Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Nguyễn Trần Bạt: Văn hoá là mục tiêu của phát triển

Phát triển, suy cho cùng, chính là sự tăng trưởng những giá trị của con người chứ không phải là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế là một yếu tố để biểu thị - có lẽ là tập trung nhất - năng lực thoả mãn nhu cầu của con người, nhưng không phải là tất cả. Khi người ta cố gắng để có được sự tăng trưởng bằng mọi giá thì đó chỉ còn là cuộc chạy đua giữa các nhà chính trị. Tôi cho rằng sự phát triển chân chính là những khả năng, năng lực và những thành tựu đó con người tạo ra chứ không phải là kết quả của những biến hoá chính trị, của sự thống kê mang tính chính trị.

Sự phát triển về khoa học công nghệ hay trí tuệ là sự đi đến điểm gặp nhau giữa người sáng tạo và người sử dụng. Người ta nghĩ ra Internet mà không ai dùng thì Internet cũng không đóng vai trò xã hội gì. Đấy chính là lý tưởng phát triển, tính tương thích giữa dân trí và sự sáng tạo. Trước khi đi đến trạng thái ấy, các dân tộc đang phát triển cần phải xác lập mục tiêu sống. Nếu đi theo những hình mẫu cũ, chúng ta sẽ luôn luôn trong tình trạng thiếu thốn. Một số nước châu Á đạt được sự tăng trưởng kinh tế rất đáng khích lệ nhưng vẫn không phát triển, đó là vì họ không xác lập được sự cân bằng tổng hoà của các thành tố tham gia vào quá trình phát triền, tức là không xác lập được giá trị của sự phát triền. Tại sao? Vì họ chỉ nhìn chính họ, vào quá khứ của họ, mà không nhìn vào hiện tại. Họ đố kỵ với tất cả những gì ở bên ngoài.

Logic, theo tôi, cần phải khác. Chúng ta hãy đi tìm cuộc sống của mình. Cái gì giúp chúng ta sống tốt, phát triển tốt hơn thì chúng ta phải xem là quan trọng. Khi chúng ta xem nó là quan trọng, khi chúng ta sử dụng nó thì chúng ta phải trả cho nó sự kính trọng nó, cũng là kính trọng con người với các giá trị trọn vẹn của nó. Chính các giá trị trọn vẹn của con người chứ không phải cái gì khác sẽ tạo ra hoặc phá hoại sự phát triển bền vững. Định nghĩa sự phát triển là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng nếu đồng ý với chúng tôi rằng con người là mục tiêu của sự phát triển thì có thể thấy rõ rằng phát triển bền vững chính là sự hoàn thiện không ngừng của con người.

Trong mỗi con người có hai năng lực khác nhau: năng lực để bán và năng lực để kiến tạo. Năng lực để bán được chủ động chuẩn bị nhưng được sử dụng một cách bị động, còn năng lực kiến tạo thì tồn tại một cách bị động nhưng lại được sử dụng một cách chủ động. Sự hoàn thiện của con người chính là sự hoàn thiện các khả năng này.

Như thế, phát triển vừa là một quá trình, vừa là một trạng thái. Khi người ta xem xét nó thì nó là một trạng thái, còn tự nó thì là một quá trình. Phát triển là một hiện tượng. Xem xét sự phát triển là một hiện tượng khác. Viện trợ và nhận viện trợ, chẳng hạn, không phải là sự phát triển. Người ta có thể dùng viện trợ như phương tiện trợ giúp phát triển, như trợ giúp y tế hay trợ giúp kỹ thuật...

Nhưng không bao giờ có thể tạo ra sự phát triển bằng cách mang tiền cho người khác. Trợ giúp sự phát triển con người là tạo điều kiện cho con người có đủ khả năng và năng lực để tạo ra đời sống của chính họ. Trường hợp các quốc gia có các điều kiện tự nhiên đặc biệt, chẳng hạn các quốc gia có nhiều dầu mỏ cũng vậy. Họ chẳng phải làm gì nhiều để có một điều kiện sống tốt. Nhưng không ai coi đó là những quốc gia phát triển. Tất nhiên, nếu dưới chân có một thứ gì đó giúp con người ăn được mà không phải lao động thì đó không phải là điều bất hạnh. Nhưng tôi cũng không biết có thể xem đó là may mắn hay không. Tôi luôn luôn cho rằng chỉ khi nào con người tạo ra được một cách tự nhiên những giá trị của cuộc sống thì mới có dấu hiệu của sự phát triển. Tất nhiên, con người có thể khai thác thiên nhiên.

Nhưng họ phải khai thác thiên nhiên bằng những sáng tạo của mình để không tàn phá các yếu tố khác của đời sống. Điều này giống như khi được nhà của anh có một mỏ kim cương. Anh có thể đập cái nhà đi để khai thác và mua một cái nhà khác.

Chất lượng sống chắc chắn không chỉ tính bằng số lượng thịt hay vải, mà cao hơn, là đời sống tinh thần và môi trường sống. Những nhu cầu vật chất là tuyệt đối quan trọng trong giai đoạn đầu, khi con người còn phải đối mặt với nạn đói, nạn rét, nhưng khi mức sống vật chất càng được cải thiện thì vai trò của những yếu tố văn hoá tinh thần càng tăng lên. Như vậy, với tư cách là mục tiêu của sự phát triển kinh tế, văn hoá góp phần quyết định nhu cầu của xã hội, thông qua đó kích thích phát triển sản xuất và khoa họe kỹ thuật.

Như ở trên chúng tôi đã nói, bản thân việc phân định kinh tế và văn hoá một cách rạch ròi là không chặt chẽ và thoả đáng. Theo chúng tôi, cũng giống như những hoạt động khác mà con người tiến hành vì sự tồn tại, phát triển và tự hoàn thiện của mình, bản thân hoạt động kinh tế không chỉ gắn bó với văn hoá mà thực sự cũng là một mảng của văn hoá hiểu theo nghĩa rộng.

Chúng ta đang nói chuyện phát triển kinh tế, đúng hơn là chúng ta đang nói đến năng lực vật chất. Bởi kinh tế là phương thức, vật chất là đối tượng, là thực thể. Các qui mô vật chất ảnh hưởng khá mạnh đến văn hoá. Nếu chúng ta nói đến hội hoạ chẳng hạn, đại bộ phận tranh của phương Tây là tranh sơn dầu. Tính bền vững của nó cho phép gìn giữ nhiều bằng chứng để chúng ta thưởng thức và nghiên cứu. Trong khi đó, tranh của nhiều nước bằng giấy nên việc bảo quản rất khó. Kết quả là chúng ta mất đi các tư liệu để nghiên cứu. Ngược lại, con người càng va chạm nhiều càng có kinh nghiệm. Mối liên hệ giữa văn hoá và sự phát triển quy mô vật chất hay kinh tế luôn thông qua con người với tư cách là một thực thể văn hoá. Phương pháp nhận thức kinh tế tác động thông qua con người: các kế sách làm ăn, các lý thuyết về kinh tế... Cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và kinh tế chính là ở chỗ: con người, với tư cách là một thực thể văn hoá, không chỉ tham gia vào hoạt động kinh tế, mà còn tham gia vào việc xây dựng các lý thuyết kinh tế và vào việc uốn nắn các trào lưu kinh tế. Bản thân văn hoá và kinh tế là các khái niệm chỉ xuất hiện trong nhận thức, chúng không phải là thực thể. Đó là những khái niệm tinh thần, sẽ thay đổi cùng với thời gian, cùng với sự thay đổi cả văn hoá lẫn kinh tế.

Mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và kinh tế là một trong những quan hệ huyền bí nhất. Văn hoá có một vùng bao phủ rất lớn, gần như trọn vẹn đời sống tinh thần của con người. Có thể nói rằng văn hoá chính là những giá trị tinh thần của đời sống con người. Văn hoá tác động đến mọi mặt của cuộc sống chứ không phải chỉ có kinh tế. Trong nghĩa hẹp nhất, văn hoá, như chúng ta đã nghiên cứu trong những phần trước, có thể được hiểu là lĩnh vực văn chương nghệ thuật. Văn hoá cũng có thể được hiểu rộng hơn, bao gồm cả nghệ thuật, giáo đục, lối sống, tập tục. Với những cách hiểu như thế, văn hoá được coi là mục tiêu của chính sách phát triển văn hoá. Theo nghĩa này, nhà nước phải coi trọng văn hoá như là một bộ phận của các hoạt động kinh tế và xã hội, phải đầu tư để "phát triển văn hoá”.

Thông thường, cách hiểu này là kim chỉ nam cho chính sách "văn hoá xã hội” của nhiều nhà nước, vốn giữ quan niệm kinh tế chủ nghĩa về xã hội, một quan niệm đã ngự trị mấy thế kỷ trước và gần như suất thế kỷ hai mươi. Quan niệm cũ này coi văn hoá là hệ quả của các quá trình phát triển kinh tế, chính trị. Vì thế, cho đến nay, trong chính sách phát triển của hầu hết các quốc gia, người ta tập trung phần lớn vào các mục tiêu kinh tế, còn văn hoá nằm trong phần "phúc lợi" - các phúc lợi kinh tế văn hoá, xã hội...

Tuy thế, cũng không nên phê phán cách quan niệm ấy, bởi vì nó là quan niệm theo cách hiểu thông thường của đại đa số nhân dân và cho phép hướng tới những mục tiêu gần. Mặt khác, văn hoá, đối với sự phát triển của một quốc gia, nhất thiết phải được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa tổng thể, bao gồm toàn thế các hoạt động và các giá trị sáng tạo còn lại qua lịch sử, thể hiện trên các lĩnh vực lao động, sinh hoạt vật chất và tinh thần.

Những người theo quyết định luận kinh tế qui sự phát triển vào tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế cho thấy không phải cứ có thu nhập theo đầu người cao là có văn hoá cao. Một số quốc gia dầu mỏ rất giàu có, nhưng đã không sao thoát khỏi tình trạng lạc hậu. Chính vì lý do đó mà Liên Hợp Quốc đã phải đưa vào những tiêu chí khác để đánh giá tình trạng phát triển, gọi là chỉ số phát triển con người mà ngoài mức thu nhập người ta còn tính đến cả tỷ lệ sống sau khi sinh, tỷ lệ biết đọc biết viết và số năm đi học.

Như thế, phát triển phải nhằm đem lại cho con người cuộc sống hạnh phúc trong một xã hội tiến bộ tổng thể, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Với cách quan niệm rộng như thế, chúng ta có thể vạch ra chiến lược phát triển xa hơn.

Văn hoá là động lực của phát triển

Nói văn hoá là động lực của sự phát triển chính là nói đến quá trình trong đó con người được và tự trang bị cho mình những kiến thức, những hệ giá trị để có thể trở thành một nhân tố tạo ra sự phát triển. Mục tiêu là cái chúng ta đặt ra để phấn đấu. Còn động lực là công cụ để đi đến mục tiêu. Khi chúng ta đã đạt được mục tiêu, chính nó lại trở thành hành trang, phương tiện, thành công cụ để tạo ra vùng nhận thức mới. Đó chính là động lực của sự phát triển.

Cách thức mà con người hay các dân tộc lựa chọn để tìm kiếm tương lai cho mình là dựa trên những kinh nghiệm văn hoá của nó. Văn hoá là nền tảng, là phương thức cơ bản để mỗi dân tộc lựa chọn cung cách đi ra khỏi quá khứ của mình. Văn hoá là động lực, nhưng không phải là động lực theo nghĩa thông thường. Văn hoá lớn hơn nhiều so với các định nghĩa mà chúng ta thường thấy trong các sách vở. Theo tôi, để phát triển, vấn đề không phải chỉ là việc chúng ta phải vứt bỏ một thói quen cụ thể hay một cách nhìn cụ thể nào đó, như người Việt phải vứt bỏ quan điểm tam tòng tử đức của thời phong kiến chẳng hạn, mặc dù với tư cách là người Việt Nam, chúng tôi thiên về chủ trương loại bỏ bớt những gì cổ xưa đang trở thành vật cản đối với với sự phát triển đất nước.

Muốn biết văn hoá thời hiện đại là như thế nào và nó tác động ra sao đến đời sống nhân loại, chúng ta phải xem xét thời hiện đại là gì? Tôi không hoàn toàn đồng ý với ý kiến của một số học giả về nền kinh tế tri thức. Theo tôi, chúng ta cần xây dựng một xã hội tri thức trong đó tri thức là tiêu chuẩn số một để phân loại, định giá con người. Bởi nền kinh tế nào cũng là sản phẩm của đời sống xã hội. Vì thế không thể có nền kinh tế tri thức trước khi có một nền xã hội tri thức.

Chính những tiêu chuẩn văn hoá, nhất là văn hoá chính trị, sẽ quyết định quan điểm của con người về phát triển. Nó trở thành động lực trực tiếp của tiến bộ. Đã đến lúc chúng ta không nên xem văn hoá là đối tượng chung chung, mà nó phải trở thành tiêu chuẩn được thể hiện trong hành vi hàng ngày tương ứng với cương vị và chức năng xã hội của từng người.

Thế hệ trẻ có những tiêu chuẩn của mình. Đàn ông hay đàn bà có tiêu chuẩn của riêng họ. Đặc biệt, nhà lãnh đạo càng phải có tiêu chuẩn của mình. Theo tôi nền văn hoá chính trị là nền văn hoá với những tiêu chuẩn cần thiết và bắt buộc đối với những người lãnh đạo để họ thể hiện hành vi của mình đối với nhân dân, đùng cho nhân dân để lựa chọn người lãnh đạo.

Tôi xin lấy hai mô hình quản lý chủ yếu trên thế giới hiện nay: một hình phương Tây (đại diện là Mỹ) và phương Đông (đại diện là Nhật Bản). Trái với những lời ca ngợi đầy rẫy trên báo chí, tôi không cho rằng các công ty Nhật quản lý tốt, bởi vì tất cả các cộng đồng hẹp đều suy thoái. Các công ty Nhật thường khép kín và đần dần biến thành những cộng đồng mang tính gia đình. Chính sự tha hoá của các công ty Nhật Bản đã gây ra sự suy sụp hiện nay của nền kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, các công ty Nhật không tự sáng tạo ra phương pháp quản lý của mình. Nó bắt nguồn từ kinh nghiệm văn hoá của người Nhật. Người Nhật mở của trước người Việt Nam xét về mặt kinh tế, nhưng người Nhật không mở cửa về mặt văn hoá. Rất khó tìm thấy một người Nhật nói tiếng Anh tại Tokyo ngay cả vào năm 1988, khi chúng tôi có dịp đến thăm. Tại Nhật cho đến gần đây vẫn không có quảng cáo bằng tiếng Anh. Sự bảo thủ về mặt văn hoá sẽ dẫn đến sự suy thoái của nền kinh tế Nhật Bản nếu người Nhật không thức tỉnh về điều này.

Mô hình Mỹ là mô hình được ưa chuộng nhất trên thế giới. Thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của các quốc gia, đang hướng về nền văn hoá này. Bởi vì trong đó con người được khẳng định và được tự do sáng tạo, tự do tiêu xài thời lượng của cuộc đời mình. Theo chúng tôi, ở đâu con người không có tự do thì ở đó không có phát triển thật sự, có chăng chỉ là sự đánh tráo nguồn tài nguyên này sang nguồn tài nguyên khác mà thôi. Điều này có vẻ nghịch lý, bởi luật Mỹ chặt chẽ hơn luật Nhật rất nhiều. Nhưng ở Mỹ, con người được tự do sáng tạo, tự do tư tưởng đến mức không có ai có đủ uy tín để trở thành tổng thống nếu không thông qua sự tự trình bày của mình.

Các công ty Mỹ như một tổ ong, có người ra và người vào, dựa trên những tiêu chuẩn nào đó, với một cơ chế thông thoáng. Tôi cho rằng mô hình này tốt hơn, bởi nó dựa trên sự tự do của con người, bởi vì sớm hay muộn sự phát triển của xã hội cũng dựa trên sự thức tỉnh các giá trị cá nhân. Toàn cầu hoá và hội nhập là một minh chứng cho sự mất đi đần dần của các giá trị khu trú để cho phép con người trở thành một đối tượng độc lập. Đó là cá nhân. Tính hiệu quả hiện thời về mặt kinh tế của các công ty Mỹ chưa chắc đã hơn các công ty Nhật Bản. Nhưng tính hiệu quả về mặt triết học thì chắc chắn là các công ty Mỹ hơn hẳn.

Một đặc điểm khác của mô hình Mỹ là sự linh hoạt. Cách người Mỹ quản lý hôm nay không giống như cách quản lý của họ trước đây, và thậm chí không giống như trong các quyển sách đó chính họ viết. Ngay cả trong xã hội cũng vậy, họ tạo ra một cộng đồng văn hóa rất linh hoạt. Người Mỹ cỹng học hỏi nhiều từ phương Đông. Không có Viện nghiên cứu về phương Đông nào của các nước phương Đông lại to như các Viện nghiên cứu phương Đông của người Mỹ. Không có Viện bảo tàng nào về châu Á ở châu Á lại to như Viện bảo tàng châu Á tại San Francisco. Người Mỹ đang cố gắng nhận thức thế giới và chúng ta học họ, bám sát theo sự phát triển kinh nghiệm của họ để nhận ra được rằng chất lượng phương Đông trong các giải pháp chính trị xã hội và kinh tế của người Mỹ hoàn toàn không kém phương Đông. Chúng ta cần phải vươn tới các giá trị hợp lý hơn. Bởi vì phát triển văn hoá nhằm làm cho mỗi người có năng lực ứng xử với nhiều nền văn hoá cùng một lúc, để có thể đối thoại một cách bình đẳng với các nền văn hoá khác. Thành công của người Mỹ không thể giải thích nếu không xem xét vai trò quyết định của văn hoá.


Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thời đại nào, kinh tế vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, nếu như không nói là quan trọng nhất: Chúng ta không thể nói đến phát triển nếu không cải thiện được đời sống vật chất cho con người. Nhưng nếu như chúng ta quan niệm phát triển như là sự tiến bộ tổng thể của xã hội thì không phải chỉ cần có sự giàu có vật chất là có sự phát triển. Muốn có phát triển, cần phải có những tác động của đời sống tinh thần. Hơn nữa, ngay cả việc tăng trưởng kinh tế đơn thuần cũng cần có tác động trực tiếp và gián tiếp của văn hoá. Văn hoá làm tăng chất lượng nhu cầu của con người, cũng làm tăng chất lượng sản xuất kinh doanh và thúc đẩy xã hội phát triển. Chính vì lẽ đó mà hiện nay rất nhiều nhà nghiên cứu văn hoá cổ vũ cho luận điểm cho rằng văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển.

Thực ra con người lý tưởng là con người được cân đối trong sự phát triển về mặt văn hoá. Con người chưa có được các giá trị văn hoá ở mức phát triển là con người không hoàn chỉnh. ở đây cần phải chú ý rằng nói đến phát triển là nói đến một sự so sánh tương đối. Vậy chúng ta so sánh tương đối với ai? Với chính những cộng đồng văn hoá khác, những con người khác. Khi chưa có nó, chúng ta phải đặt ra mục tiêu để phấn đấu - phấn đấu để đạt tới sự trưởng thành, sự hiện đại về mặt văn hoá, phấn đấu để các giá trị của mình tương thích với sinh hoạt quốc tế. Nói cách khác về mặt văn hoá, mỗi dân tộc cần phải phấn đấu để ra khỏi nền văn hoá mang tính cát cứ của mình, để có thể đối thoại, để tương
thích một cách hoàn chỉnh, một cách hoà bình trong sinh hoạt với các cộng đồng khác. Suy ra cho cùng con người hiện đại, con người phát triển về mặt văn hoá tức là con người có thể nói chuyện với nhiều cộng đồng văn hoá khác trên những tiêu chuẩn văn hoá khác, tức là con người có thể hiểu các nền văn hoá khác nhau.

Văn hoá hình thành do sự tương tác đa dạng, ngay cả trong cộng đồng hẹp, vì vậy người có văn hoá là người có thể tương tác một cách thành công với cộng đồng rộng hơn, và hơn thế nữa, với nhiều cộng đồng. Mỗi dân tộc cần phải rèn luyện để có thể có năng lực ứng xử với nhiều hệ thống tiêu chuẩn văn hoá.

Tất cả các nhân tố trong cấu trúc văn hoá đều tác động đến đời sống con người. Nhưng cấu trúc văn hoá rất rộng, và mỗi một dân tộc - mỗi cộng đồng văn hoá - đều có những thiếu hụt, những khiếm khuyết nhất định. Nghiên cứu những cấu trúc ấy không chỉ có nghĩa là nghiên cứu các giá trị, các nội dung phổ quát của khái niệm văn hoá mà còn là nghiên cứu những khiếm khuyết trong cộng đồng văn hoá ấy.

Đó chính là hoạt động quan trọng nhất của sự lãnh đạo chính trị đối với sự phát triển. Tôi xin điểm qua ảnh hưởng của các thành tố trong cấu trúc của văn hoá.

Vai trò của tri thức, tư tưởng

Tri thức là động lực của tiến bộ. Các nhà triết học của nhiều thời đại đã từng coi lịch sử nhân loại là cuộc đấu tranh xã hội. Tôi cho rằng lịch sử loài người đồng thời còn là cuộc đấu tranh với thiên nhiên. Quan hệ giữa con người với nhau và với thiên nhiên làm nên cốt lõi toàn bộ sự tồn tại của loài người. Trong quá trình đó con người tìm hiểu chính mình và tìm hiểu thiên nhiên.

Trong tất cả các tri thức mà con người tích luỹ được qua các thời đại thì tư tưởng là thứ quan trọng nhất, cao nhất và cũng tác động mạnh nhất đến tiến trình phát triển của lịch sử. Đó là vì tư tưởng trực tiếp tác động đến hoạt động của nhà nước, làm thay đổi sâu sắc đời sống của xã hội loài người. Nhưng vai trò của hệ tư tưởng không chỉ nằm ở đó. Như chúng ta sẽ khảo sát trong phần ba dưới đây, nhà nước còn có thể coi là một bên đối tác trong hợp đồng kinh tế với xã hội, trong đó nhà nước cung cấp một vài loại dịch vụ đặc biệt và đổi lấy các khoản thuế. Trong quan hệ này không thể không có các kẻ gian lận và mọi hệ thống pháp luật đều không thể chống được triệt để. Hệ tư tưởng lấp kín chỗ trống đó bằng cách tạo nên những quy tắc tâm lý, đạo đức, thế giới quan để điều chỉnh những hành vi của con người.

Những tác động trực tiếp của tri thức trong đời sống kinh tế nhân loại đang không ngừng tăng lên. Từ kinh tế khai thác thiên nhiên, con người đang tiến dần đến một nền kinh tế khai thác chất xám, trong đó phần giá trị của nguyên vật liệu, tiền vốn và sức lao động cơ bắp đang ngày càng giảm bớt.

Trong một nền kinh tế như thế, chỉ những quốc gia nào có được một nền giáo dục tốt, đủ sức trang bị những kiến thức cần thiết cho công dân của mình tương xứng với đòi hỏi của tương lai mới có thể có cơ hội hội nhập thành công với thế giới.

Mọi sự phát triển luôn cần có gợi ý, luôn có yếu tố sáng tạo của một ai đó, luôn luôn có thể nghiệm sự sáng tạo nào đó. Đó là bản chất của sự phát triển và đó cũng là lý do giải thích tầm quan trọng của một lực lượng tinh hoa trong xã hội. Thực ra thì thực tiễn cuộc sống bao giờ cũng đặt ra nhiệm vụ cho người này người kia. Có UNESCO là vì người ta cần có một tổ chức chuyên nghiệp để giao nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá toàn cầu, để xây dựng sự chung sống hoà bình giữa các cộng đồng dân tộc và cộng đồng văn hoá. Tuy nhiên, chúng ta đừng kỳ vọng vào sự hoạt động của những ai đó cụ thể hay tổ chức nào đó cụ thể. Chúng ta phải kỳ vọng trước hết vào sự thức tỉnh những giá trị được gợi ý ở con người và được biến thành sở hữu cộng đồng. Đúng là cần phải có ai đó gợi ý, ai đó nghĩ trước, nhưng sự gợi ý phải gắn liền với sự chấp nhận mà sự chấp nhận nào cũng bắt đầu từ thiện chí. Nhiều nhà nghiên cứu văn hoá làm việc một cách không vô tư. Họ biểu diễn sự hiểu biết của họ hơn là vì con người. Một số không đủ dũng cảm, hay thậm chí còn trở thành kẻ phụ hoạ chính trị.

Theo chúng tôi, tiêu chuẩn văn hoá quan trọng nhất của thời đại của chúng ta là trí tuệ, là tri thức. Trí tuệ không phải là diễn đạt một cách hiện đại các kiến thức cũ mà chính là sự phát hiện những khái niệm, những giới hạn mới trong quá trình nhận thức của con người. Vì thế trí tuệ gắn liền với tự do.

Đã đến lúc chúng ta phải nói đến các khái niệm mới xuất hiện trên thế giới, như khái niệm an ninh con người chẳng hạn. Khái niệm này tương xứng với cặp phạm trù về an ninh quốc gia. Những khái niệm mới này chính là tiêu chuẩn của thế giới hiện đại, là đòi hỏi đối với hành vi của con người.

Vai trò của tín ngưỡng

Trong một thời gian dài, do những nhận thức phiến diện hoặc do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật cực đoan, người ta coi thường hoặc phủ nhận vai trò của tín ngưỡng đối với phát triển. Rõ ràng, muốn phát triển nguồn lực con người chúng ta không thể bỏ qua vấn đề tín ngưỡng. Một thế giới bình an để con người trở về sau những vật lộn trong đời sống, sau những biến động khôn lường của thực tiễn xã hội chắc chắn là cần thiết để con người tồn tại và phát triển.

Không phải ngẫu nhiên mà thời gian cuối thế kỷ này được đánh dấu bằng sự phục hồi của gần như tất cả các tôn giáo trên thế giới. Mặc dù không mang một ý nghĩa như nhau ở mọi nơi trên thế giới, sự phục hồi này, theo chúng tôi, có nguồn gốc sâu xa ở sự đổ vỡ của các hệ thống tư tưởng chính trị. Điều này rõ nhất ở Liên Xô cũ và các nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Tuy nhiên, điều này cũng thấy ở cả các quốc gia Hồi giáo và Phật giáo... Nhưng điều đáng lo ngại là ở một số nơi đang xuất hiện những hoạt động tôn giáo quá khích, do những phần tử cơ hội giật dây, nhằm lợi dụng tình trạng mất cân bằng của tâm lý xã hội để thực hiện những mục đích cá nhân.

Đã qua rồi từ rất lâu thời trị vì trực tiếp của tôn giáo, nhưng người ta vẫn phải thừa nhận một thực tế là tôn giáo ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành lối sống, đến đạo đức xã hội. Nhiều người ngạc nhiên trước hiện tượng là ở nhiều nước trên thế giới, chẳng hạn tại Thái Lan, Indonesia, Campuchia và phần nào cả Việt Nam... người Hoa rất thành đạt và ngay cả khi chỉ chiếm một phần nhỏ dân số, họ lại có thể khống chế được một sức mạnh kinh tế cực kỳ to lớn. Theo chúng tôi đó không phải là ngẫu nhiên mà gắn liền với bản lĩnh của người Hoa, mà bản lĩnh đó lại là kết quả của những yếu tố văn hoá, trước hết là tôn giáo. Theo chúng tôi, chính Khổng giáo đã dạy người Hoa những đức tính quí báu như cần cù, chịu đựng gian khổ, coi trọng trí thức và có quan điểm thực tế. Những tính cách này cũng rất rõ ở người Nhật, người Hàn Quốc và người Việt. Trong khi đó Đạo Phật hướng người ta vào trạng thái cam chịu, dễ đầu hàng số phận và hoàn cảnh, cuối cùng là thủ tiêu sự cạnh tranh.

Vai trò của truyền thống, đạo đức, lối sống và pháp luật?

Truyền thống, đạo đức, lối sống và pháp luật có vai trò tổ chức, điều tiết và định hướng, dĩ nhiên bằng những cách khác nhau, đối với sự phát triển xã hội.

Truyền thống, đạo đức và lối sống, như chúng ta đã biết, là những lề thói, những luật lệ không thành văn nhưng được đa số thành viên trong xã hội chấp nhận và tuân thủ. Khác với pháp luật, những yếu tố này được hình thành một cách tự nhiên, qua quá trình lâu dài và cũng tương đối bền vững hơn.

Tuy nhiên, không phải những yếu tố này bao giờ cũng mang vai trò tích cực. Trong khi rất nhiều khía cạnh của truyền thống, đạo đức và lối sống có tác dụng hỗ trợ cho sự phát triển thì cũng có những khía cạnh khác trở thành lạc hậu, tiêu cực và cản trở sự tiến bộ của xã hội. Có thể thấy rõ những tác động của lối sống, đạo đức và truyền thống đến sự phát triển kinh tế nếu so sánh những xã hội như Hàn Quốc, Thái Lan... Yoshihara Kunio, trong cuốn sách nghiên cứu về Hàn Quốc và Thái Lan nhận xét rằng đường như người Hàn Quốc coi trọng làm việc hơn người Thái Lan. Người Hàn Quốc cũng ít thoả mãn hơn sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm hơn và coi trọng giáo dục hơn người Thái. Chính những phẩm chất này đã đóng một vai trò quan trọng vào sự phát triển nhanh chóng của Hàn Quốc và giải thích tại sao trong vòng hai chục năm Hàn Quốe đã bỏ xa Thái Lan về mọi mặt.

Luật pháp tác động đến sự phát triển trực tiếp và nhanh chóng hơn, thông qua những hình thức khác nhau của quyền lực nhà nước. Pháp luật, vì thế cũng mang tính ngắn hạn hơn, đồng thời cũng mang dấu ấn nặng nề của giai cấp cầm quyền. Nhiệm vụ của một nhà nước văn minh là ngày càng khảm bớt tính giai cấp và tính ngắn hạn của pháp luật.

Vai trò của thẩm mỹ

Như chúng ta đã nghiên cứu ở trên, thẩm mỹ là một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm những năng lực tinh thần giúp cho con người điều chỉnh hành vi của mình theo những qui luật của cái đẹp, nhằm cảm thụ, nhận thức, đánh giá và sáng tạo nên các giá trị thẩm mỹ. Nó không thể bị đồng nhất với văn hoá nghệ thuật, mà bao hàm tất cả các lĩnh vực của đời sống.

Thẩm mỹ là khái niệm có liên quan đến tất cả những mặt khác của văn hoá như tri thức, đạo đức, truyền thống... Trong nhiều trường hợp người ta còn có thế coi chừng như những khái niệm đồng nhất. Chẳng hạn, chính tri thức đầy đủ về con người, xã hội, luật pháp... giúp người ta lựa chọn cách ứng xử - đó chính là thẩm mỹ trong cuộc sống. Nói cho cùng, thẩm mỹ cũng chính là đạo đức.

Không cần phải tranh cãi, chúng ta ai cũng thấy rõ rằng văn hoá thẩm mỹ đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc hình thành nhân cách của con người, mà con người lại là đối tượng phục vụ, đồng thời là cơ sở, là động lực của phát triển.

Sách: Văn hóa và con người

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Facebook Digg Stumbleupon Favorites More