![]() |
Vua Khải Định (1885 - 1925) |
Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc đấu xảo quốc tế ở Ba Lê,
Phan Châu Trinh gởi cho nhà vua một bức thư lời lẽ nghiêm khắc buộc Khải
Ðịnh phải thoái vị nhường quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà vua
đã làm và đáng tội chém đầu. Có đoạn ông đã viết : “…Một là vì Trinh này
đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ
đứng vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức thư này không phải dâng
lên cho bệ hạ mà chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng đây,
chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn đó mà thôi … ngày
nay Trinh này đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo là cái tên húy của bệ
hạ, để tỏ ý phản đối”. Bức thư của ông, sau khi được công bố, khích động
được tinh thần tranh đấu của đồng bào trong và ngoài nước.
Xin giới thiệu bức thư này của nhà cách mạng Phan Châu Trinh
do Phan Châu Trinh và Lê Ấm dịch, được in trong Thư thất điều NXB Anh
Minh, 1958, Huế.
KHẢI ĐỊNH HOÀNG ĐẾ THƯ
Thư thất điều gởi vua Khải Định (bản dịch)
Việt Nam quốc dân Phan Châu Trinh gởi thư cho đương kim hoàng đế
Tôi sinh gặp lúc: trong thời nước nhà nghiêng ngập, ngoài thời các
nước đua tranh tiến bộ. Tôi là người yêu bình dân chủ nghĩa, ghét chuyên
chế quân quyền, đau đớn vì quan lại tham lam, thường xót vì dân sinh
khốn khổ, vậy nên tôi sẵn lòng liều cả sanh mạng tôi, ra gánh vác việc
đời, trông mong có cứu lại cuộc hiểm nghèo được chút nào chăng!
Năm 1907, tôi đã gởi thư cho các quan chánh phủ Bảo hộ, hết sức kêu
ca, trước bày tỏ tình cảnh khổ sở của dân Việt Nam, sau xin thay đổi
theo chính trị các nước văn minh trong thời bây giờ. Những việc tôi đã
đề xướng trong lúc ấy đều là sự cần kíp cấp thiết cả: như lập trường dạy
tiếng Tây và chữ Quốc ngữ, bày ra hội thương, hội nông để giành lại
quyền lợi cho người mình, và thay đổi cách ăn mặc theo cách Âu Tây, v.v…
Những việc đó tôi làm trước mắt người thiên hạ, rõ ràng như ban ngày,
vậy thời có tội lỗi gì không? Thế mà triều đình nước ta, từ trên đến
dưới, cứ khư khư giữ lấy thói chuyên chế cũ để hà hiếp dân ngu, cướp lấy
lợi riêng cho mình; ghét việc thay đổi như cừu thù, coi nhân dân như
rơm rác, tìm cớ bới việc, phá phách đủ đường, làm cho lòng dân ai ai
củng tức giận, để mà giết hại những kẻ thông minh lương thiện trong
nước. Sự chống sưu thuế không công bình, xảy ra khắp cả 12 tỉnh Trung Kì
trong năm 1908, thời dân và thân sĩ bị giết và bị tù, kể hơn mấy ngàn
người, đau lòng thảm dạ biết bao nhiêu.
Gặp dịp như thế, một người như tôi, có thể nào mà họ chịu bỏ lỏng:
phao cho việc này, buộc vào cớ kia, trước thời xử án tử hình, sau lại
đày Côn Lôn.
Khốn nạn thay! Nước ta bị nước Pháp bảo hộ đến ngày đó đã gần ba bốn
mươi năm rồi, nhưng sự hủ bại vẫn không thay đổi, cách văn minh chẳng hề
bắt chước, mà cái nọc độc chuyên chế ức hiếp vẫn còn gớm ghiếc như thế.
Vậy thời cái văn minh của nước bảo hộ không có ích gì cho nước bị bảo
hộ, mà nước bị bảo hộ cũng không nhờ gì được sự khai hoá của nước bảo
hộ, lạ quá! Sự đó trong đời nầy cũng ít thấy vậy.
Nếu tôi không nhờ được cái lòng công bình của mấy người Tây thời tôi
còn đâu đến ngày nay. Tôi mà còn sống đến nay, cũng là nhờ cái văn minh
thực của người Tây vậy (nhờ có hội Ligue des Droits de I’homme).
Năm 1910, được khỏi tù, năm 1911 tôi được qua Tây để xem xét cái học
thuật văn minh Âu Châu. Đã 12 năm, tôi ăn nằm trên cái đất dân chủ, hớp
cái không khí tự do, nhờ vậy mà tôi hiểu được lẽ chánh đáng trong thế
giới, phần nghĩa vụ của quốc dân, và cũng biết chắc được cái mục đích
của nước nhà nên thay đổi như thế nào. Dân ta bây giờ phải đánh thức
nhau dậy, phải đồng lòng hiệp sức mà chống cự với lũ vua dữ quan nhơ,
phải phá nó cho tan, đạp nó cho đổ; lại phải lấp tận nguồn, cắt tận rễ,
làm cho tiệt hẳn sức ma quỉ chuyên chế, nó đã ám ảnh chúng ta mấy ngàn
năm nay, nếu không làm như thế thời không bao giờ trông thấy ánh sáng
mặt trời mặt trăng nữa!
Đó là cái chủ ý và cái mục đích của tôi vậy.
Vậy mà nay tôi nghe Bệ hạ từ khi lên ngôi tới giờ, có làm điều gì ích
lợi cho dân không? Không, chỉ nghe có những điều kiêu căng, dâm dục,
trái luân lý; nghịch phép tắc; quyền vua muốn cho tôn sùng, thưởng phạt
mất cả công chính; hút cái máu mủ của dân nghèo, trau cái xác thịt cho
sung sướng, ngược văn minh của thế giới, ngăn đường tiến bộ của quốc
dân; nết xấu tính hư, chứa chan đầy nhẩy, không sao mà nói cho xiết
được.
Theo luật hiến pháp các nước văn minh trong đời bây giờ, vua nào trái
phép, dân có quyền cứ luật mà bắt tội. Tuy ngày nay dân quyền nước Nam
còn bị đè nén, hiến pháp còn chưa thành lập, song cứ theo lẽ công bình
chung trong đời nay, Bệ hạ không sao mà gỡ tội với chúng tôi được.
Nay tôi trích ra bảy việc quan hệ thứ nhất đến dân, đến nước chúng
tôi, bảy việc đó là bảy tội của bệ hạ, tôi sẽ xét đoán bắt buộc như sau
nầy, khi bệ hạ được thư này, thì Bệ Hạ phải tự xử lấy.
I. Một là tội tôn quân quyền
Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thường ra những Chiếu, Dụ ép dân phải tôn
quân quyền, là lẽ gì vậy? Bệ hạ thường nói, nước ta xưa nay vẫn sùng Nho
giáo. Nho giáo còn ai lớn hơn ông Khổng, ông Mạnh? Xưa vua Định Công
hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có câu gì vua nói ra làm nước thạnh vượng được
không?”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, làm vua khó lắm, mà làm tôi cũng không
dễ”. Lại hỏi rằng: “Vậy thời có câu gì vua nói ra, mà làm mất nước
không”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, ta không vui chi sự làm vui, ta chỉ vui
sao cho những lời ta nói ra không ai dám cãi lại”. Thầy Mạnh Tử nói
rằng: “Trong nước dân là quý nhất, đất cát và vật sản là thứ nhì, còn
vua là khinh”. Lại nói rằng: “Có ở cho được lòng người cùng dân, mới
đáng làm ngôi thiên tử”. Còn biết bao nhiêu là lời nói khác nữa, cũng
toàn một ý ấy cả. Bệ hạ xem lại trong 5 Kinh và 4 Truyện, xem có câu nào
là tôn quân quyền không? Bởi vì người nào mà ngôi mình ở trên muôn
người, thời lòng khiêm nhượng phải xem mình như ở dưới cả muôn người, ấy
là cái tinh thần của Nho giáo vậy; nếu người nào hãnh hãnh tự đắc, cậy
quyền thế mà ép dân, rằng: “chúng bay phải tôn ta, phải sợ ta, thời
người ấy chẳng khác chi tìm đường tự tử vậy”.
Xưa vua Kiệt rằng: “Ta làm vua trong nước nầy, như mặt trời soi trên
trái đất, mặt trời mất ta mới mất”. Dân thời trả lời rằng: “Mặt trời kia
sao mầy không mất? Chúng ta sẵn lòng chết với mầy, làm cho mầy mất.”
Vua Trụ rằng: “Mạng ta sinh ở trời, chứ chẳng ở dân”. Dân trả lời
rằng: “Trời là dân, trời xem là dân ta xem, trời nghe là dân ta nghe.”
Rút cuộc lại vua Kiệt thời đày ra nội Nam Sào, vua Trụ thời đầu treo cờ Thái Bạch.
Ấy là những gương của các ông Vua tôn quân quyền đó. Về sự đó đức
Khổng Tử rằng: “Vua Thang đày ông Kiệt, vua Võ giết ông Trụ là hợp theo
lẽ trời, mà thuận theo lòng người”, Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Nghe giết
một người tàn bạo, tên là Trụ chứ chẳng phải giết vua.”
Đấy mới thực là Nho giáo đấy, sách vở còn sờ sờ đấy, đều ghi lại từ
tay đức Khổng, thầy Mạnh cả, có phải tôi bày đặt ra tôi tự dối tôi, mà
phỉnh người ta đâu.
Những Chỉ, Dụ tôn quân quyền của Bệ hạ, có khác gì cái chiến thơ với
Nho giáo hay không? Xưa nay có vua nào nghịch với quốc giáo mà còn được
làm vua lâu dài đâu.
Còn theo các học thuyết mà nói, sao gọi là nước? Là hiệp dân lại mà
thành nước; sao gọi là triều đình? Là những người được ủy quyền cho,
phải thuận theo ý muốn của dân mà làm những việc lợi dân ích nước.
Ông vua hay ông Giám quốc, chẳng qua là người thay mặt cho một nước,
cũng như một người quản lý thay mặt cho một Công ty mà thôi.
Ai chịu trách nhiệm ấy, hay hưởng được cái quyền lợi, thời phải làm
cho hết các bổn phận mình đối với dân, đối với nước; nếu không thế thời
cũng bị phạt, bị tội như mọi người vậy.
Ấy, tự do, bình đẳng, là nghĩa như thế mà các nước văn minh thì nay
phải đặt ra quan Nội các Tổng trưởng (tức là Tể tướng) để thay quyền vua
hay Giám quốc để chịu lỗi với dân là thế.
Nếu có ông vua, hay ông Giám quốc nào chiếm của dân làm riêng của
mình, thời dân buộc tội cũng chẳng khác gì tội ăn trộm ăn cướp; nếu cậy
quyền mạnh hành hạ dân làm tôi mọi, thời buộc tôi cũng như đứa bạn
nghịch.
Cái lẽ ấy đương thời nó sáng rỡ như ban ngày, ai ai cũng rõ. Phàm
những dân các nước văn minh, đều coi lẽ ấy như nước, lửa, lúa, gạo, thờ
lẽ ấy như trời đất thần linh; dân nào thuận lẽ ấy thời được thạnh vượng
phú cường, dân nào trái lẽ ấy thời phải sa sút hèn hạ.
Xưa vua nước Pháp là Louis XIV nói rằng: “Nước là ta”. Dân Pháp cho
là lời nói đại nghịch vô đạo; đến nay người Pháp làm sách chép đến câu
đó cũng còn chưa nguôi lòng giận. Cái ý đó có khác gì với nghĩa Nho giáo
đâu.
Đức Khổng Tử nói rằng: “Ông vua nào muốn cái sự ghét của dân, thời
tai hại tất có ngày đến mình”. Lại nói rằng: “Mọi rợ nó có vua, chẳng
bằng những nước văn minh nó không có là hơn”. Ông Mạnh Tử nói: “Nước là
nước của dân, chứ không phải của vua”.
Nay Bệ hạ sinh đẻ trong nước Nho giáo, và làm vua trong thì bây giờ
là thế kỉ 20, mà nước ta lại đứng dưới quyền nước dân chủ Pháp Bảo hộ,
Bệ hạ lại dám tôn mình như thần thánh, nghênh ngang trên đầu dân. Vậy
thời chẳng những dân Việt Nam không thể dung được Bệ hạ, mà dân nước
Pháp lại càng khi dễ Bệ hạ nữa.
Nay chúng ta thử ghé mắt xem qua tình thế Âu Á, Nhật Bản là nước đồng
văn, đồng giống với nước ta. 40 năm trước họ đã lập ra hiến pháp, cho
dân được bầu cử nghị viện; việc chính trị trong nước theo công ý của
dân, chứ vua không được tự chuyên cả; vì thế nên nước họ được cường
thịnh, nay đã đứng đầu trong Á Đông, thế mà họ vẫn hiềm quyền vua còn
lớn quá. Vua Minh Trị là vua có danh tiếng công đức của Nhật Bản, mà
cuối năm hiệu Minh Trị, ông ta còn bị cái hiềm thích khách, lại năm mới
rồi đây, quan Tể tướng Nhật Bản bị giết trong ga xe lửa cũng vì cớ ấy.
Nước Tàu là nước mẹ văn minh nước ta, trong năm 1911 họ cũng đã đuổi vua đi để lập nên nước dân chủ.
Còn như Âu Châu, quyền vua còn ai lớn hơn Hoàng đế nước Nga, thứ nữa thời Hoàng đế nước Đức, và Hoàng đế nước Anh (trong nguyên bản là Úc, có lẽ nhầm?).
Trong chiến bại vừa rồi, vua Nga là Nicolas II và cả nhà bị giết một
cách rất thảm hại; vua Đức Guillaume II phải trốn qua Hà Lan mới khỏi
chết; vua Anh Charles I, hai lần trốn về để mưu phục ngôi vua, dân nước
Anh họ chống cự lại và đuổi đi như đuổi gà; rút cục lại bị đày chết
ngoài một hòn cù lao.
Những ông vua tôi đã kể trên đó, đều là những người anh kiệt, và trí
họ cũng biết đủ mọi việc trên thế giới, tuy họ đối với dân có một hai
chuyện tự chuyên, song cũng có lắm việc họ làm ích cho nước họ. Những
ông vua nào làm nên, thời nước được giàu mạnh, ông nào có bị thua đi
nữa, cũng không đến nổi mất nước. Thế mà các nước ấy nó đối với các vua
chúng nó một cách rất nghiêm khắc, ghét họ như là cục thịt dư bướu thịt,
gớm họ như con rắn dữ rết độc; việc nhỏ không cẩn thận, thời chúng nó
bẻ bắt không thứ; làm việc lớn mà hỏng, thời sự chết chóc theo ngay. Xem
đó thời đủ biết cái trí thức những dân đời bây giờ mở mang là thế nào!
Còn nước Nam ta, từ xưa đến nay, vẫn là một nước chuyên chế, trăm
việc chính trị vào một tay vua; công việc Triều đình cấm không do dân
nói đến (luật ta cấm không cho học trò và dân gửi thư cho vua nói chính
trị). Đã 70, 80 năm nay, trên vua thời hèn, dưới tôi thời nịnh; pháp
luật thời nghiêm nhặt, dân mất cả tự do (từ thời Gia Long đem luật Thanh
về trị dân Việt Nam, là một sự lầm, vì luật đó là luật người Mãn Châu
lập ra để trị Trung Quốc, trong luật ấy lắm phép không công bình; xem
như khi luật ấy bắt đầu thi hành trong nước ta, ông Nguyễn Văn Thành là
một người khai quốc công thần, chỉ vì cớ con ông ta đặt một bài thơ
chơi, vậy mà các quan nịnh thần, đem thêu dệt ra, giết cả nhà ông ấy!
Thế thời bộ luật ấy độc dữ biết chừng nào!). Từ đó nước ta, dân với vua
cách nhau xa quá; các quan ở giữa muốn làm chi thời làm, dân không chỗ
kêu ca. Từ triều Minh Mạng về sau, giặc giả nổi lên luôn; đến đời Tự
Đức, Tây qua là mất nước, ông bà nhà Nguyễn, trong 200 năm mở mang gần
nửa nước Nam, công đức lớn biết là bao nhiêu mà con cháu làm vua chỉ
chưa đầy 50 năm, đã bị họa mất nước, là bởi cớ đó, thảm thay! Việc học
hành thời hủ bại, nên học trò dốt nát, chỉ biết thi đậu làm quan để ăn
cướp của dân, chẳng biết nước nhà là gì.
Vậy cho nên đến nay nước nhà một ngày một sa sút, càng ngày càng tàn
mạt, chẳng còn đứng vào bực nào cả; nếu không bị nước Pháp lấy, thời
cũng không biết nước ta trôi nổi vào tay ai!
Cứ sự đã qua đó mà buộc tội, chẳng vua thời ai? Dẫu có anh thầy kiện miệng lưỡi giỏi thế nào, cũng không cãi cọ gì được.
Vậy nước ta từ nay về sau, còn nên tôn quân quyền nữa không? Không,
chẳng những là vua không nên tôn, mà ngôi vua cũng nên cất đi kia. Vậy
mà vua đến nay cũng còn, thương ôi! Cái trí khôn dân ta lu lấp, thua kém
cả người thiên hạ, đã đành nên thương hại, mà cái lòng trung hậu nhịn
nhục của nó cũng nên chuộng vậy!
Vậy thời đáng lẽ vua phải hết lòng lo lắng làm việc gì lợi ích cho
thỏa lòng chúng nó một tí mới phải. Nay Bệ hạ thời không: lúc chưa làm
vua, chẳng nghe có một điều gì là hay, mà sự xấu xa thời đã chán chường
trước mắt thiên hạ, chỉ lo chạy ngược, chạy xuôi để lên làm vua cho
được; đến lúc làm vua được rồi, chỉ làm việc cho nhân dân oán thán mà
thôi. Vậy mà nay còn dựa hơi quyền nọ quyền kia, bắt buộc dân còn phải
tôn mình nữa kia!
Chiếu theo luật xưa nay, dân Âu Á chúng nó bắt tội các vua của chúng,
mà xử Bệ hạ, thời một cái giết, hay một cái đuổi, hai cái đó Bệ hạ
không thể tránh được.
II. Hai là tội thưởng phạt không công bình
Thưởng phat là cái phép lớn của Triều đình. Mạng sống của dân, kỉ
cương của nước, đều quan hệ ở đó cả. Đức Khỗng Tử nói: “Hình phạt không
nhằm phép, thời dân không có chỗ thò tay chân”. Mạnh Tử nói rằng: “Người
trên không theo lẽ thẳng, người dưới không giữ phép luật, cái nước như
thế, thời thế nào cũng phải mất”. Đời xưa thưởng người phải ở Triều, là
tỏ ra người cả nước cùng thưởng, phạt người phải ở chợ, là tỏ ra người
cả nước cùng phạt; nếu hai sự đó mà mất cả công bình, thời dân cần gì
phải có vua có quan?
Tôi nghe đích rằng: Bọn tên X là bạn chơi bời lẳng lơ với Bệ hạ khi
trước, khi bệ hạ làm vua rồi, thằng thời được thăng chức Thống chế để
hầu hạ bên mình, thằng thời làm cho Tri phủ, Tri huyện, quan Tỉnh hay
quan Kinh v.v… Lại nghe có anh quan Thị lang nọ, vợ anh ta có oán riêng
với Bệ hạ lúc còn chưa là vua, khi Bệ hạ lên ngôi rồi, nhơn sự rủi ro
nho nhỏ, anh ta bị cách chức đuổi về ngay. Lại một Thượng thơ hay rao
bán những cái tịt riêng của Bệ hạ ra ngoài, nhân dịp đó mất chỗ dựa, Bệ
hạ tìm cớ buộc tội nặng, xử 8 năm tù, án đã làm rồi, sau nghe anh này
rút ra 5 vạn đồng bạc, lại được lại, giáng chưa đuổi về.
Vậy thời sự thưởng phạt, Bệ hạ cứ theo ý riêng của mình, chẳng cần gì
phép nước, làm cho thêm sự gian dối lo lót ra. Vua như thế, thời vua
làm gì?
Lại nghe Bệ hạ nuôi một tụi lính kín hơn 40 người, để mai chiều đi do
thám chốn hương thôn, nơi thành thị, xem có ai gièm chê mình không? Nếu
có, thời Bệ hạ hoặc là tìm cách buộc tội ngay, hoặc là dùng cách bí mật
làm hại mà không cho người ta biết. Những quân đó rặt là quân côn đồ,
cậy thế gần vua, làm điều phi pháp, khiến cho lương dân ai ai cũng sợ
hãi, khóa mồm bịt miệng, ra đường gặp nhau chỉ lấy mắt trông nhau mà
thôi, thiệt là làm cho nhân dân khổ sở thảm thê.
Xưa vua Lệ nhà Châu là người lắm nét xấu, sợ dân chỉ trích, mới đặt
ra một cái phép để khỏi sự chê gièm, cũng làm như Bệ hạ vậy. Ông Thiệu
Công can rằng: “Bịt miệng dân khó hơn là bịt miệng sông”, vua Lệ không
nghe, sau quả bị dân giết. Sao Bệ hạ không lấy gương đó mà soi?
III. Ba là chuộng sự quỳ lạy
Cái quỳ lạy chẳng qua là để chỉ sự tôn kính đó mà thôi, ngoài ra
chẳng có nghĩa lý gì cả. Một người ngồi đồ sộ ở trên, bao nhiêu người
dưới phải áo mão dập đầu xuống đất, chẳng những là làm mất cái phẩm giá
của loài người, mà lại làm cho người trên sinh lòng kiêu căng, người
dưới mất lòng liêm sỉ, thật là một cái lễ phép rất là mọi rợ. (Lễ lạy
đời xưa, một người lạy thời phải lạy trả lại, lễ đó hãy còn bên Nhật
Bản, nhưng vì phiền quá, nay cũng bỏ).
Các nước văn minh đời bây giờ đều bỏ cái lễ ấy cả, chỉ còn một hai xứ
Mường, Mán còn giữ lại mà thôi, thế mà nước ta đến nay vẫn còn giữ thói
đó, thực là một sự xấu hổ cho dân ta biết bao nhiêu.
Năm 1906, quan Tòan quyền Beau ra lệnh bỏ lạy, khốn nạn thay cho các
quan lớn Việt Nam không biết xấu hổ, cứ bắt dân giữ cái thói cũ. Đến lúc
quan toàn quyền Sarraut lại cấm lạy một lần nữa; nay Nam kỳ và Bắc kỳ
đã bỏ cả rồi, mà Bệ hạ cũng cứ khư khư theo cái thói mọi rợ đó, chẳng
những không bỏ, lại còn làm cho phô trương thêm ra, Bệ hạ làm hình như
thèm cái lạy như thèm ăn uống một món gì ngon sướng lắm. Mỗi khi trong
Triều có lễ chầu lạy thời Bệ hạ cho phép người nào chụp ảnh để bán cho
khắp cả nước, những ảnh ấy đã truyền khắp cả thế giới.
Khi Bệ hạ qua Tây, các quan tiễn đến ga xe lửa Đà Nẵng, Bệ hạ cũng bắt làm lễ lạy; đến khi tàu tới Marseille cũng thế.
Lễ lạy không phải là lễ văn minh, vua cũng không phải là trời, quan
và dân không phải là đày tớ mạt, ga xe lửa và bến tàu không phải chốn
Triều đình, mà sao Bệ hạ dám bắt người ta vùi áo mão trong chốn lầm
than, xem loài người như loài trâu ngựa, làm cho người ngoại quốc trông
vào, chẳng những là chê cười Bệ hạ, mà lại mỉa mai khinh dễ nòi giống
Việt Nam nữa. Những sự đó, phàm những người có nhiều ít trí khôn, biết
được một tí văn minh thời bây giờ, chẳng ai chịu làm, mà Bệ hạ thời cứ
vui vẻ tự đắc mà làm được, thực lạ quá! Vậy không phải một người ngu là
gì?
Rất đổi Bệ hạ lạ cho phép người ta dùng thạch cao nắn thành hình
người, như lúc Bệ hạ chịu chầu lạy trong lễ đại triều, để trong trường
đấu xảo Marseille, Bệ hạ tưởng sự đó là quan trọng lắm hay sao, mà Bệ hạ
dám đem ra khoe trước mắt thế gian? Tưởng làm thế nầy: Bệ hạ thời
choảnh trên ngai thếp vàng chẳng chút khiêm nhượng nào cả, còn các quan
lớn nhỏ râu tóc bạc phơ, cúi đầu khoanh tay mắt thời nhắm hi hí, khòm
lưng đứng cả trước Bệ hạ, làm như hình một bầy rái cá đương tế cá, một
bầy khỉ đương làm trò. Những người Âu có kiến thức, ai nấy cũng tức
cười, vậy có chán ngán không?
Vậy thời Bệ hạ chẳng biết gì là xấu hổ sao? Bệ hạ chẳng quản gì danh tiếng của Bệ hạ mặc lòng, còn thể diện nước Nam thời sao?
Trong Kinh truyện rằng: “Những ông vua mà tính ý trái với thiên hạ
cả, thế nào cũng bị người làm hại”. “Vua khinh dân như thể là con chó
con ngựa, thời thế nào dân cũng coi vua như người đi đường”, (nghĩa là
không tình nghĩa gì với vua). “Vua coi mạng dân như cái cỏ cái rác, thời
dân cũng coi vua lại như người cừu thù”.
Vậy thời Bệ hạ chẳng qua là người qua đường, hay là người thù địch
của dân Việt Nam đó mà thôi, muốn cho dân đừng làm hại đến mình sao
được?
IV. Bốn là tội xa xỉ vô đạo
Sau khi Bệ hạ làm vua rồi, thời đã đem lòng chán chê những cung điện
cũ ông bà đời trước để lại, liền làm ngay một sở cung điện nguy nga ở
làng An Cựu, mua những đồ sứ của Tàu, mỗi lần vài ngàn bạc, đem về đập
bể ra, lựa những miếng nào bông hoa đẹp, để gắn những hình con long,
lân, qui, phụng, cho thỏa lòng xa xỉ của Bệ hạ. Lại đem bạc tiền thuê
người Tây đúc ba, bốn cái tượng đồng của mình, phí tổn ước mỗi cái trên
dưới nột vạn đồng bạc, để chưng trong nhà đấu xảo. Báu gì, xảo gì đồ đó
mà đấu! Lại từ cái khăn, cái mũ, cho chí cái áo, cái giày, Bệ hạ đều
đính vàng ngọc kim cương, giá phí biết là bao nhiêu! Rất đổi lấy vàng
luột giát ra làm cái ủng để bao khắp chân, xa phí dại dột, từ xưa đến
nay chưa có nghe ông vua nào làm như thế bao giờ.
Lại Bệ hạ lúc qua Tây, xuống tàu từ Tourane cho đến khi qua đến Tây,
lúc ở trên tàu, gặp khách bộ hành nào thời những rượu sâm banh hạng nhất
là đãi cho thả cửa, chỉ nói những tiền cho “buộc boa” (pourboire) cũng
đến 20.000 quan, còn kim tiền kim, khánh thời đụng cho ai nấy, chẳng kể
sao hết được.
Ai còn lạ gì, khi Bệ hạ chưa làm vua, trong túi chẳng có một xu, vậy
thời tiền đó ở đâu mà tới? Chẳng phải Bệ hạ ăn cắp tiền kho, tiền kín
của nước ta, thời tiền đâu?
(Trở lên là sao y bản dịch thủ bút của Cụ Tây Hồ còn giữ được. Dưới đây là ông Lê Ấm dịch tiếp ở bản thủ bút Hán văn)
Than ôi! Ở Trung kỳ nước ta, nông dân thời nghèo khổ đến cực điểm,
thiên tai tới tấp, oan vong thường thấy, quan tham lại nhiễu, đất xấu
dân cùng, lại thêm trong lúc giặc giã, vật giá cao vọt, tình trạng lưu
ly đến nay chưa cứu vớt, xâu thuế nặng nề, gánh vác không nổi; nói đến
việc mở mang trí khôn, việc nâng đỡ đời sống thời còn xa lắc xa lơ, sánh
với Nam, Bắc kỳ, bên khô bên tươi cũng đã rõ rệt rồi. Thế mà ngân sách
còn kêu thiếu hụt, ép dân mua rượu, thuốc phiện để làm giàu công quỹ,
trắng trợn như thế còn phải làm, còn nói chi nữa.
Chẳng nói đâu xa, những năm 1916, 1917, 1918 là sau khi Bệ hạ đã lên
ngôi rồi, dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Quảng
Nam, Quảng Ngãi bị bão to lụt lớn hạn lâu, nên phải chết đói, chết dịch,
trên báo chương kêu vang luôn, thảm thương như thế còn gì hơn nữa!
Nhưng mà chưa từng nghe Bệ hạ làm được một việc từ thiện nào để cứu
người sống sót, bố thí một đồng xu nào để giúp kẻ khốn cùng! Như vậy
thời Bệ hạ đã dứt hết tình nghĩa với quốc dân ta từ lâu rồi, mà nay lại
dám ăn cắp của nước làm của riêng, xa xỉ bậy bả, vứt tiền vào chỗ trống
không. Chỉ lấy một việc ấy mà nói, Bệ hạ còn mặt mũi nào, còn tư cách
nào mà tự xưng là vua của dân ta?
Giả sử như Bệ hạ lấy tiền làm cung điện đó mà lập một trường Đại học
tại Huế, lấy tiền mua mua đồ sứ để đập bể đó mà mua đồ dùng cho nhà
trường, lại lấy tiền phung phí dưới nuôi học sinh lưu học tại Pháp cũng
được vài mươi người, thời hai cách dùng tiền lợi hại khác nhau biết là
bao nhiêu!
Thương hại thay! Quốc dân ta mỗi năm cần cù, đổ mồ hôi sa nước mắt,
vợ kêu đói con khóc lạnh, cũng mặc, thân rách lưới, bụng xép ve, cũng
mặc, chỉ lo chạy ngược chạy xuôi cho có tiền để nạp thuế cho nhà nước,
mà cũng có lòng mong nhà nước làm được điều gì ích lợi chăng? Nhưng mà
khi thu thì vơ vét tận xương tủy, đến khi tiêu thì vãi tung như tro bụi
như thế thời quốc dân ta tội gì mà phải chịu cực khổ, dâng của cải, máu
mủ để cho một người vua u mê tiêu phá một cách dại dột như thế?
Trong khi Bệ hạ vung vãi bậy bạ đó, Bệ hạ há không nghe việc làm của
vị tổng thống Trung Hoa là ông Lê Nguyên Hồng sao? Ông ấy thấy kho nhà
nước thiếu hụt, thời tự nguyện đem tiền lương của mình hơn 3 triệu rưỡi
quan tiền Pháp, trả lại cho quốc dân để đem làm việc từ thiện, các báo
Pháp khen ngợi không ngớt.
Ôi! Tàu là một nước đất đai rộng, sản vật nhiều, dân số đông hơn hết
trên thế giới, lại là một nước độc lập, họ đói nghèo, không phải là cùng
vô sở xuất, thế mà đường đường một vị Tổng Thống một nước lớn, biết yêu
nước, biết lo dân, còn không muốn lãnh số lương hằng năm được hưởng, để
cho quốc dân bớt gánh nặng thay; huống chi nay Bệ hạ là vua một nước bị
bảo hộ, vị thứ ở dưới quan Toàn quyền, danh hiệu chỉ có trong 12 tỉnh,
công nghiệp không hơn gì một tên dân mạt, mà lại dám tự sánh mình như
vua trời, việc làm như trộm cướp, ngoài lương bổng ra, còn thêm phí tổn
làm cung thất, lại còn tiêu xài bậy bạ nữa, thế là nghĩa lý gì?
Bệ hạ viết thư cho Bộ Trưởng Thuộc địa có câu xưng là “cha mẹ dân”,
thử hỏi nước ta xưa nay vốn trọng luân lý gia đình, mà có đâu thứ cha mẹ
tàn nhẫn bất lương như vậy? Đổi lại, phải nói là thằng giặc của dân
thời đúng hơn. Đó là bốn tội.
V. Năm là phục sức không đúng phép
Bệ hạ tự chế ra một thứ lễ phục kiểu mới, tự mặc ra để ra Triều. Kiểu
ấy là trên áo cẩm bào cũ, thêu vào cái cầu vai kiểu Âu, còn cổ áo và
tay áo thời đính vài ngọc lòe loẹt, Âu không ra Âu, Á không ra Á, lại
trên nón vua thời thêu thêm những hình rồng phụng sáng ngời. Nghe nói
khi Đại tướng Jofre qua nước ta, Bệ hạ mặc đồ ấy mà đón tiếp; bây giờ
qua Pháp, khi đến điếu mộ danh nhân tử sĩ, cũng mặc đồ ấy. Cũng may là
người Pháp ít để ý đến lễ chế nước ta, nên không biết đó thôi, nếu có
người hơi rõ, gạn hỏi rằng, Bệ hạ ăn mặc như vậy quả có đúng với lễ phục
nhà binh nước Nam không? Thời chẳng biết trả lời thế nào được.
Thử xem các nước trên thế giới, về lễ phục thời nước nào cũng có qui
định, khi tiếp khách, khi duyệt binh, khi triều, khi hội, lễ phục có
quan hệ đến quốc thể; phàm người ra làm việc công đều không được vượt
khỏi, nếu không thận trọng một chút, thời đối ngoại mang nổi nhục thất
lễ, đối nội mang cái tội trái phép. Ở nước ta trước kia phép nọ cũng rất
chặt chẽ, từ vua đến dân đều có thể chế, chép lại ở hội điễn, ban bố
làm lệnh chung, nếu ai sai vượt thời hình phạt theo ngay.
Nếu nói rằng cách mặc xưa không hợp với đời nay, phải cải cách cho
hợp thời, thời đó không phải việc không nên làm. Xem như Tàu với Nhật
công phục đều theo lối Âu Châu thời sao? Nhưng phải đặt làm thể thức
nhất định, trên dưới một loạt, thay đổi theo mới, lấy lệ công bố ra ai
nấy đều phải theo, như vậy thời sao lại không nên?
Nay Bệ hạ lại trái hẳn, tự chế tự mặc, chỉ lo làm sang một mình,
người trong nước xem vào không gì là chính đính, lại làm cho tai mắt
người ngoài lầm lạc, đã sai phép bang giao, lại làm nhục quốc thể, chiếu
luật pháp nước nhà, phải chịu điễn hình. Đó là năm tội.
VI. Sáu là du hạnh vô độ
Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thời ra sức khuếch trương nghi trượng nhà
vua, thường thường ra đi chơi rông, nào là voi, nào là kiệu, nào là xe
nào là ngựa, những người theo hầu, nhiều khi đến hàng trăm, ít cũng ba
bốn chục, chiều lại rong chơi thành thị. Trang sức lộng lẫy, nghi thức
oai nghiêm, quân hầu nghênh ngang, nước ta bốn mươi năm chưa từng có.
Người đi đường khổ việc chạy tránh, dân trong nhà chán sự hầu phần, còn
Bệ hạ thời dương dương tự đắc, ý muốn tỏ cho người ta biết rằng Hoàng đế
là sang.
Xét luật pháp các nước văn minh, không có quyền lợi nào mà không có
nghĩa vụ kèm theo. Nay Bệ hạ tự tôn quân quyền, tự ý làm oai làm phúc,
chính trị bỏ lỡ không mảy may lưu tâm đến. Nhân dân đói lạnh chẳng chút
hỏi han, mà lại ngày ngày chơi rông, kiêu căng buông lung, thời còn
trách kẻ bầy tôi sao được? Bệ hạ thì cao quý lắm đó, còn quốc dân đau
khổ thì sao?
Như vậy là chỉ biết quyền lợi, mà không biềt có nghĩa vụ, chiếu theo
luật, hễ không làm hết nghĩa vụ thời phải chịu trách nhiệm là cái tội
hại nước hại dân, Bệ hạ phải chịu là thủ phạm trước hết. Đó là sáu tội.
VII. Bảy là việc Pháp du ám muội
Bệ hạ qua Pháp chuyến này, người ta kẻ nào có lưu tâm đến quốc sự,
phần nhiều phải suy nghĩ, trước thời ngờ sau thời lo, khi đã biết rồi
thời ngó nhau mà cười mĩm.
Mượn cớ rằng đưa Hoàng tử đi học, hoặc đi điếu quân sĩ nước ta tử
trận, và đi xem các thành phố phía Bắc nước Pháp bị tàn phá, thời những
việc đó đều là việc tư của Bệ hạ, không phải việc công của quốc dân ta,
lại đó là việc không cần kíp gì cả.
Nếu mượn cớ rằng đi du lịch nước Pháp, để khảo sát văn minh của họ
rồi để cải cách chính trị trong nước, thời Bệ hạ không phải là tay làm
việc ấy được. Sao vậy? Vì nước Pháp là nước dân chủ, mà Bệ hạ là vua tôn
quân quyền, lấy cán vuông mà đút vào lỗ tròn, chỉ có cái hại làm cho hư
cán mà thôi. Vả chăng Bệ hạ không am hiểu tiếng Pháp, mà mấy ông đại
thần đem theo, như tên X tên Y đều là bọn hạ tiện nước ta, trí thức họ
còn thấp hơn con nít 10 tuổi của Pháp. Lại trong khi Bệ hạ ở Ba Lê, chỉ
có một lần đến trường đua ngựa, cá được 200 quan, còn như những Viện Bác
cổ lớn, học đường lớn, thương quán lớn, công xưởng lớn, và những nơi
nhóm họp bao nhiêu văn minh tinh túy của nước Pháp v.v… thời chưa từng
bước chân vào, nói rằng đi khảo sát, thời khảo sát mà như vậy ư?
Nếu mượn cớ rằng đi dự cuộc đấu xảo Thuộc địa Marseille, thời nước ta
là ngày nay có cái xảo để đấu, phi người Bắc kỳ thì thời Nam kỳ là dân ở
dưới quyền trực trị của pháp vậy (đấu xảo này Trung kỳ có nghề bện sáo,
so với 50 năm về trước chưa cải lương chút nào), còn 12 tỉnh Trung kỳ
là cái xứ ở dưới quyền chuyên chế của Bệ hạ, thời sĩ phu lòng đen như
mực, nông dân xương gầy như củi, có gì là xảo đâu! Chỉ duy đại thần và
quan lại của Bệ hạ, thời cái xảo quỳ lạy, cái xảo dua nịnh, cái xảo ăn
hối lộ, cái xảo xẻo thịt dân để ăn cho béo cho mập, nhưng tiếc thay! Cái
loài quỷ sứ ấy, thời tại Pháp đây, sáu bảy mươi năm về trước, họ đã
nhận xuống nước sâu, ném vào lửa đỏ cả rồi, nay Bệ hạ đem loài ấy qua,
thời không ai còn mà đấu nữa!
Như vậy trong cái màn hắc ám của chuyến du lịch nầy của Bệ hạ, công
sắp đặt quỷ quyệt thế nào, cũng không khó gì mà không biết vậy.
Nghe Bệ hạ vài năm trước đây, đã cậy oai chuyên chế, vơ vét của dân,
mua đồ xa xỉ hạng nhất của các nước Á Đông và nước mình, tóm thâu tất cả
đồ quý báu của các triều trước để lại, chứa đựng có hơn trăm hòm, ngày
nay đem cả theo, nhờ người Pháp tên X tên Y vận động, dâng lễ cho đảng
quân chủ nước Pháp, để nhờ củng cố ngôi vua cho cha con Bệ hạ và nhờ họ
làm hậu viện để mong đạt cái mộng tôn quân quyền, sau thành việc rồi Bệ
hạ về nước sẽ thi oai dâm bạo, khóa hết miệng lưỡi quốc dân, rồi sẽ ký
điều ước này điều ước nọ để đền đáp. Việc nầy tuy còn ở trong vòng bí
mật, nhưng người ta đã đồn rầm ở ngoài, không phải là không có cớ, theo
lời tục ngữ của Pháp “không có lửa mà có khói” ai tin!
Tuy nhiên, nếu Bệ hạ mà dùng kế ấy, há chẳng thất sách lắm sao? Bệ hạ
muốn giữ vững ngôi quân chủ, mà lại đi cầu khẩn với dân của một nước
dân chủ, Trinh này muốn biết muôn phần không có một phần nào thành công
được.
Cái bệnh của Bệ hạ là bởi ngu muội, chưa từng đọc lịch sử cách mạng
nước Pháp vậy. Nếu một mai biết được thời sẽ gục đầu chán nản, cuốn gói
mà về sớm vậy.
Cuối thế kỉ 18, cái oai chuyên chế của nền quân chủ Âu châu đã lên
đến tột bực, thưởng phạt tùy ý, trẩm tức quốc gia, xem nhân dân như nô
bộc, vãi tiền tài như đất bụi, cung thất huy hoàng, chơi bời xa xỉ, ăn
mặc hoa mỹ, quỳ lạy tôn nghiêm, thật không phải là một ông vua một nước
mang hư danh là bán tự chủ như Bệ hạ có thể tưởng tượng được. Thế mà hễ
vật đã cực thời phản lại, đó là lẽ tất nhiên. Buổi ấy các danh sĩ nước
Pháp, như Lư Thoa, Mạnh-Đức-Tư-Cưu, Phúc-Lộc-Đặc-Nhỉ, v.v… kế tiếp nhau
nổi lên phát huy cái nghĩa nhân quyền, chẳng vài mươi năm mà cái thế lực
ảnh hưởng ra khắp toàn Âu. Dân tộc Pháp là tiên tiến nhất, huơ tay kêu
lớn, ứng lại như vang, ngã rồi đứng dậy, càng tiến càng hăng, cho nên
tấu được khúc khải hoàn, mà cái đầu của vua Lộ-Dịch thứ 16 của nước Pháp
đã bêu cao trên đoạn đầu đài vậy. Bệ hạ qua thành Ba-lê, trông những
đường phố rộng rãi, thấy có những tượng đồng nguy nga, đó đều là những
tượng kỉ niệm những bậc thánh hiền hào kiệt đương thời đã ủng hộ tự do,
cứu vớt mạng dân vậy. Phàm trong thế giới, quân chủ nào vô đạo thì thần
ấy chẳng dung. Bệ hạ nên qua chơi công trường Công-cố (Concordre) và
cung điện Versailles (Lộ dịch đã bị bắt ở Versailles và bị giết ở
Công-cố) để điếu cái di tích màn chót nên quân chủ vô đạo, nhơn đó họa
may có tự tỉnh chăng.
Từ thời ấy, chính thể nước Pháp đổi làm dân chủ, lập ra nghị viện dân
cử, lập pháp, hành pháp, tư pháp, phân tách rõ ràng, mà nghị viện nắm
hết chủ quyền của nước. Đến nay, chính phủ chuyên chế không còn dấu vết,
nhân loại trông nhiều nước được hưởng nhiều hạnh phúc, tự do là nhờ dân
tộc Pháp chảy máu trước mà được vậy. Sao Bệ hạ không xin vào điện
Bourbon để nhận thấy cái khí tượng bác ái, bình đẳng, tự do của quốc dân
cộng hòa, so sánh lại với cái chính thể chuyên chế đen tối ngàn năm của
nước ta, thời thấy rõ cái chủ nghĩa dân quyền thần thánh bất khả xâm
phạm, nó đương bồng bồng bột bột như mặt trời giữa trưa, chiếu thấu cả
bầu trời, mà về sau chính thể quân chủ tất không có chỗ đứng chân còn
nói chi đến việc chuyên chế dã man nữa.
Được như vậy chẳng phải sức người làm nên chăng? Thì đó cũng là luật thiên diễn không thể tránh được vậy.
Ngày nay các dân tộc trên toàn cầu đều xưng nước Pháp là nước tổ dân quyền, không đúng hay sao? Không đúng hay sao?
Đó, một nước danh dự như thế, một dân tộc danh dự như thế, xem lại
hơn trăm hòm đồ quý của bệ hạ đáng giá bao nhiêu, lại dám đem bạch bích
mà nhem thèm, đem huỳnh kim mà làm đen lòng, đi ngược lại phong triều
thế giới, trái với công lý nhân đạo, làm dơ danh dự quốc dân, để vì Bệ
hạ giữ cái vận mạng của nền quân chủ chuyên chế nó đã gần tàn như giọt
sương ban mai rồi. Nói rằng 20 triệu quốc dân oán là chuyện nhỏ, còn mặt
mũi nào đối với vạn quốc trên thế giới ư? Xem vậy Bệ hạ đi chuyến này
chắc chắn là thất bại, không còn ngờ gì nữa. Chỉ tiếc thay bao nhiêu mỡ
của sáu, bảy triệu quốc dân ta, bao nhiêu cái kho tàng quý báu của nước
nhà ta dành dụm mấy trăm năn nay, chỉ vì sự lơ lĩnh nhỏ nhen mà Bệ hạ
đem vứt đi một cái, làm chìm lỉm hết thảy theo ngọn sóng Tây dương! Đó
là bảy tội.
Trở lên bảy điều, bởi có quan hệ quốc kế dân sinh, nên kể ra để buộc
tội. Ngoài ra còn những điều xấu xa không thể kể xiết, bởi không quan hệ
việc nước cho lắm, hoặc có dính đến đời tư cá nhân nên không kể đến làm
gì.
Ôi! Thế giới ngày nay dân trí tiến bộ mỗi ngày ngàn dặm, trước vài
mươi năm nay, vua các nước lập hiến đã đem mọi chánh sự lớn nhỏ của quốc
gia, hai tay dâng trả lại cho quốc dân, không dám hỏi đến, duy ngày đêm
mong ước được giữ cái hư danh ở trên thần dân, khỏi mất nối dòng để xấu
hổ đến tôn miếu, thời đã coi là cái phước lớn tày trời rồi, nhưng đến
nay quốc dân họ còn lấy làm khó chịu, còn lo trăm kế để bỏ đi, để đạt
được đến cái chủ nghĩa bình dân chân chánh mới hả dạ.
Vậy thời từ nay cái tàn quân chủ trong thế giới cũng không xa mấy,
không cần phải khôn ngoan lắm mới biết vậy. Chẳng nói đâu xa, gần đây
trong thời Âu chiến, bị quốc dân giết hoặc đuổi đi đã có 38 vua, trong
đó có 3 ông Đại hoàng đế rồi.
Như trước đã nói, chính thể nước ta, từ xưa là quân chủ độc tài,
chính trị hay dở, quan lại hiền ngu, quốc dân không được hỏi đến. Nay
thời thế nước càng ngày càng suy vi, mất cả cái tên Việt Nam trong bản
đồ thế giới. Hãy xem các nước Á Đông, Tàu, Nhật không nói, còn Xiêm La
là một nước xưa kia dân ta không thèm đứng ngang hàng, thế mà nay họ
nghiễm nhiên đứng trong vòng bình đẳng với vạn quốc. Lại như Nam Bắc hai
kỳ ở dưới quyền kinh lý của nước Pháp ràng buộc có rộng rãi hơn, nên có
sinh sắc hơn. Còn 12 tỉnh Trung Kì thời rên rỉ mãi dưới chính thể
chuyên chế vô trách nhiệm, không biết dựa vào đâu để nuối chút hơi tàn!
Đó là tội của ai? Tội của ai? Xem đó thời chẳng quân chủ hiện tại phải
truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời quân chủ các thời
đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy.
Ôi! Xu thế bên ngoài đã như thế kia, mà tình thế nước ta lại như thế
này, thời cái ngôi Bệ hạ đã nguy tợ như trứng mỏng, thật có như điều
Hiếu Đế nhà Hán đã nói: “Mạng của Trẩm chẳng biết mất còn ngày nào
đây!”. Vậy Bệ hạ còn mê muội không biết, tự ví mình với thần thánh, dắt
bầy tiểu nhân núp bóng làm càn, công nhiên buông thói ăn lo ăn lót,
người ta không nói không kể, dân nói không hay, lại còn nghịch thì thế,
trái nhân tâm, nhen lại bếp tro tàn chuyên chế, dứt hẳn cái dân khí đã
tôn thương lâu ngày, quơ hết châu báu của nước, quét sạch tài sản của
dân. Thử hỏi: quốc thổ Việt Nam có phải là tư sản của Bệ hạ hay sao? 20
triệu quốc dân há phải là gia bộc của Bệ hạ hay sao? Quan lại nước ta
mục nát còn sợ chưa quá chừng hay chăng, mà còn phải có thêm Bệ hạ
trướng thêm lòng gian tham nữa? Danh hiệu Việt Nam e còn chưa nhơ nhuốc
chăng mà còn phải có Bệ hạ ra dâng mùi hôi thúi, làm cho thiên hạ chê
cười khinh dễ chẳng còn kể là loài người nữa? Dầu mỡ của quốc dân ta sợ
chưa khô hết hay chăng, mà còn phải có Bệ hạ hoang phí vung vãi nữa?
Than ôi! Nước ta tội gì mà phải chịu cái nghiệp chướng ấy! Dân ta tội gì
mà phải đội thứ vua quỷ ấy! Nếu không cùng quần chúng trừ khử nó đi,
tất phải cùng nó chết đắm nay mai thôi!
Tôi viết đến đây, viết đã cùn tay đã mỏi, giấy đã hết mà điều tôi
muốn nói hãy còn chưa hết, tôi phải khăng khăng mấy ngàn lời mà không
thôi đó, chẳng phải công kích cá nhân Bệ hạ mà công kích hôn quân vậy;
cũng không phải vì tư kỉ của Trinh mà làm; thật là vì 20 triệu đồng bào
mà xô ngã chuyên chế, ủng hộ tự do vậy. Thầy Mạnh nói rằng: “Đâu phải ưa
biện luận, bất đắc dĩ mà thôi”, tâm sự của tôi cũng là thế đó.
Nếu như Bệ hạ có đủ thiên lương, chút biết hối ngộ, biết quân quyền
không thể cậy được, dân oán không thể khi được, thời phải sớm quay về,
tự thoái vị trước, đem chính quyền trả lại cho quốc dân ta, để họ trực
tiếp cùng dân tộc Pháp, tự mưu lấy lợi ích của họ, như vậy thời quốc dân
ta còn lượng tình, không bạc đãi, cái kế Bệ hạ không còn kế nào hơn.
Ví bằng chuyến đi này, thêm lòng táo bạo, không kể gì hết, cứ khư khư
cắp ngôi chí tôn, cứ thi oai chuyên chế, làm đứt mạng mạch của nước
trong cơn thùy nguy, đánh đắm quốc dân trong kiếp khổ lâu dài, nếu vậy
thời Trinh này tất phải: trong cáo với quốc dân, ngoài hiệp cùng với
nước Pháp, vì 20 triệu đồng bào, cùng Bệ hạ tuyên chiến quyết liệt,
nguyện cho cái đầu của Trinh cùng với quân quyền chuyên chế dã man của
Bệ hạ đồng thời rơi xuống đất, quyết không nỡ thấy vài mươi vạn dặm
vuông giang san đất nước, vài mươi triệu cha mẹ anh em, phải giao đứt
vào tay hôn quân vậy!
BỊ CHÚ
1)- Thư này viết một bản bằng Hán văn gởi Bệ hạ, lại dịch ra Pháp văn
đăng trên báo Pháp và rải truyền đơn, để rộng đường công luận của người
Pháp.
2)- Giữa tôi với Bệ hạ, đã đoạn tuyệt nhất thiết quan hệ, chỉ đứng trên địa vị đối đãi mà thôi, cho nên nói “gởi” mà không nói “dâng”; còn dùng hai chữ “Bệ hạ” đó là theo Hán văn, xưng hô như vậy cho tiện, chứ không phải là tôn kính đâu.
3)- Tôi là người phục tùng Nho giáo, nên không dùng thứ lễ chuyên chế đặt ra từ Tần Thỉ Hoàng về sau (Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò, Khổng giáo đã mất), lễ ấy là hể gặp chữ tên húy của nhà vua thời phải tránh, cho nên đây tôi viết thẳng không kiêng, là tỏ ý phản đối (Nhật Bản đã bỏ lâu rồi, chỉ có ta còn giữ lối đó).
2)- Giữa tôi với Bệ hạ, đã đoạn tuyệt nhất thiết quan hệ, chỉ đứng trên địa vị đối đãi mà thôi, cho nên nói “gởi” mà không nói “dâng”; còn dùng hai chữ “Bệ hạ” đó là theo Hán văn, xưng hô như vậy cho tiện, chứ không phải là tôn kính đâu.
3)- Tôi là người phục tùng Nho giáo, nên không dùng thứ lễ chuyên chế đặt ra từ Tần Thỉ Hoàng về sau (Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò, Khổng giáo đã mất), lễ ấy là hể gặp chữ tên húy của nhà vua thời phải tránh, cho nên đây tôi viết thẳng không kiêng, là tỏ ý phản đối (Nhật Bản đã bỏ lâu rồi, chỉ có ta còn giữ lối đó).
Marseille, ngày 14 thàng 7 năm 1922
Ký tên: Phan Châu Trinh
Ký tên: Phan Châu Trinh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét