Sử cũ chép lại: Năm 1438, vua Lê Thánh Tông đã tự vấn mình rằng: Phải chăng những bất thường xảy ra liên tiếp trong mấy năm có nguyên nhân ở việc Vua không lo sửa đức để mọi việc bê trễ?! Do quan tể phụ bất tài, xếp đặt chính sự không điều hoà!? Do làm nhiều công trình thổ mộc để sức dân mệt mỏi, do thuế má nặng nề mà dân túng thiếu!? Ngài tự mình đại xá cho thiên hạ rồi hạ chiếu: Tất cả các đại thần văn võ các ngươi nên chỉ ra những lỗi lầm kể trên, cứ thẳng thắn nói hết, đừng kiêng nể gì. Nếu có điều gì tiếp thu được, nhất định Trẫm sẽ khen thưởng, cất nhắc, dẫu có ngu đần, vu khoát cũng không bắt tội. Ngõ hầu có thể xoay chuyển được lòng trời, chấm dứt được tai biến, để nước nhà mãi mãi hưởng phúc lớn vô cùng vậy.
Sau đó mấy trăm năm, dưới thời vua Cảnh Thịnh, danh sĩ Ngô Thì Nhậm đã soạn "Chiếu cầu lời nói thẳng" công bố trong thiên hạ: "Nay phải nghĩ kế bổ cứu tình trệ, việc đáng trước, việc đáng sau, việc gì hoãn, việc gì gấp, trẫm cùng với đại thần hỏi han đạo phải, cho tìm đến chỗ đúng, xưa kia "bậc thánh đế còn hư tâm hỏi đến hạ dân", huống chi trẫm đây còn ít tuổi, lại chưa có đức tính thông sáng, cung kính, mong rằng thần dân trong ngoài khuyên bảo cho trẫm đức hạnh tốt. Kinh Thư có câu: "Dân không có vua thì đội ai? Vua không có dân thì cùng ai mà giữ nước?". Tất cả mọi người có lương tâm phải hiểu rõ cái nghĩa trên dưới cùng giúp ích…".
Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy, muốn cho quốc thái dân an thì những bậc trị quốc đều phải hiểu lòng dân bằng cách nghe dân nói. Để cho dân nói thẳng, nói thật, chấp nhận dù đó là lời "vu khoát", nghe cả những điều nhân dân nói thẳng về chính nhà vua để thấy lỗi sửa mình, đó chính là biểu hiện rõ nhất của tư tưởng "dĩ nhân vi bản". Tất nhiên, để có được lời nói thẳng thì nhà vua phải có tâm để nghe, thần dân phải có gan để nói.
Nhà nghiên cứu Vũ Đắc Liễn viết: Đọc "Chiếu cầu lời nói thẳng" của triều Tây Sơn, chúng ta cảm động nhất là từ đầu đến cuối nhà vua bằng một thái độ rất mực khiêm nhường, trình bày cặn kẽ mọi thực trạng xã hội cho dân chúng biết, không hề che đậy, giấu giếm. Cũng phải vậy thôi, muốn cầu lời nói thẳng mà nhà vua lại không dám nói thẳng, nói thật thì ai tin mà cầu. Và trước khi hạ chiếu, ít nhất vua Cảnh Thịnh đã biết được rằng "Than ôi, chơi bời là cái điều nguy ngập, khoe khoang là cái cớ diệt vong... đất rộng mà lắm chỗ bỏ hoang, dân nhiều mà nhiều nơi ta thán..trong thì triều đình, ngoài thì châu quận, xa thì nơi biên tái, kỷ cương chưa được thiết lập, chấn chỉnh nhiều chỗ sai lầm, việc quan lại cai trị, việc binh cơ dân chính, còn nhiều thiếu sót, lấp chỗ này thì hở chỗ khác..Tóm lại cái tệ trễ biếng là do cái lòng tự mãn tự túc sinh ra, tích tụ chất chứa đã lâu, không sao kể xiết".
Dù sử sách cũng chép lại nhiều câu chuyện người nói thẳng, nói thật thường là gặp những oan khuất, tai ương bởi "trung ngôn thì nghịch nhĩ": Ngũ Tử bị giết, Tỷ Can bị moi tim, Quản Di Ngô bị trói, Thương Ưởng bị phanh thây... Tất cả đều là người hiền tài và tất cả đều bị hại vì nói thật. Chính Ngô Thì Nhậm, tác giả của "Chiếu cầu lời nói thẳng" dường như cũng là một nạn nhân của những lời nói thẳng khi ông không nề hà từ khước việc xin được tiến cử của Đặng Trần Thường. Nhưng một đất nước sẽ ra sao nếu chỉ toàn Hòa Thân mà không có những Lưu gù? Nhưng một quốc gia sẽ thịnh hay suy nếu như ai cũng "chỉ lừa gọi ngựa", ai cũng nói dối, nói cong, nói dựa?
Với tinh thần "Nước Việt ta lấy văn hiến dựng nước", Ngô Thì Nhậm cho rằng việc "Lập giáo hoá, đặt khoa cử là quy mô lớn để chuyển loạn thành trị" và đạo trị nước có ba "cái mấu chốt” luôn hỗ trợ lẫn nhau, có vai trò quan trọng như nhau là "giáo' (giáo dục), “pháp” (hình pháp) và "chính" (chính trị). Từ đó "Dân không cần phải dắt bảo từng người mà vẫn tốt, tục không phải thay đổi hàng loạt mà vẫn hay, nhân tài không phải tìm ở nội cỏ mà tự nhiên đến, quan không cần phải đặt nhiều mà tự nhiên trị, nước không cần phải lấy của dân mà vẫn giàu, binh không phải xua ra trận mà vẫn mạnh".
Trong sáu công việc phải quan tâm "Hóa dân, thành tục, cầu hiền, thẩm quan, phú quốc, cường binh" vị tiến sĩ Tam giáp cho rằng: Cả sáu việc ấy đồng thời cử hành, không cản trở nhau nhưng và giáo dục phải được đặt lên hàng đầu.
Câu chuyện "Hóa dân" giáo dục cho dân trở thành người nói thẳng, biết nghe lời nói thật mấy hôm nay bỗng trở thành thời sự từ một lá thư của một người cha băn khoăn chuyện cô giáo dạy con "kỹ năng sống", dạy cho trẻ "võ" để đối xử với đồng bào mình.
"Kỹ năng gì vậy?". Cháu trả lời: "Cô dạy chúng con là, đôi khi nói dối cũng tốt nếu việc nói dối bảo vệ được bạn bè và mọi người". Thế nào là kỹ năng nói dối: "Cô nói với chúng con là: Nếu có ai hỏi các con có đi học thêm không thì các con không được giơ tay, hoặc trả lời không biết".
Từ câu chuyện "đáng bi hơn hài" này, nhiều người đã nói tới chuyện trẻ em như trang giấy trắng, những điều người lớn đang làm hôm nay sẽ được viết, hoặc gạch xóa bôi bẩn lên những trang giấy tâm hồn đó vào ngày mai. Nhưng câu chuyện cô giáo dạy học trò "kỹ năng nói dối" thì quả thực chưa từng thấy. Tai hại nhất là bọn trẻ tin rằng: Nói dối cũng tốt khi bảo vệ được mọi người, dù họ làm đúng hay sai. Nguy hiểm nhất là từ tấm bé chúng đã được cô giáo, một đấng thiêng liêng, dạy cho kỹ năng đồng lõa, bao che cho cái không trung thực, cái xấu, cái ác.
Và, với cách "giáo dục dối trá" thì nói không ngoa rằng chúng ta sẽ có những thế hệ công dân chỉ biết nói dối, nói cong. Tất nhiên, có lẽ và hy vọng chỉ là "những con sâu" trong nồi canh giáo dục, dù nồi canh giáo dục bây giờ nhiều sâu quá. Thầy giáo bắt học sinh "thụt dầu". Cô giáo yêu cầu nữ sinh viết về kinh nghiệm làm cave. Và bây giờ thì là chuyện "kỹ năng nói dối".
Cách đây chưa lâu, có người đã bức xúc đặt một câu hỏi cho vấn đề tưởng là "bé xíu" rằng: Tại sao người Việt mình ra nước ngoài luôn mặc cảm, luôn luôn cảm thấy xấu hổ, thậm chí vỗ tay cũng không dám vỗ to?
Nguyên nhân phải chăng cũng là từ những bài giáo dục kỹ năng mà chúng ta đã phải học theo kiểu nhồi sọ từ tấm bé? Học mà không được phân tích, không được hỏi thẳng lại cô giáo những câu hỏi "tại sao" đối với những bài kiểu "nói dối đôi khi cũng tốt". Khi cô giáo đã nói dối với học sinh trong bài học về kỹ năng sống thì phải chăng là bởi bệnh nói dối đã trở nên quá phổ biến trong xã hội? Phải chăng là ai cũng sợ nghe sự thật cho nên cũng không dám nói thật?
Và sẽ ra sao một thế hệ học sinh: Lớp mầm đã bị cô Lê Vi dán băng keo vào miệng. Mẫu giáo bị bảo mẫu Kim Hoa cho ăn tát thay cơm. Tiểu học tập thể dục bằng "thụt dầu". Trung học gặp thầy Sầm Đức Xương. Đại học thì bị thầy Đỗ Tư Đông buộc đổi tình lấy điểm? Và từ lớn đến bé đã được giáo dục và ứng xử với nhau bằng những lời nói cong?
Đào Tuấn
Sau đó mấy trăm năm, dưới thời vua Cảnh Thịnh, danh sĩ Ngô Thì Nhậm đã soạn "Chiếu cầu lời nói thẳng" công bố trong thiên hạ: "Nay phải nghĩ kế bổ cứu tình trệ, việc đáng trước, việc đáng sau, việc gì hoãn, việc gì gấp, trẫm cùng với đại thần hỏi han đạo phải, cho tìm đến chỗ đúng, xưa kia "bậc thánh đế còn hư tâm hỏi đến hạ dân", huống chi trẫm đây còn ít tuổi, lại chưa có đức tính thông sáng, cung kính, mong rằng thần dân trong ngoài khuyên bảo cho trẫm đức hạnh tốt. Kinh Thư có câu: "Dân không có vua thì đội ai? Vua không có dân thì cùng ai mà giữ nước?". Tất cả mọi người có lương tâm phải hiểu rõ cái nghĩa trên dưới cùng giúp ích…".
Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy, muốn cho quốc thái dân an thì những bậc trị quốc đều phải hiểu lòng dân bằng cách nghe dân nói. Để cho dân nói thẳng, nói thật, chấp nhận dù đó là lời "vu khoát", nghe cả những điều nhân dân nói thẳng về chính nhà vua để thấy lỗi sửa mình, đó chính là biểu hiện rõ nhất của tư tưởng "dĩ nhân vi bản". Tất nhiên, để có được lời nói thẳng thì nhà vua phải có tâm để nghe, thần dân phải có gan để nói.
Nhà nghiên cứu Vũ Đắc Liễn viết: Đọc "Chiếu cầu lời nói thẳng" của triều Tây Sơn, chúng ta cảm động nhất là từ đầu đến cuối nhà vua bằng một thái độ rất mực khiêm nhường, trình bày cặn kẽ mọi thực trạng xã hội cho dân chúng biết, không hề che đậy, giấu giếm. Cũng phải vậy thôi, muốn cầu lời nói thẳng mà nhà vua lại không dám nói thẳng, nói thật thì ai tin mà cầu. Và trước khi hạ chiếu, ít nhất vua Cảnh Thịnh đã biết được rằng "Than ôi, chơi bời là cái điều nguy ngập, khoe khoang là cái cớ diệt vong... đất rộng mà lắm chỗ bỏ hoang, dân nhiều mà nhiều nơi ta thán..trong thì triều đình, ngoài thì châu quận, xa thì nơi biên tái, kỷ cương chưa được thiết lập, chấn chỉnh nhiều chỗ sai lầm, việc quan lại cai trị, việc binh cơ dân chính, còn nhiều thiếu sót, lấp chỗ này thì hở chỗ khác..Tóm lại cái tệ trễ biếng là do cái lòng tự mãn tự túc sinh ra, tích tụ chất chứa đã lâu, không sao kể xiết".
Dù sử sách cũng chép lại nhiều câu chuyện người nói thẳng, nói thật thường là gặp những oan khuất, tai ương bởi "trung ngôn thì nghịch nhĩ": Ngũ Tử bị giết, Tỷ Can bị moi tim, Quản Di Ngô bị trói, Thương Ưởng bị phanh thây... Tất cả đều là người hiền tài và tất cả đều bị hại vì nói thật. Chính Ngô Thì Nhậm, tác giả của "Chiếu cầu lời nói thẳng" dường như cũng là một nạn nhân của những lời nói thẳng khi ông không nề hà từ khước việc xin được tiến cử của Đặng Trần Thường. Nhưng một đất nước sẽ ra sao nếu chỉ toàn Hòa Thân mà không có những Lưu gù? Nhưng một quốc gia sẽ thịnh hay suy nếu như ai cũng "chỉ lừa gọi ngựa", ai cũng nói dối, nói cong, nói dựa?
Với tinh thần "Nước Việt ta lấy văn hiến dựng nước", Ngô Thì Nhậm cho rằng việc "Lập giáo hoá, đặt khoa cử là quy mô lớn để chuyển loạn thành trị" và đạo trị nước có ba "cái mấu chốt” luôn hỗ trợ lẫn nhau, có vai trò quan trọng như nhau là "giáo' (giáo dục), “pháp” (hình pháp) và "chính" (chính trị). Từ đó "Dân không cần phải dắt bảo từng người mà vẫn tốt, tục không phải thay đổi hàng loạt mà vẫn hay, nhân tài không phải tìm ở nội cỏ mà tự nhiên đến, quan không cần phải đặt nhiều mà tự nhiên trị, nước không cần phải lấy của dân mà vẫn giàu, binh không phải xua ra trận mà vẫn mạnh".
Trong sáu công việc phải quan tâm "Hóa dân, thành tục, cầu hiền, thẩm quan, phú quốc, cường binh" vị tiến sĩ Tam giáp cho rằng: Cả sáu việc ấy đồng thời cử hành, không cản trở nhau nhưng và giáo dục phải được đặt lên hàng đầu.
Câu chuyện "Hóa dân" giáo dục cho dân trở thành người nói thẳng, biết nghe lời nói thật mấy hôm nay bỗng trở thành thời sự từ một lá thư của một người cha băn khoăn chuyện cô giáo dạy con "kỹ năng sống", dạy cho trẻ "võ" để đối xử với đồng bào mình.
"Kỹ năng gì vậy?". Cháu trả lời: "Cô dạy chúng con là, đôi khi nói dối cũng tốt nếu việc nói dối bảo vệ được bạn bè và mọi người". Thế nào là kỹ năng nói dối: "Cô nói với chúng con là: Nếu có ai hỏi các con có đi học thêm không thì các con không được giơ tay, hoặc trả lời không biết".
Từ câu chuyện "đáng bi hơn hài" này, nhiều người đã nói tới chuyện trẻ em như trang giấy trắng, những điều người lớn đang làm hôm nay sẽ được viết, hoặc gạch xóa bôi bẩn lên những trang giấy tâm hồn đó vào ngày mai. Nhưng câu chuyện cô giáo dạy học trò "kỹ năng nói dối" thì quả thực chưa từng thấy. Tai hại nhất là bọn trẻ tin rằng: Nói dối cũng tốt khi bảo vệ được mọi người, dù họ làm đúng hay sai. Nguy hiểm nhất là từ tấm bé chúng đã được cô giáo, một đấng thiêng liêng, dạy cho kỹ năng đồng lõa, bao che cho cái không trung thực, cái xấu, cái ác.
Và, với cách "giáo dục dối trá" thì nói không ngoa rằng chúng ta sẽ có những thế hệ công dân chỉ biết nói dối, nói cong. Tất nhiên, có lẽ và hy vọng chỉ là "những con sâu" trong nồi canh giáo dục, dù nồi canh giáo dục bây giờ nhiều sâu quá. Thầy giáo bắt học sinh "thụt dầu". Cô giáo yêu cầu nữ sinh viết về kinh nghiệm làm cave. Và bây giờ thì là chuyện "kỹ năng nói dối".
Cách đây chưa lâu, có người đã bức xúc đặt một câu hỏi cho vấn đề tưởng là "bé xíu" rằng: Tại sao người Việt mình ra nước ngoài luôn mặc cảm, luôn luôn cảm thấy xấu hổ, thậm chí vỗ tay cũng không dám vỗ to?
Nguyên nhân phải chăng cũng là từ những bài giáo dục kỹ năng mà chúng ta đã phải học theo kiểu nhồi sọ từ tấm bé? Học mà không được phân tích, không được hỏi thẳng lại cô giáo những câu hỏi "tại sao" đối với những bài kiểu "nói dối đôi khi cũng tốt". Khi cô giáo đã nói dối với học sinh trong bài học về kỹ năng sống thì phải chăng là bởi bệnh nói dối đã trở nên quá phổ biến trong xã hội? Phải chăng là ai cũng sợ nghe sự thật cho nên cũng không dám nói thật?
Và sẽ ra sao một thế hệ học sinh: Lớp mầm đã bị cô Lê Vi dán băng keo vào miệng. Mẫu giáo bị bảo mẫu Kim Hoa cho ăn tát thay cơm. Tiểu học tập thể dục bằng "thụt dầu". Trung học gặp thầy Sầm Đức Xương. Đại học thì bị thầy Đỗ Tư Đông buộc đổi tình lấy điểm? Và từ lớn đến bé đã được giáo dục và ứng xử với nhau bằng những lời nói cong?
Đào Tuấn
Nguồn: Blog Đào Tuấn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét