Chủ nghĩa cộng sản phủ nhận vai trò lãnh đạo của trí thức. Những trí thức nổi tiếng đã ủng hộ đảng cộng sản trước đây hoặc trong thâm tâm không đánh giá cao chính mình hoặc không thực sự là những trí thức lớn như nhiều người nghĩ. Nhưng ngày nay chủ nghĩa Mác-Lênin đã được cả thế giới, và chính các trí thức Việt Nam, nhìn nhận là một sai lầm thì quan điểm trí thức lãnh đạo xã hội phải lấy lại chỗ đứng của nó, chỗ đứng của một sự thực phải được tôn trọng. Thảm kịch lớn nhất của đất nước hiện nay là trí thức không lãnh đạo mà còn bị lãnh đạo, trí tuệ phải phục tùng bạo lực, quả đấm nghĩ thay cho cái đầu.
Các phát biểu của
hội nghị vẽ ra chân dung của một chế độ cực kỳ vô lý, nhưng tại sao nó
vẫn kéo dài? Đây phải là câu hỏi mà trí thức Việt Nam phải đặt ra cho
mình và cố gắng trả lời. Trong tinh thần đó kẻ viết bài này, vì cũng tự
coi là một thành phần của khối trí thức Việt Nam, xin mạo muội đóng góp
một vài ý kiến. Nếu những phân tích sau đây có làm phiền lòng một số trí
thức thì tác giả xin được thứ lỗi và xin hiểu cho rằng những khuyết tật
được nêu ra sau đây đã hiện diện nơi chính người viết.
Lý do
thứ nhất của thảm kịch này là tư tưởng chính trị của chúng ta quá kém.
Chúng ta tự hào là có bốn ngàn năm văn hiến nhưng chúng ta không có một
nhà tư tưởng nào, chưa nói tới tư tưởng chính trị. Khuyết tật này không
khó khắc phục nếu chúng ta thực sự muốn khắc phục. Trí thức Việt Nam có
thừa khả năng để đạt tới một tư tưởng chính trị, nhưng hình như chúng ta
có một đồng thuận là chính trị không cần học, chính trị là thực hành,
không cần lý thuyết, và không chịu hiểu rằng không có gì thực dụng hơn
một lý thuyết đúng. Một trong những hậu quả là chúng ta chỉ nhìn dân chủ
dưới những thể hiện hình thức của nó: bầu cử tự do, tam quyền phân lập
v.v. Sự hời hợt đó khiến chúng ta không có thâm tín về dân chủ, vì thế
nếu có cổ võ cho dân chủ cũng không có sức thuyết phục. Làm sao có thể
có thâm tín về dân chủ khi chỉ biết về nó một cách sơ sài như vậy? Mà
khi chính mình đã không thực sự tin thì làm sao có thể thuyết phục được
người khác? Chỉ có sự hiểu biết thấu đáo mới có thể đem lại thâm tín,
quyết tâm và sức thuyết phục. Dân chủ không giản dị như vậy. Nó là thành
quả không ngừng được bổ túc của một cuộc thảo luận lớn kéo dài từ nhiều
thế kỷ nay và vẫn còn tiếp tục (sẽ không có cái gọi là the end of
history!).
Sự hụt hẫng về tư tưởng của trí thức Việt Nam có thể
thấy được dễ dàng. Vẫn có những trí thức dân chủ gạt phăng chủ nghĩa cá
nhân như là đồng nghĩa với chủ nghĩa ích kỷ mà không làm phiền lòng ai,
trong khi chủ nghĩa cá nhân chính là nền tảng của dân chủ. Bản Tuyên
Ngôn Phổ Cập về Quyền Con Người (hay Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền)
không khác gì hơn là tuyên cáo của chủ nghĩa cá nhân. Nó lấy con người
làm cứu cánh và qui định một không gian cá nhân mà nhà nước không thể
xâm phạm.
Một thí dụ khác là kinh tế thị trường. Đa số trí thức
Việt Nam coi chủ thuyết kinh tế thị trường, mà Adam Smith là người cổ
võ nổi tiếng nhất, như là một lý thuyết kinh tế theo đó nhà nước không
nên can thiệp mà cứ để cho các tác nhân kinh tế trao đổi với nhau qua
thị trường rồi tự nhiên sẽ có một bàn tay vô hình an bài tất cả một cách
thỏa đáng. Nếu quả thực như thế thì nó đã bị vất bỏ từ lâu rồi vì rất
sai, ngay cả dưới một chế độ tư bản. Không có “bàn tay vô hình” nào dẫn
dắt kinh tế cả, kinh tế thị trường đòi hỏi những luật lệ nghiêm túc và
những biện pháp kiểm soát chặt chẽ nếu không muốn rơi vào hỗn loạn và
khủng hoảng. Tác phẩm Điều Nghiên Về Bản Chất và Những Nguyên Nhân của
Sự Thịnh Vượng Của Các Quốc Gia (An Inquiry into the Nature and Causes
of the Wealth of Nations) là một tác phẩm về triết lý chính trị, chính
vì thế mà hai thế kỷ rưỡi sau nó vẫn còn giá trị của một tác phẩm lớn.
Người ta thường đả kích chủ trương “kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” là đã gán ghép một cách tổ chức kinh tế và một triết lý
chính trị mâu thuẫn với nhau. Cách phản bác này không sai nhưng thiếu
sức thuyết phục vì thiếu chiều sâu. Thực ra cụm từ này còn ngớ ngẩn hơn
nhiều vì nó gán ghép hai triết lý chính trị đối chọi với nhau; kinh tế
thị trường chỉ là một tên gọi khác của chủ nghĩa cá nhân, nền tảng của
dân chủ.
Một hậu quả của sự thiếu tư tưởng chính trị là cuộc
thảo luận bênh vực dân chủ trở thành nhạt nhẽo. Nếu dân chủ chỉ giản dị
như thế thì ai chẳng biết, có gì để nói, và ai cần nghe ai? Một hậu quả
khác là phong trào dân chủ không mạnh và không có được sự liên tục thế
hệ đáng lẽ nó phải có. Tại sao? Đó là vì chỉ có tư tưởng mới có thể gắn
bó được những con người và các thế hệ. Các tôn giáo sở dĩ qui tụ được
nhiều người và lưu truyền được từ đời này sang đời khác là vì niềm tin
của họ được nhìn như một tư tưởng. Đầu tư vào tư tưởng chính trị là điều
trí thức Việt Nam phải làm. Khẩn cấp.
Khổng Tử
Lý do
thứ hai là di sản văn hóa. Từ ngày lập quốc, khi bị ngoại thuộc cũng như
lúc tự chủ, chúng ta được nhào nặn trong nền văn hóa Khổng Giáo coi làm
chính trị chủ yếu là để làm quan. Tâm lý này được duy trì hầu như
nguyên vẹn dưới chế độ cộng sản bởi vì chủ nghĩa Mác-Lênin không khác gì
Khổng Giáo. Với một quan niệm như vậy thì dấn thân chính trị, dù là để
chống lại một bạo quyền, không hề là một nghĩa vụ đạo đức mà chỉ xuất
phát từ tham vọng danh lợi cá nhân, một tham vọng thấp hèn vì làm quan
chỉ là làm tay sai không điều kiện. Sự hèn nhát và xu thời được Khổng
Giáo nâng lên thành những giá trị. Khổng Tử để lại một lời giáo huấn
vàng ngọc cho kẻ sĩ: “Nước nguy thì chớ vào, nước loạn thì chớ ở, hoàn
cảnh tốt thì ra làm quan, hoàn cảnh xấu thì ẩn mình” (Nguy bang bất
nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc kiến, thiên hạ vô đạo tắc
ẩn – Luận Ngữ). Sau đó nếu có dấn thân chính trị thì cũng chỉ làm chính
trị kiểu nhân sĩ, nghĩa là hoặc không tham gia một tổ chức nào hoặc nếu
có tham gia thì cũng chủ yếu để lợi dụng tổ chức cho tham vọng cá nhân
của mình, chứ không phải để xây dựng tổ chức như là một nhịp cầu phải có
để dẫn tới một tương lai đáng mong ước từ một hiện tại không chấp nhận.
Phải khẩn cấp trả lại cho đấu tranh chính trị nghĩa thực và đúng của
nó, nghĩa là đấu tranh để cải thiện xã hội, để tôn vinh quyền làm người
và đem lại phúc lợi tối đa cho thật nhiều người. Sứ mạng cao cả và khó
khăn này kéo theo hai hệ luận: một là khi đất nước không may lọt vào tay
một chính quyền thô bạo thì đấu tranh để thay đổi nó là một bổn phận
chứ không phải chỉ là một chọn lựa; hai là muốn đạt mục tiêu to lớn đó
thì phải có sức mạnh, nghĩa là phải có đội ngũ. Đấu tranh chính trị
không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả, mà luôn luôn là đấu tranh có tổ
chức. Trí thức Việt Nam muốn giành tự do hay chỉ xin tự do?
Lý
do thứ ba, hậu quả của di sản văn hóa trên nhưng có tầm quan trọng đặc
biệt của nó, là chúng ta hoàn toàn thiếu văn hoá tổ chức. Tôi đã viết
khá nhiều về đề tài này, ở đây chỉ xin nhấn mạnh một điều là không nên
lầm văn hóa tổ chức với kỹ thuật tổ chức; người ta có thể biết tổ chức
chu đáo một hội nghị, thậm chí điều khiển một cơ quan, mà vẫn không có
văn hóa tổ chức. Một cách tóm lược, văn hóa tổ chức là toàn bộ những
kiến thức, tập quán, phản xạ, cách suy nghĩ và hành động khiến ta một
mặt hiểu tầm quan trọng của tổ chức và cảm thấy có nhu cầu sinh hoạt
trong tổ chức, và mặt khác suy nghĩ và hành xử một cách phù hợp để giữ
gìn và phát triển tổ chức. Trí thức Việt Nam hiếu học và có thể bỏ ra
hàng chục năm để nghiên cứu một đề tài chuyên môn nhưng lại không chịu
bỏ ra vài tháng để đọc vài cuốn sách cơ bản về tâm lý xã hội. Kết quả là
họ không thấy có nhu cầu phải tham gia một tổ chức nào và nếu đã gia
nhập một tổ chức thì thường thấy có rất nhiều lý do để rời bỏ tổ chức.
Sự thiếu văn hóa tổ chức còn được trầm trọng hóa nơi trí thức trong nước
vì một nguyên nhân khác, đó là sự kiện các tổ chức bị cấm đoán, ngoại
trừ những tổ chức được coi là những công cụ của đảng cộng sản.
Trí thức Việt Nam hình như chưa thấy được sự nghiêm trọng của sự thiếu
vắng văn hóa tổ chức. Một câu hỏi: Lấy tiêu chuẩn nào để đánh giá mức độ
văn minh và tiến hóa của một dân tộc? Ta có thể trả lời một cách quả
quyết và dứt khoát: Đó là văn hoá tổ chức. Văn hóa tổ chức quyết định
phẩm chất và triển vọng của các dân tộc. Việc đảng cộng sản cấm sinh
hoạt tổ chức phải được coi là rất độc hại vì có tác dụng cột chân đất
nước trong sự thấp kém. Phải coi đấu tranh cho quyền tự do kết hợp
(nghĩa là thành lập hoặc tham gia các tổ chức) như là một trong những
cuộc đấu tranh sống còn của đất nước.
Cũng cần ý thức rằng đối với các cá nhân sự thiếu vắng văn hoá tổ chức có hai hậu quả nghiêm trọng:
° Một là, vì thiếu văn hoá tổ chức chúng ta không có tổ chức, rồi vì
không có tổ chức chúng ta cô đơn và bất lực, đến lượt nó cảm giác bất
lực khiến chúng ta nhút nhát.
° Hai là, tổ chức – dĩ nhiên là
tổ chức đúng nghĩa, do các thành viên tự nguyện lập ra để theo đuổi một
mục đích chung, chứ không phải là tổ chức công cụ của chính quyền – là
một môi trường sản xuất và sàng lọc ý kiến (1), sự thiếu vắng tổ chức
khiến trí tuệ bị bế tắc và giới hạn.
Quan trọng hơn hết, lý do
thứ tư là sự ngộ nhận rất lớn về tiến trình thay đổi chế độ. Phần lớn
trí thức Việt Nam cho rằng phương thức tốt nhất để thay đổi chế độ là
hợp tác để dần dần cải thiện nó từ bên trong. Diễn nghĩa: không ra mặt
phản kháng mà chỉ cố sống lương thiện, hành xử đúng và khéo léo gợi ý
khi cơ hội cho phép. Phương thức này được ưa chuộng vì sự tiện nghi và
an toàn của nó nhưng nó sai hoàn toàn. Nó không thay đổi được chế độ mà
còn củng cố chế độ và triệt tiêu cả sự lương thiện lẫn ý muốn thay đổi,
trong nhiều trường hợp nó chỉ là một ngụy biện cho thái độ phục tùng vụ
lợi. Tiến trình thay đổi một chế độ cũng như một tổ chức, như lịch sử đã
chứng minh và được trình bày đầy đủ trong mọi nghiên cứu về sinh hoạt
tổ chức và đấu tranh chính trị, ngược hẳn với quan điểm này và có thể
tóm lược như sau:
• Nhận thức về sự cần thiết phải thay đổi xuất hiện nơi một số người;
• Những người này liên kết với nhau và tự cô lập với phần còn lại để
tranh đấu cho lập trường đổi mới. Họ đảm nhận vai trò thiểu số với những
hậu quả của nó, như bị trù dập, thậm chí bị tiêu diệt.
• Họ dần dần mạnh lên, thuyết phục được hoặc khắc phục được phần còn lại và áp đặt sự thay đổi.
Liên kết với nhau và tự cô lập là điều kiện bắt buộc để có thể thành
công của những người muốn thay đổi. Nếu không, nếu chấp nhận luật chơi
hiện hành, họ sẽ bị hòa tan trong “thực tại” và ý chí thay đổi sẽ tiêu
tan. Hơn thế nữa, có mọi triển vọng là chính họ cũng sẽ bị lưu manh hóa
trong một bối cảnh xã hội bất lương. Đi với ma mặc áo giấy.
Như
để chứng minh rằng chính trị và đời sống chỉ là một, đây cũng là quá
trình tiến hóa của mọi chủng loại. Lấy thí dụ tiến hóa từ vượn lên
người; những con vượn đầu tiên nơi những biến đổi ban đầu xuất hiện đã
sống biệt lập với những con vượn khác và tiếp tục tiến hóa để thành
người, nếu không chúng đã bị tiêu hóa nhanh chóng trong cả khối lớn của
chủng loại, và vượn vẫn là vượn chứ không thành người.
Nguyễn Gia Kiểng (Trích bài viết Trí thức Việt Nam muốn để lại di chúc nào?)
Posted in: Chính trị - Văn hóa,Tư tưởng - Triết học
0 nhận xét:
Đăng nhận xét