người. Họ
tuyên truyền và làm cho con người tưởng rằng đó là biện pháp chính trị
duy nhất đúng và cần thiết để thực thi quyền con người. Chỉ cần quyền
không có nghèo đói là đủ, còn tự do báo chí, tự do này, tự do khác... là
ngăn cản quá trình khắc phục hiện tượng nghèo đói. Tôi cho rằng hiện
tượng nghèo đói là hệ quả tất yếu của sự thiếu tự do chính trị và nó
đang được tận dụng để làm biến mất các quyền tự do chính trị. Chúng ta
phải chứng minh rằng sự thiếu tự do chính trị, thiếu tự do tư tưởng,
thiếu tự do văn hóa làm cho con người không ra khỏi quá khứ của mình,
không ra khỏi các thói quen của mình. Đó là nguyên nhân của sự không
phát triển của một cá thể và do đó là nguyên nhân nghèo đói của người
đó. Nếu chứng minh được sự mất mát các quyền tự do chính trị, văn hóa và
tư tưởng là cha đẻ của sự nghèo đói thì chúng ta đã chống lại được
khuynh hướng sử dụng nghèo đói như là một lý do để khất lần các quyền
con người.
Tuy
nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần giỡ bỏ sự kìm kẹp tự do
của nhà nước là có thể giảm thiểu vai trò hạn chế tự do của ba yếu tố
kia. Nhà nước không phải là tất cả bởi nếu con người không xác lập sự tự
do tư tưởng của chính mình thì nhà nước mới trở thành nguy cơ duy nhất,
nguy cơ có tính chất gốc. Con người càng chấp nhận tình trạng lệ thuộc
về mặt chính trị, tư tưởng thì càng đẩy nhà nước đến chỗ lộng hành và áp
đặt. Không một ai làm cho người ta hết nghèo đói được, con người phải
tự tạo ra sự không nghèo đói của mình, phải tự khắc phục hiện tượng
nghèo đói của mình. Con người muốn tự khắc phục được sự nghèo đói của
mình thì con người phải được giải phóng ra khỏi đời sống tinh thần bị
giam hãm và con người phải biết dịch chuyển một cách tự do bên trong đời
sống tinh thần của mình.
2. Sự níu kéo từ bên trong không gian tinh thần của mỗi cá nhân
Trạng thái không ra khỏi quá khứ
Những
yếu tố ngăn cản tự do của con người không chỉ đến từ môi trường khách
quan bên ngoài mà nó còn nảy sinh từ bên trong không gian tinh thần của
mỗi con người. Như đã nói ở phần đầu, con người phát triển được hay
không còn phụ thuộc vào một yếu tố rất quan trọng, đó là tự do đối với
chính họ. Hãy hình dung rằng mỗi một ngày, một giờ, thậm chí mỗi một
phút, con người đi đến tương lai của mình. Nếu chúng ta nhìn sự dịch
chuyển của con người và đánh dấu tọa độ tọa độ tinh thần của nó, chúng
ta sẽ tìm được khuynh hướng dịch chuyển của nó. Khi các tọa độ tinh thần
của con người không đi theo, không biến diễn theo những khuynh hướng mà
xã hội xác nhận như những khuynh hướng tích cực thì chúng ta cần phải
nghiên cứu về tự do bên trong của nó, tức là tự do thuộc về miền tinh
thần của con người. Có rất nhiều lý do khiến con người trở nên không tự
do với chính mình nhưng nhìn nhận một cách khái quát và khách quan thì
những thành tố của quá khứ là những đối tượng dễ làm cho con người trở
nên mất tự do nhất. Hiện tượng bị quá khứ hấp dẫn là hiện tượng phổ biến
đối với nhân loại. Tất cả các dân tộc đều khó chia tay với quá khứ của
mình, dân tộc nào cũng tập hợp những dấu hiệu đặc trưng cho quá khứ của
mình. Ví dụ, người Nga có muối và bánh mì, có các Sa hoàng, có Giáo hội
chính thống Nga. Người Nga vẫn rùng mình mỗi khi nói về Kremli, nói về
Cung điện Mùa đông, Cung điện Mùa hè. Vậy thì cái gì trong quá khứ làm
quá khứ trở nên hấp dẫn và quan trọng đối với con người như vậy? Sự hấp
dẫn của quá khứ có phải là chính nó hay không hay là vì con người bất
lực trước tương lai và con người kéo lê quá khứ đi cùng với mình?
Con
người, cũng như toàn bộ thế giới, không thể tồn tại bên ngoài thời
gian. Theo bản năng, con người thường hướng về tương lai thế nhưng trên
thực tế thì tương lai và hiện tại đều do quá khứ chi phối. Con người
luôn luôn đánh giá mọi sự vật, hiện tượng bằng những thước đo của quá
khứ và họ cũng được đánh giá qua tất cả những gì họ làm trong quá khứ.
Quá khứ là cơ sở xác định giá trị con người, không gian tinh thần của
mỗi người với tất cả các thành tố của nó chính là toàn bộ quá khứ của
người đó.
Định kiến
Nói
đến trạng thái không tự do với quá khứ của con người không thể không
nói về định kiến vì nó là một nguyên nhân quan trọng gây ra trạng thái
thiếu tự do bên trong không gian tinh thần của con người. Như đã nói ở
trên, cái Tôi là hình ảnh của cuộc sống được phản ánh vào một cá nhân,
khi cuộc sống thay đổi mà cái ảnh của nó không thay đổi thì đó là định
kiến. Định kiến là trạng thái tự thưởng thức một cách lười biếng các giá trị của nhận thức trong một khoảng thời gian lâu tới mức bất hợp lý.
Định kiến được hình thành trong những thành tựu nhận thức, định kiến là
thói quen tư tưởng, thói quen suy nghĩ, thói quen sử dụng một số chân
lý phổ biến. Định kiến không phải là các nhận thức sai nhưng là sự lưu
giữ sai thời hạn của một nhận thức, do đó, nó ngăn cản con người tiếp
nhận những giá trị nhận thức mới.
Thông
thường, con người sợ thay đổi. Cảm giác sợ thay đổi là một biểu hiện
của định kiến. Tôi lấy ví dụ về việc làm kinh tế tư bản tư nhân. Bỏ qua
những kẻ bất chính, bỏ qua những con người làm mà không có cân nhắc, suy
nghĩ thì có nhiều người rất dị ứng với buôn bán thương mại. Có một thời
kỳ rất dài tôi cũng bị căn bệnh ấy. Tôi không thích buôn bán, tôi thấy
nó không trong sáng, nó không đẹp, nó không tạo cho tôi cảm giác thú vị
và tôi né tránh việc buôn bán. Tôi ngồi một chỗ để chờ đợi cái gì hợp lý
hơn, để chờ đợi chính tôi nhận ra những sự hợp lý khác để không phải
buôn bán. Cuối cùng cái thay đổi trong tôi lại chính là buôn bán không
phải là một việc xấu. Vậy cái gì ngăn trở tôi trở thành một thương nhân?
Đấy chính là định kiến của tôi, là sự thiếu tự do của tôi trong việc
dịch chuyển tôi từ một cán bộ thành một nhà buôn. Vậy tự do tinh thần
của con người có cần không? Chính tự do tinh thần là nền tảng ban đầu để
chuẩn bị các hành vi thích hợp. Vì có định kiến rằng thương nhân là
những người lừa đảo, buôn bán là một hành vi lừa đảo nên tôi dậm chân
trước cái điểm ấy, không ra khỏi được. Nói cách khác, tôi bị định kiến
của mình về loại hành vi ấy trói buộc đến mức tôi không làm được mặc dù
khi làm xong rồi thì mới thấy rằng nó cũng cao quý, nó cũng tích cực, nó
cũng không kém gì những thứ mà tôi nghĩ trước đó.
Nói
như vậy cũng không có nghĩa là phải xoá bỏ một cách hoàn toàn trạng
thái định kiến của con người. Nhiều người lên án định kiến mà không biết
rằng định kiến là một trong những khuyết tật tất yếu của đời sống tinh
thần con người. Thực ra trong mỗi con người luôn luôn tồn tại trạng thái
tiền định kiến và đó là một loại khả năng. Một con người mà không có
khả năng để có định kiến thì tức là con người ấy không có khả năng để có
ý kiến. Một kẻ không có năng lực có ý kiến độc lập và kiên định với ý
kiến độc lập của mình tức là kẻ ấy ở trong trạng thái được gọi là trạng
thái thiểu năng tinh thần của con người. Người không có năng lực để có
định kiến sẽ không có năng lực để kiểm soát khuynh hướng hành động của
mình trong tương lai và trở thành kẻ trôi dạt giữa ý kiến của những
người khác. Vấn đề là giải quyết với con người như thế nào để con người
không dùng một ý kiến để tác động lên hai đối tượng đòi hỏi những kiến
giải hoàn toàn khác nhau. Nếu lý giải các sự việc một cách sai lạc con
người sẽ tác động vào các đối tượng khác bằng các ý kiến sai lạc, bằng
những ý kiến không phù hợp với các quy luật vận động của đối tượng mà
mình tác động, tức là con người không tự do hành động trước những đối
tượng đó. Rõ ràng đối với mỗi cá nhân thì tự do bên trong không gian
tinh thần mất đi hàng ngày hàng giờ thông qua định kiến. Chính vì thế
con người luôn luôn phải đo đạc lại độ chuẩn xác của các ý kiến của mình
ngày hôm nay để ngày mai có được nhận thức đúng hơn, để có thể đi tiếp
nếu không sẽ bị kéo giật lùi lại quá khứ. Mà để làm được như vậy thì con
người phải tự do, không gian tinh thần của con người phải là một không
gian tự do để cho con người có thể thay đổi ý nghĩ được, để giúp con
người có thể nhẹ nhàng dịch chuyển từ nhận định này, nhận thức này, kết
luận này sang nhận định khác, nhận thức khác và những kết luận khác.
Sự nuối tiếc
Con
người không ra khỏi quá khứ một phần do tâm lý ngại thay đổi, vì vậy họ
sẵn sàng thưởng thức một cách lười biếng các giá trị của quá khứ trong
một khoảng thời gian lâu tới mức bất hợp lý. Nhưng không phải chỉ có
thế, con người còn có một tâm lý phổ biến khác là tâm lý nuối tiếc.
Chính vì sự nuối tiếc các thành tựu trong quá khứ mà con người cũng
không ra khỏi quá khứ của mình. Con người không ra khỏi quá khứ của mình
được vì cứ tưởng rằng cái chỗ mình vừa đạt được đến là quyền lợi, là
hạnh phúc thật của mình. Do đó, con người ôm khư khư cái vật mà mình
nhặt được trong các tiến trình hành động của mình mà không biết rằng đó
có thể là rủi ro. Nuối tiếc là không tự do, nuối tiếc bộc lộ toàn bộ
tính chất ngẫu nhiên của các thành tựu mà mình có.
Các
thành tựu trong quá khứ là cơ sở của lòng tự hào của con người. Chỉ có
lòng tự hào được xác lập trên những thành tựu của hoạt động trí tuệ,
hoạt động đạo đức, hoạt động xã hội của một con người mới là lòng tự hào
chân chính. Và lòng tự hào ấy là sức mạnh để con người đi đến tương
lai. Còn lòng tự hào được xác lập bởi những thành tựu nhặt được thì luôn
luôn níu kéo con người trở lại với quá khứ. Thành tựu mà con người có
do nhặt được thì nó lệ thuộc vào địa điểm và trạng thái nơi họ nhặt được
nó, chính vì thế mà họ không dám ra khỏi cái địa điểm ấy. Còn nếu như
thành tựu ấy do họ tạo ra thì lòng tự hào ấy đi cùng với họ chứ nó không
trói họ vào một địa điểm nào cả. Lòng tự hào là ảnh của thành tựu trong
tâm hồn con người. Nếu con người không thật tạo ra thành tựu thì không
có hình ảnh thành tựu trong đời sống tâm hồn của nó. Những hình ảnh được
tô vẽ trên cửa miệng của một người có sự khác biệt về bản chất so với
những hình ảnh sinh động trong đời sống tâm hồn con người. Thành tựu của
con người là kết quả của tự do, kết quả của sáng tạo, cho nên ảnh của
nó trong tâm hồn con người cũng tự do. Một con người không có các thành
tựu là kết quả của chính mình thì ảnh của nó không tự do và miền tinh
thần của của người đó là một miền đầy những thứ bịa đặt. Họ không dám
động cựa, không dám dịch chuyển vì sợ mất đi ảo ảnh, giống như sợ khi
thức dậy thì tan mất giấc mơ hạnh phúc.
Chính
cái tâm lý nuối tiếc khiến con người nhặt nhạnh dọc đường tất cả những
quả thực trong quá khứ để đi đến tương lai. Con người cần phải hiểu rằng
họ không cần nhặt nhạnh cái gì trong quá khứ cả vì cái gì đã ở trong
quá khứ thì nó đã tạo ra quá khứ rồi, giá trị quá khứ ấy theo con người
trong tâm hồn chứ không phải trong cái ba lô của họ. Con người nhặt
những quả thực trong quá khứ để đi đến tương lai thì con người không thể
đi được. Kẻ tìm ra tương lai mà đã có kinh nghiệm hùng mạnh ở quá khứ
sẽ biết rằng trong tương lai ấy có thể kiếm được cái gì mà không cần
phải mang theo những hành trang có sẵn của quá khứ. Chỉ có những kẻ dò
dẫm đến tương lai của người khác thì mới cần mang theo hành trang mà
thôi. Hành trang để đi đến tương lai thật sự của con người nằm trong
chính tâm hồn và kinh nghiệm của người ấy, không phải nhặt nhạnh gì cả.
Kẻ nhặt nhạnh chính là kẻ không tạo ra quá khứ, không có ảnh của các
thành tựu trong đời sống tâm hồn, đời sống trí tuệ của mình và đó là một
trong những biểu hiện của trạng thái thiếu tự do tinh thần.
Chối
bỏ là một hiện tượng tương tự. Chối bỏ chính là một động thái tinh thần
để thể hiện sự từ chối những thất bại thuộc về trách nhiệm của mình. Cả
chối bỏ lẫn nuối tiếc đều là hai cực của sự sai trái của con người về
nhận thức, về vai trò chủ động của mình trong việc kiến tạo ra cuộc sống
của mình. Người ta tưởng nhầm rằng đó là thất bại của mình cũng như
người ta tưởng nhầm đó là thành tựu của mình. Cả chối bỏ lẫn nuối tiếc
là những hiện tượng tinh thần có thật nhưng có thật trên sự nhầm lẫn của
con người. Tuy nhiên con người có quyền nhầm lẫn, con người có quyền
chối bỏ lẫn nuối tiếc. Chúng ta không công kích vào cả nuối tiếc lẫn
chối bỏ, tức là không công kích vào sự nhầm lẫn của con người, bởi vì
nhầm lẫn là đương nhiên, nhầm lẫn là một nội dung của đời sống con
người, công kích vào nó thì sai, nhưng bảo cho họ biết rằng anh nhầm lẫn
thì đúng. Cần phải giúp con người hiểu rằng cả nuối tiếc lẫn chối bỏ
đều là kết quả của sự nhầm lẫn, là trạng thái thiếu tự do mà con người
cần phải khắc phục để có thể có được một tương lai tốt đẹp.
IV. XÁC LẬP LẠI SỰ CÂN BẰNG CỦA ĐỜI SỐNG TINH THẦN
1. Bảo vệ sự đa dạng của đời sống tinh thần
Để
giữ gìn sự cân bằng của đời sống tinh thần, trước hết con người phải
tôn trọng và bảo vệ sự đa dạng của đời sống tinh thần. Sự đa dạng của
đời sống tinh thần là nguồn gốc của tất cả mọi năng lực và triển vọng
của con người, là nguyên lý quan trọng để mỗi người tổ chức cuộc sống. Cần
phải chăm sóc và bảo vệ sự đa dạng tinh thần vì nó đảm bảo cho khả năng
tương thích của con người đối với các điều kiện sống khác nhau.
Khi
con người không có sự phong phú, đa dạng về mặt nhận thức thì sẽ rơi
vào trạng thái đơn điệu về mặt nhận thức và năng lực ứng phó, năng lực
thích nghi của con người sẽ giảm đi rất nhiều và do đó nguy cơ rủi ro
dội xuống đầu con người cũng lớn hơn rất nhiều. Nếu không có sự đa dạng
tinh thần thì con người có nguy cơ nghe theo những hướng dẫn phiến diện
mà không đủ năng lực để nhận ra tính rủi ro của nó. Chẳng hạn, khi con
người được hướng dẫn rằng tất cả những thứ bên phải đều đẹp thì tất cả
mọi người khi ra đường đều nhìn về bên phải và những cơ hội ở bên trái
sẽ bị bỏ qua. Thậm chí, con người đi giằng xé những cái đẹp ở bên phải
và gây tắc nghẽn giao thông ở bên phải trong khi ở bên trái lại thưa
thớt. Những hướng dẫn sai như vậy đã góp phần tạo ra dị tật phổ biến của
con người. Nhiệm vụ của con người là phải biết chống và khắc phục sự
hướng dẫn sai tạo ra dị tật phổ biến trong nhận thức của mình. Cuộc sống
diễn biến khôn cùng, liên tục, do vậy, các quy tắc hướng dẫn đều có thể
lạc hậu cùng với cuộc sống. Một cái đẹp năm nay có thể lạc hậu so với
sang năm. Cho nên, phải tạo ra tính đa dạng để giúp con người không lúc
nào bị lạc hậu, tức là con người luôn luôn có những phương án khác nhau,
những cách thức khác nhau đủ phong phú để có thể thích nghi với những
biến đổi của cuộc sống.
Đảm
bảo sự đa dạng tinh thần là cách thức quan trọng nhất và duy nhất để
chống lại sự thoái hoá của năng lực bởi vì sự đa dạng tinh thần chính là
phương án nhận thức của con người và nhờ có nó mà con người trưởng
thành trong quá trình phát triển của nhận thức. Nếu con người để cho
mình phát triển một cách đa dạng thì con người sẽ có những năng lực tiềm
ẩn để vào những lúc cần thiết, bằng tầm nhìn họ sẽ huấn luyện khả năng
để chuẩn bị, để phá vỡ các ranh giới của tất yếu đối với loại năng lực
đã có và tạo ra những ranh giới mới của tất yếu đối với những năng lực
mới xuất hiện. Chính sự đa dạng các năng lực giúp con người tìm thấy các
ranh giới mới, các triển vọng mới.
Sự
phong phú của tinh thần con người chính là cái kho tiềm ẩn các giải
pháp để để ứng phó với đời sống phát triển hay giúp con người chớp được
thời cơ cho sự phát triển. Chính sự phong phú, đa dạng của các phôi kinh
nghiệm tạo ra sự ứng phó với sự phát triển và nó tạo ra mầm mống của sự
phát triển, giúp con người không bỏ lỡ cơ hội của sự phát triển. Nếu
con người không phong phú thì con người không có các kinh nghiệm tình
huống, con người không ứng xử đủ nhanh để tạo ra các giải pháp phát
triển và do đó con người luôn lỡ nhịp trong sự phát triển. Cho nên việc
chăm sóc, việc duy trì, việc phát triển cái sự đa dạng tinh thần của con
người là một bài toán có chất lượng cách mạng đối với việc duy trì và
phát triển sự sống
Sự
đa dạng của đời sống tinh thần chỉ có thể được duy trì và phát huy tác
dụng của nó trong điều kiện có tự do. Tự do để làm gì? Để cho các yếu tố
khác nhau có cơ hội thay thế địa vị dẫn dắt xã hội phát triển. Nếu tiêu
diệt tất cả các yếu tố ngoài yếu tố đang thống trị thì con người lấy gì
làm công cụ thay thế vào những tình huống cần thiết? Sự lệ thuộc hoàn
toàn vào một yếu tố lãnh đạo duy nhất là rủi ro lớn nhất của con người,
nhất là khi nó trở nên thoái hoá bởi vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào
trong cuộc sống đều có thể bị thoái hoá. Nếu không có tự do thì người ta
không thay thế những yếu tố khác nhau trở thành yếu tố chủ đạo được.
Cho nên, sự đa dạng tinh thần đảm bảo mọi cái đều tồn tại và tự do đảm
bảo cho mọi cái có thể thay thế nhau trở thành yếu tố chủ đạo lãnh đạo
sự phát triển.
2. Khuyến khích năng lực tự giải phóng của cá nhân
Nghiên
cứu về không gian tinh thần chính là nghiên cứu công nghệ để con người
đạt đến trạng thái sung mãn trong năng lực sáng tạo cũng như năng lực
thỏa mãn các đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Đó cũng chính là cách để
giữ cho đời sống tinh thần của con người được cân bằng, để con người
không rơi vào trạng thái tha hoá. Muốn đạt đến trạng thái đó, trước hết
con người phải ý thức được về nghĩa vụ tự giải phóng của mình. Vậy con
người giải phóng mình bằng cách nào?
Thứ nhất, con người phải chủ động phấn đấu để biến tự do thành năng lực của mình. Có
những người có rất nhiều quyền tự do nhưng không tạo ra được cảm giác
tự do ở bên trong là vì lười biếng. Họ không phấn đấu nên không thể biến
tự do thành năng lực của mình. Không phấn đấu là không có năng lực.
Biến các quyền tự do bên ngoài trở thành năng lực tự do bên trong chính
là khởi đầu của quá trình sáng tạo của con người. Cho nên, nếu con người
không phấn đấu để mình tự do, mình hưởng được, mình biến được các quyền
tự do trở thành các quyền tinh thần, trở thành năng lực của mình thì có
cho con người ấy tự do cũng chẳng có ích lợi gì. Điều quan trọng nhất
đối với một con người là họ phải tự phát hiện ra mình là ai và mình có
những thứ gì. Con người phải tự do đi tìm giá trị của mình, phát hiện ra
các giá trị của mình và biết cách sử dụng các giá trị ấy. Khi
con người có tự do và biết sử dụng công nghệ tự do thì tự nhiên con
người sẽ hình thành một khả năng rất quan trọng đó là tự lập. Khi nào
con người tự lập được thì sẽ xuất hiện một cái quan trọng hơn nhiều, đó
là tự trọng. Tự do - Tự lập - Tự trọng là những đại lượng hết sức quan trọng để hình thành giá trị của con người.
Thứ hai, con người phải tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của quá khứ. Nếu
con người không ý thức được việc trước hết mình phải tự giải phóng mình
ra khỏi quá khứ nhận thức của mình là những định kiến được neo vào hệ
tư tưởng, vào sự ràng buộc của văn hoá lạc hậu thì con người không thể
có tự do. Miền
tinh thần của con người phải là một miền tự do để con người có thể dịch
chuyển từ các hướng nhầm lẫn sang những hướng không nhầm lẫn, để đi tìm
một lối thoát đúng đắn hơn cho các hành động của mình. Nếu con người
không có tự do bên trong tâm hồn của mình tức là con người không ra khỏi
những thói hư tật xấu hay những nhầm lẫn của mình. Nếu con người không
có tự do trong không gian tinh thần của mình thì mọi hình ảnh của cuộc
sống đều được phản ánh một cách lệch lạc, biến dạng trong nó.
Thời đại của chúng ta là thời đại mà ít nhất con người phải trở thành nhà tư tưởng của chính các hành động của mình. Khi
con người trở thành nhà tư tưởng của chính mình thì con người không trở
thành nô lệ của tư tưởng bởi vì con người không theo ai cả, con người
theo chính những lẽ phải mà mình xác lập bằng công cụ tư tưởng. Tư tưởng
là trạng thái giác ngộ của con người về những kinh nghiệm, là năng lực
khái quát những kinh nghiệm thực dụng của mình trở thành những chỉ dẫn
có giá trị tinh thần. Những giá trị tinh thần ấy rất gần với cuộc sống
để hướng dẫn những hành động của con người và nó làm cho con người không
định kiến. Bởi vì khi cuộc sống phát triển thì kinh nghiệm phát triển,
kinh nghiệm phát triển thì tư tưởng phát triển. Mặt khác, để không định
kiến,con người còn phải biết sử dụng văn hoá như một công cụ để xác lập tính phải chăng trong các hành vi của mình. Trong cuốn sách "Cải cách" tôi đã đưa ra kết luận: Cải
cách văn hoá không phải là thay đổi cấu trúc của văn hoá mà thay đổi
thái độ của con người về nghĩa vụ đóng góp của văn hoá đối với đời sống
và sự phát triển; tức là con người phải biết khai thác văn hoá vào việc chống các hiện tượng tiêu cực hay hiện tượng quá ngưỡng của cái Tôi.
Con
người không những phải ra khỏi quá khứ của mình mà còn cần ra khỏi quá
khứ của dân tộc. Quá khứ của mỗi người là một tập hợp con của quá khứ xã
hội, cho nên, để giúp con người ra khỏi miền quá khứ của cả dân tộc thì
không phải khích lệ con người hãy ra khỏi quá khứ một cách chung chung
mà phải khích lệ từng người ra khỏi quá khứ của chính mình. Từng người
một phải làm việc của mình và nó tạo ra khả năng ra khỏi quá khứ của một
cộng đồng dân tộc. Nhà nước không làm thay được. Nhà nước làm thay và
tưởng rằng làm được, giống như việc bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa và
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế đã chứng minh đó là một
ảo tưởng. Hoặc như Ceasar đã từng đưa người Hy Lạp, đưa người La Mã đến
tận Ai Cập, Ấn Độ và ông ta chôn vùi rất nhiều người.
Thứ ba, con người phải chủ động phấn đấu cho những năng lực triển vọng của mình. Như
đã nói ở trên, con người lành mạnh là con người luôn hướng đến tương
lai mà tương lai của một con người là khả năng đáp ứng những đòi hỏi của
cuộc sống của nó ở mỗi một thời điểm khác nhau. Cho nên, muốn có tương
lai thì con người phải phấn đấu cho những năng lực triển vọng, phải phấn
đấu để đạt đến trạng thái tiên tiến trong miền triển vọng của chính
mình. Thực ra miền triển vọng là kết quả của rất nhiều thứ nhưng đóng
vai trò chủ đạo là năng lực thực tế và năng lực triển vọng. Năng lực
thực tế cần cho việc tưởng tượng, thiết kế và chuẩn bị để đi đến miền
triển vọng. Còn năng lực triển vọng là năng lực sống ở miền triển vọng,
đáp ứng đòi hỏi của miền triển vọng. Con người chỉ có triển vọng bền
vững khi nó tìm ra được lối thoát ra khỏi các ràng buộc của các tất yếu
bằng những năng lực mới của nó, tức là nó sáng tạo ra chính nó. Năng lực
sáng tạo ra chính nó chính là năng lực tìm ra các ranh giới mới của tất
yếu, là năng lực nới rộng không gian tự do của mình. Bờ vực là tất yếu
đối với con người nhưng không phải là tất yếu của con chim. Thế nhưng
con người đã biết sáng tạo ra máy bay để vượt qua bờ vực. Tức là nếu con
người tiên lượng được, con người để cho mình phát triển một cách đa
dạng thì con người sẽ có những năng lực tiềm ẩn để vào những lúc cần
thiết, bằng tầm nhìn họ sẽ huấn luyện khả năng để chuẩn bị, để phá vỡ
các ranh giới của tất yếu đối với loại năng lực đã có và tạo ra những
ranh giới mới của tất yếu đối với những năng lực mới xuất hiện. Chính sự
đa dạng tinh thần giúp con người tìm thấy các ranh giới mới, các năng
lực mới. Các miền triển vọng là tất yếu đối với con người, do đó con
người phải phấn đấu cho những năng lực triển vọng để đến và sống hạnh
phúc ở đó.
Miền
triển vọng chính là miền tinh thần trong tương lai con người. Con người
không thể biết chắc chắn đời sống tinh thần của mình trong tương lai
nhưng hoàn toàn có thể dự báo, thậm chí còn linh cảm thấy nó. Con người
có một năng lực bẩm sinh để chú ý đến triển vọng, linh cảm tới triển
vọng của mình, phân tích và xây dựng hệ tiêu chuẩn cho miền triển vọng
của mình. Đấy chính là khái niệm mà tôi vẫn nói là thiết kế ra tương
lai. Con người phải chủ động đối với tương lai của mình, chủ động tìm
kiếm và thiết kế ra tương lai của mình, nếu không tương lai của anh sẽ
trở thành một bộ phận của tương lai của người khác.
3. Tạo ra sự phát triển hoà hợp của hai không gian tự do
Xin nhắc lại quan niệm về tự do mà tôi đã đưa ra trong các nghiên cứu trước, đó là "Tự do là sự dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi."
Điều đó có nghĩa là tự do bên trong không gian tinh thần của con người
là điều kiện cực kỳ quan trọng để con người phát triển nhưng nếu không
có không gian khách quan bên ngoài tự do thì con người không thể phát
triển được. Phát triển là sự gặp gỡ một cách thuận lợi giữa các tiềm năng bên trong của con người với các điều kiện khách quan.
Ở nơi nào có sự gặp gỡ một cách thuận lợi giữa không gian tự do bên
trong và không gian tự do bên ngoài thì nơi đó có sự phát triển. Xưa nay
người ta nói rằng sự kiểm soát bên ngoài mới là tự do, nhưng người ta
không phân tích được rằng con người sẽ không có không gian ấy, không cần
không gian ấy nếu không gian bên trong bằng không, tức là con người
không có nhu cầu tự do. Không gian bên trong chính là động lực của tự
do, còn không gian bên ngoài chính là điều kiện của tự do. Khi động lực
phù hợp với điều kiện thì phát triển. Cho nên khi phấn đấu vì sự tự do
của con người thì chúng ta phải phấn đấu vì sự nới rộng và phát triển
của cả hai không gian ấy. Và lợi ích mà xã hội nhận được chính là sự
phát triển.
Phát
triển tự do chính là phát triển năng lực tồn tại của không gian tự do
bên trong như là động lực thúc đẩy con người hành động, đòi hỏi phải
được sử dụng một cách không lãng phí và có trách nhiệm không gian tự do ở
bên ngoài. Các không gian cá thể, tức là không gian tinh thần của con
người là rất khác nhau, do đó không gian bên ngoài phải là đường bao các
đòi hỏi của các không gian bên trong. Không gian tự do ở bên ngoài tức
là không gian điều kiện bao giờ cũng phải đủ lớn để thoã mãn sự đòi hỏi
của số đông con người. Nếu không gian bên trong có chất lượng bản năng
thì không gian bên ngoài hoàn toàn có chất lượng điều khiển. Vì là một
không gian có chất lượng điều khiển, tức là một không gian nhân tạo cho
nên không gian tự do bên ngoài phải luôn luôn được thể chế hoá, mà thể
chế hoá tự do như là không gian điều kiện chính là nhà nước dân chủ. Nhà
nước dân chủ là một hình thức nhà nước thể chế hoá các quyền của con
người đối với tự do. Vậy, làm thế nào để vạch một đường biên hợp lý cho
không gian quyền? Vấn đề đó phải được nghiên cứu một cách luật học, một
cách văn hoá học, một cách nhân học và phương Tây đã làm việc này từ lâu
rồi. Họ đã quy tự do thành không gian các quyền. Nhưng các nhà khoa học
phương Tây cũng chưa chỉ ra được rằng tạo
ra cảm giác tự do, tạo ra không gian bên trong chính là tạo ra sức ép,
tạo ra quần chúng để gìn giữ sự hữu ích của không gian các quyền.
Hiện nay, tỷ lệ đi bầu ở các nước phát triển cao như Hoa Kỳ, Anh...
cũng chỉ chiếm 45 đến 50%, tức là có 50% số lượng nhân dân lãng phí
không gian các quyền. Sự lãng phí ấy dẫn đến hiện tượng đôi lúc, trong
nhiều khía cạnh quan trọng của đời sống các quyền bị các thể chế, bị các
nhà nước lạm dụng, bởi vì xã hội không tập hợp đủ quần chúng tự giác về
việc tạo ra sự đòi hỏi đảm bảo không gian quyền của mình, và chính vì
vậy cũng không đảm bảo tính phổ biến của việc cần phải xây dựng ý chí
cho mỗi cá thể để tạo ra nhu cầu, tạo ra năng lực khai thác hết không
gian các quyền.
Con
người với tư cách là một cá nhân là khái niệm cao nhất và quan trọng
nhất để cấu tạo nên đời sống xã hội. Nhiệm vụ của khoa học khi nghiên
cứu về không gian tinh thần của con người là giải phóng cá nhân con
người. Để thực hiện được mục đích đó cần phải vạch rõ giá trị thiêng
liêng của các quyền con người, giá trị phát triển, giá trị nhân văn của
quyền con người và cổ vũ xã hội dân chủ như là xã hội duy nhất bảo vệ
các quyền cá nhân, quyền con người. Một khi không ý thức được giá trị
của các khái niệm ấy thì chỉ có thể cai trị chứ không lãnh đạo con người
được.
V. KẾT LUẬN
Miền
tinh thần của một cá thể phản ánh kích thước tự do bên trong của người
đó thông qua phản ánh giá trị hay chất lượng con người. Mỗi cá thể đều
có một không gian tinh thần của mình. Một người có đời sống tinh thần
phong phú, đa dạng thì chắc chắn đó là một con người có không gian tinh
thần tự do. Ngược lại nếu có đời sống tinh thần khô héo thì có nghĩa là
tự do bên trong con người đó không đủ lớn để tạo ra động lực cho sự phát
triển của chính người nó. Không ai thông báo với nhân loại rằng tôi có
miền tinh thần này hay miền tinh thần kia, cũng không ai biết chắc chắn
miền tinh thần của mình hình dạng ra sao. Nhưng mỗi người trước tiên
phải làm chủ tự do bên trong không gian tinh thần của mình. Nghiên cứu
về tự do chính là nghiên cứu về công nghệ tinh thần của con người để đạt
đến trạng thái sung mãn trong năng lực sáng tạo cũng như năng lực thoả
mãn các đòi hỏi của cuộc sống hiện đại.
Ở
một mức độ cao hơn, con người còn cần có tự do trong việc phấn đấu vươn
lên, con người phải hiểu được các giá trị và các quyền tiếp cận đến
những không gian thánh thần của đời sống tinh thần. Tự do không còn đầy
đủ ý nghĩa của nó nếu nó không tạo ra được các trạng thái thần thánh của
con người. Trạng thái thần thánh của con người chính là trạng thái sáng
tạo bậc cao. Các nhà triết học chỉ biến tự do trở thành khái niệm thần
thánh của mình chứ không biến thành trạng thái thần thánh có thật trong
cấu trúc tinh thần của con người. Nghiên cứu về tự do là nghiên cứu kinh
nghiệm biến tự do thành phẩm hạnh để tạo ra những trạng thái phát triển
của con người. Mà trạng thái phát triển bậc cao của con người chính là
trạng thái thần thánh của các giá trị tinh thần của con người.
Kích
hoạt sự phát triển trong đời sống tinh thần con người, hỗ trợ con người
tạo ra những tiêu chuẩn có chất lượng lý tưởng để nó thiết kế và xây
dựng miền tinh thần riêng của từng người chính là công việc vĩ đại nhất
mà khoa học phải làm. Và muốn làm được việc ấy, muốn hoàn tất nghĩa vụ
có tính chất sứ mạng ấy thì con người phải truyền bá tự do và dân chủ.
Rõ ràng những phân tích về không gian tinh thần cho thấy trạng thái
thiếu tự do gây ra sự thiếu hụt các yếu tố để trở thành con người phát
triển và tôi đi đến kết luận rằng nếu không có tự do thì không có con
đường nào để phát triển những xứ lạc hậu được.
Nguồn: Cội nguồn cảm hứng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét