(Phan Khôi 1887 - 1959)
Hiện nay ở nước ta, nhất ban dân chúng đối với kẻ thanh niên tân học
đương có một lời trách bị. Kẻ thanh niên tân học khi nghe được lời trách
bị ấy, hình như cũng làm thinh mà thừa nhận đi. Đại khái họ vì cực
chẳng đã mà thừa nhận, chớ chẳng phải vui lòng; họ muốn tránh cho khỏi
lời trách bị ấy lắm chớ, có điều chẳng biết cách nào tránh khỏi, thôi
thì phải thừa nhận.
Lời trách bị như vầy: Các ông thanh niên đi du học về, lãnh những
bằng cấp nọ, bằng cấp kia, học đến bực cao như thế, mà chẳng thấy làm ra
được cái gì gọi là giúp ích cho ai, cho xã hội cho đồng bào!
Kẻ thanh niên tân học nghe lời ấy rồi tự nghĩ lại mình thì quả thật
như vậy. Một người học ở bổn quốc độ 20 tuổi, sức học đã khá rồi, bắt
đầu xuất dương sang Pháp. Ở đất Pháp mau thì đôi ba năm, lâu thì sáu bảy
năm, nếu là người thông minh có chí, ít nữa cũng lấy được vài ba cái
bằng cấp vừa cử nhân vừa tấn sĩ rồi về. Về rồi, kẻ thì làm việc nhà
nước, kẻ thì làm việc tư, lương mỗi tháng từ hai trăm đồng cho đến bốn
trăm năm mươi đồng chẳng hạn. Trong khi đó, cưới vợ giàu sắm xe hơi, anh
học sanh ngày xưa thì hôm nay đã nhảy lên cái địa vị sang trọng danh
tiếng. Kể về dương danh hiển thân, như thế cũng đã được lắm. Song le,
nói về sự đối với xã hội, đồng bào, tổ quốc, thì làm như vậy đó, có thể
gọi được rằng giúp ích gì đâu?
Trong đám thanh niên tân học hoặc giả cũng có người nghĩ như vầy: Ủa
hay! Hồi mình đi học, cha mẹ mình cho tiền, còn mình thì ra công thức
khuya dậy sớm, ngày nay là ngày trồng cây đã có trái, thì mình và cha mẹ
mình hái mà ăn, chớ lại có giúp ai? Tổ quốc, đồng bào hồi đó có thí cho
thằng này đồng nào đâu mà bây giờ hòng kể lể?
Người nào nghĩ như vậy thì thôi, chúng ta cũng đừng nói tới họ nữa. Nhưng, không phải là không có người nghĩ khác.
Mục đích của sự học có phải là để hiển thân dương danh, vinh thế ấm
tử mà thôi chăng? Hẳn không phải thế. Sanh ra làm người trong xã hội, ai
cũng có một phần trách nhiệm đối với xã hội hết, mà những người có học
thức cao chừng nào, lại càng có trách nhiệm nặng chừng ấy. Xã hội đương ở
vào lúc thua sút tổ quốc đương ở vào lúc khó khăn, nhất ban dân chúng ở
trong đó thấy không biết làm thế nào, thì cái lòng trông cậy ở hạng học
thức lại càng nhiều. Trông cậy nhiều mà chẳng thấy được gì thì họ phải
thất vọng; thất vọng thì hẳn có những lời trách bị theo sau.
Vị thanh niên nào đã nghĩ như tôi mới vừa nói thì cũng đã thừa nhận
những lời trách. Có kẻ đã phàn nàn riêng về phần mình trong khi đàm đạo
với chúng bạn:"Tôi nghĩ mà xấu hổ quá, hồi bước chân ra đi, định học về
rồi làm thế nọ thế kia, té ra bây giờ cũng"một ngày hai buổi" như người
ta!"
Biết thừa nhận lời trách và biết trách mình như vậy, con người ấy, ta
phải nhìn nhận là người có lòng với tổ quốc đồng bào lắm. Thế thì ta
thử nói với họ rằng: "Ông đã biết vậy, sao ông không làm gì đi?"- coi
thử họ nói ra sao.
Tôi đã nghe người ta nói nhiều lần rồi. Người thì đổ cho thời thế khó
khăn; người thì bực mình không có địa vị, không có quyền hành động;
người khác nói mình có trí tài mà không có tiền; người khác nói nữa
trình độ quốc dân ta còn thấp kém quá, hoá một vài tay học thức cũng
chẳng đủ làm gì. Còn nữa, nhưng hẵng kể bốn cái thuyết đó thôi, bốn cái
cũng đều có lý hết.
Tuy vậy chúng ta nên rủ nhau trở lại ban đầu, hỏi thử hai chữ "giúp
ích" trong lời trách bị trên kia là muốn chỉ về điều gì, thế nào là giúp
ích? Có phải người ta mong cho các ông đi du học về một cái, tức thì
rinh cái nước Việt Nam này mà để lên một cái địa vị sang trọng chăng? Có
phải họ mong mấy người đậu tấn sĩ luật về thì hãy thay đổi những cái
luật pháp cũ đi chăng? Có phải họ mong mấy ông kỹ sư về thì lập ra rất
nhiều xưởng máy để chế tạo quốc hoá chăng? - Có lẽ dân chúng không mong
những điều đó. Không phải là họ không thích mà không mong; có điều họ
biết chắc là mong như vậy không được, nên họ mong thế khác, họ nói "giúp
ích" là nói cách khác.
Ai nấy đều biết rằng các nước phương Đông ta từ hồi gặp người phương
Tây đến giờ thì tâm sự gì cũng thua kém họ hết. Lần lần lại hiểu thêm
rằng người phương Tây sở dĩ họ hơn ta như thế là tại cái học của họ hơn
ta. Duy có biết vậy mới rủ nhau qua Tây mà học; bằng không thì sự du học
chẳng đã thành ra vô nghĩa?
Nguời Nhật Bổn và người Trung Hoa lại còn du học trước ta nữa. Cũng
một ý ấy, họ biết cái học của Tây là hay, nên mới lặn lội đi tìm cho
được để mang về xứ sở mình. Thì quả nhiên họ đã làm đạt đến mục đích
rồi: bao nhiêu du học sanh của Nhật và Tầu từ trước đến giờ đã đem cái
học sở đắc ở bên Tây ra mà truyền bá cho người trong nước. Nước của họ
đã bỏ cũ theo mới, và đã tấn bộ gần bằng các nước phương Tây, cũng là
nhờ đó.
Phải, một nước mà tấn bộ được, là nhờ ở phần đông dân chúng. Mà lũ
dân chúng ấy, họ có thể kéo nhau hết đi ngoại quốc để tìm lấy sự khôn
ngoan đâu. Thế thì cái sự nhờ ở mấy người đi học về rồi truyền bá lại
cho họ, là sự đương nhiên lắm.
Nói đến đây đã rõ nghĩa hai chữ "giúp ích" là thế nào rồi. À! Dân
chúng Việt Nam không mong các ông thanh niên đổi pháp luật hay lập xưởng
máy, nhưng họ chỉ mong các ông bày biểu cho họ biết pháp luật là gì,
xưởng máy là gì đó thôi. Nói tóm lại đại ý như vầy. mỗi một vị thanh
niên tân học hãy đem vài phần mười của cái mình đã lấy được ở ngoại quốc
ra mà truyền bá cho dân chúng, để nâng cao cái tầng trí thức của họ
lên, như thế gọi là giúp ích.
Nếu vậy thì thời thế có khó khăn mấy mà ngại chi? Ai có địa vị và có
quyền, như nhũng người làm đốc học làm giáo sư, thì giúp ích được rồi;
còn kẻ không có địa vị và quyền, há phải là không phương làm được? Tiền
vẫn là vật cần nhưng trong việc truyền bá tư tưởng học thuật cho đồng
bào, tưởng nó cũng chưa phải là vật cần nhất. Còn nói chi trình độ quốc
dân thấp kém thì hẳn là thấp kém rồi; chính vì sự thấp kém đó mà họ mới
mong cấ ông giúp ích cho.
Nói rõ ra như vậy rồi cái cớ kẻ thanh niên tân học xứ ta không làm gì
được, không giúp ích được cho đồng bào tổ quốc, không phải ở bốn cái
thuyết cho rằng có trên kia, mà ở nơi khác.
Đã nhiều lần thấy người ta viết lên trên báo mà phân bì rồi. Họ phân
bì thanh niên ta với thanh niên Nhật, thanh niên Tầu: Sao thanh niên hai
nước ấy đi du học về có nhiều kẻ đã làm sách làm vở ra, lấy tư tưởng
của mình mà day động cả xã hội, còn thanh niên của ta, sau khi du học đã
thành tài, lại không làm được như thế?
Tôi biết tại sao rồi. Không phải tại thời thế và địa vị, không phải
tại không tiền, nhưng tại chỗ khác. Cái chỗ ấy, trong khi đem thanh niên
ta so sánh với thanh niên của Nhật của Tầu thì nó lòi ra. Đại phàm muốn
thâu thái một cái văn hoá khác để bồi bổ cho cái văn hoá sẵn có của
mình, thì một điều cần yếu trước hết là phải biết rõ cái văn hoá sẵn có
ấy ra sao, phải ngấm ngầm trong cái văn hoá ấy, phải lấy chính mình dính
dấp với nó mới được. Nói ví mà nghe, cũng như ta muốn sửa sang một cái
nhà cũ, thì tất nhiên ta phải thấy rõ trong cái nhà ấy, chỗ nào nên để,
chỗ nào nên thay. Người Nhật người Tầu họ hiểu cái lẽ đó, cho nên trước
khi bọn thanh niên xuất dương, họ đã lấy giáo dục bổn quốc mà tạo cho
mỗi người một cái tư cách đúng đắn rồi.
Nói riêng về nước Tầu: Ở trong nước, từ ấu học nhẫn lên cho tới đại
học, đều dạy bằng chữ bổn quốc, từ trung học trở lên mới có dạy tiếng
ngoại quốc, nhưng chỉ là phần phụ. Địa dư, sử ký, phong tục, chế độ của
nước mình từ xưa đến nay ra sao, đại khái một trò cao đẳng tiểu học trở
lên đều biết hết, và lên đến trung học, đại học lại còn phải biết nhiều
hơn.
Thường thường là một người đã tốt nghiệp đại học ở nước nhà mới
xuất dương du học.
Trong khi họ học được điều gì ở ngoại quốc, có thể
đem mà so sánh với điều đã học ở bổn quốc mà thấy hơn thua lợi hại thế
nào; chớ không phải là học tới đâu biết tới đó mà cho rằng đủ.
Bọn ấy, khi về nước rồi, làm gì thì làm, nhưng cốt nhất là họ không
quên sự dịch sách và làm sách. Việc dịch thuật của họ là việc làm có ý
thức, cho nên cũng thâu được nhiều hiệu quả rất lớn.
Nguyên người Tầu thuở xưa chỉ chịu kém người Tây về sự đóng tàu đúc
súng, chớ còn về văn học triết học thì họ khinh đứt đi. Ấy là một sự
lầm. Từ Nghiêm Phục dịch những sách triết lý của người Anh người Pháp
ra, Lâm Thư (người này không du học, không biết chữ Tây, nhờ kẻ khác cắt
nghĩa cho mà dịch) dịch những sách văn học ra, đến đó mới mở mắt thấy
rõ sự tình trong thế giới và địa vị nước mình hơn hồi trước. Nội một cái
thấy rõ được như vậy đã là quan hệ cho nước Tầu chẳng vừa, cho nên công
trạng của hai người ấy cũng chẳng vừa.
Nước Tầu từ trước vẫn có triết học, song chưa có ai làm triết học sử.
Không có triết học sử thì cái trí thức của quốc dân về đường ấy lộn xộn
lắm, cũng là một sự thua người ta và bất lợi cho mình. Hồ Thích, sau
khi đậu bác sĩ triết học ở ngoại quốc rồi, thông thạo những triết học
của ông Descartes, ông Kant rồi về nước dạy khoa triết học, còn làm ra
bộ Trung Quốc triết học sử đại cương. Từ đấy bên Tầu mới có triết học sử
như bên Tây.
Ấy là kể những sự lớn lao mà nghe. Còn nói cho hết thì không biết thế
nào cho hết được. Cho đến những người đi học khoa nuôi gà, về cũng làm
sách dạy nuôi gà; người đi học nuôi thỏ, về cũng làm sách dạy nuôi thỏ.
Đại để mỗi một người du học sanh Tầu không lớn thì nhỏ, cũng có làm ra
một việc chi ảnh hưởng đến đồng bào tổ quốc mình. Mà sở dĩ như vậy là
nhờ ở cái giáo dục của nước họ, trước khi du học, đã làm cho họ dính dấp
với đồng bào tổ quốc mình vậy.
Nước ta thì khác hẳn. Giáo dục của nước ta chưa hề cho thanh niên ta
ngấm ngầm trong văn hoá cũ của xứ mình. Một người học sanh từ ấu học lên
đến cao đẳng (chỉ trường cao đẳng Hà Nội) vẫn có đọc sử ký bổn quốc;
địa dư bổn quốc; vẫn có làm bài luận bằng chữ quốc ngữ; nhưng đó là một
môn chương trình ở lớp học mà thôi. Một ngưòi học sanh tốt nghiệp ở
trường cao đẳng Hà Nội ra, đố ai dám bảo đó là một người Việt Nam đúng
đắn; có đủ tri thức về văn hoá Việt Nam đúng đắn.
Không, không đâu. Ở dưới cái chế dộ giáo dục này, họ dầu muốn làm một
người Việt Nam đúng đắn, muốn có đủ tri thức văn hoá Việt Nam đúng đắn,
cũng không được nữa.
Cũng thì là danh nhân trong chánh giới, nhưng về ông Richelieu, tể
tướng của vua Louis XIII ở hồi thế kỷ XVII thì một người học sanh Việt
Nam biết rõ hơn ông Nguyễn Tri Phương hay ông Phan Thanh Giản là đại
thần của vua Tự Đức ở thế kỷ XIX, về thời gian và không gian đều gần
hơn. Cũng thì đường xe hoả, mà hỏi ở ga lớn Paris có tẽ ra mấy nhánh thì
họ nói mau hơn là cũng một câu hỏi ấy mà hỏi về ga lớn Hà Nội.
Cho những người tốt nghiệp ở cao đẳng Hà Nội đó đi du học rồi về cũng
còn chưa chắc giúp ích cho đồng bào được gì thay; huống hồ nữa là thứ
trẻ con mười, mười hai tuổi, sang Pháp ở luôn đến ba chục tuổi rồi về,
thì bảo còn thiết gì với cái xứ sở này mà mong họ?
Có nhiều kẻ lúc về đây rồi, cho đến cái tiếng An Nam cũng không muốn nói, là phải lắm, ta cũng chẳng nên phiền trách họ làm chi.
Thật quả là không được. Một người Việt Nam dầu du học hay chẳng du
học cũng vậy, họ chữ Pháp giỏi mấy mặc lòng, mà nếu chẳng ngấm ngầm
trong văn hoá Việt Nam, thì quyết là không làm gì cho xã hội này nhờ
được hết. Người ấy nếu trời phó cho một cái lòng ái quốc, muốn cung cúc
tận tuỵ với nước với nòi, là cũng chẳng biết làm cách nào cho có ảnh
hưởng mảy may đến anh em chị em con nhà Hồng Lạc. Lẽ ấy sờ sờ ra; không
còn hồ nghi gì nũa. Những người không biết gì về văn hoá bổn quốc hết mà
học Pháp văn giỏi, thì họ có mặt trong xứ này cũng như một người ngoại
quốc có mặt mà thôi, ta không khi nào mong người ngoại quốc ấy giúp ích
cho ta, thì ta quê gì lại đi mong những người vốn là đồng bào với ta ấy ?
Thật, ai đã tự cắt đứt cái dây liên lạc với tiền nhân và đồng loại
rồi thì khó lòng mà mong rằng một ngày kia sẽ lấy sự quan hệ. Thanh niên
ta bây giờ hầu hết không coi được cái phó ý của nhà mình; thói tục
trong họ trong làng nhất giai không biết tới, trở về tổ quốc mà lại như
chim chích vào rừng, thì còn nói chuyện giúp ích gì cho ai!
Nghĩ như vậy rồi thì không nảy ra câu hỏi. Câu hỏi ấy tức là câu nêu
lên làm cái phó đề trên kia: Kẻ thanh niên tân học nước ta, muốn giúp
ích cho tổ quốc, nên làm thế nào?
Theo sự lý trong bài này, tôi tưởng, trước hết phải nhờ ở sự tu dưỡng
riêng. Mục đích của sự tu dưỡng riêng này cốt ở nối lại cái dây liên
lạc với tiền nhân và đồng bào... Ta tu dưỡng làm sao cho ta thành ra một
người Việt Nam đúng đắn, nghĩa là ngấm ngầm trong văn hoá cũ Việt Nam,
có đủ tri thức về văn hoá ấy. Ta tu dưỡng làm sao cho ta thành ra một
người có quan hệ với dân chúng, đi đến làng nào trong nước cũng như đi
buồng học hay là phòng thí nghiệm của ta, không có ngớ nghếch chút nào.
Kẻ thanh niên tân học nên lưu tâm ở chỗ đó trước rồi sau mới nói chuyện
đến giúp ích cho tổ quốc đồng bào được.
Một bài sau tôi sẽ nói thêm.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét