Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

Các ông Tây nhiều râu - Trích hồi ký "Mặt thật" của Bùi Tín

Thảm họa khủng hoảng nặng nề và lạc hậu của Việt nam hiện nay bắt nguồn từ đâu? Đây là một câu hỏi phức tạp, trả lời không thể đơn giản. Nó có khá nhiều nguyên nhân, giấn tiếp và trực tiếp, về lý luận cũng như trên thực tế, ngược dòng của lịch sử mấy chục năm qua.

Tôi nhớ lại, từ hồi 1950 biên giới Việt Trung mở ra càng ngày càng rộng. Chuyên gia Trung Quốc, vũ khí Trung Quốc, hàng hóa gồm vải vóc, thuốc men, phích nước, xe đạp Trung Quốc tràn vào theo đường xe lửa qua Bằng Tường, Đồng Đăng... Đến sau Điện Biên Phủ, tất cả các thứ trên ào ạt nhập vào nhiều hơn, khi các đoàn xe lửa dài phóng xuống đến Yên Viên (bắc Hà nội), rồi vào ga Hà nội và đi xuống Thanh Hóa, Vinh, Đồng Hới... Các đoàn xe ô tô vận tải Trung Quốc cũng theo đường số 1 đi theo từng đoàn "nhập Việt". Đường xe lửa Hải Phòng-Lào Cai-Vân Nam Phủ được khôi phục nhanh.

Các thành phố Thái Nguyên, Việt Trì mang dần màu sắc Trung Quốc. Khu gang thép Thái Nguyên rộng lớn được bắt đầu xây đựng sau khi hơn 30 ngọn đồi được ủi phẳng làm mặt bằng. Bên sông Hồng và sông Lô, thị trấn Việt Trì lớn lên nhanh chóng với các nhà máy điện, mì chính, thuốc trừ sâu, đường, giấy, bánh kẹo, cơ khí, dệt... đều do Trung Quốc bỏ vốn, trang bị kỹ thuật, đào tạo công nhân. Cầu xe lửa Việt Trì cũng là cầu đường bộ, được đoàn công nhân Trung Quốc từ Vũ Hán sang xây dựng... Đi cùng theo đó, ít ai thấy, là hàng ngàn, chục ngàn rồi cả trăm ngàn "các ông Tây" được nhập Việt và tỏa rộng đến khắp các làng xã từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Vĩnh Linh.

Đó là những tập ảnh màu cỡ 80x60 cm hoặc 60X40 cm in hình các cụ già Karl Marx, Engels, hình Lénine, Staline, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh... in từ Bắc Kinh, Nam Ninh (Quảng Tây) hoặc Quảng Châu (Quảng Đông), quà tặng của Trung Quốc. ở bất kỳ trụ sở ủy ban nhân dân xã, chi bộ Đảng cộng sản xã, các cơ quan kinh tế, văn hóa, quân sự, xã hội ở xã, huyện, tỉnh, trung ương nào cũng đều treo trong khung gỗ một loạt hình chân dung ấy. Sau đó được thêm ảnh Malenkov của Liên xô. Trừ ông Mao và ông Malenkov cằm và mép nhẵn thín, còn tất cả đều có râu, tuy kiểu râu có khác nhau. ở nông thôn, nhà mỗi người dân cũng thường được treo những bức chân dung xanh đỏ như thế. Dạo ấy ảnh gia đình ở nông thôn còn rất hiếm, các ảnh ấy là những thứ có màu sắc duy nhất đập vào mắt mọi người khi bước vào nhà. Trên là ảnh các cụ có râu, dưới mới là bàn thờ của gia đình.

Sự trang trí độc đáo ấy đánh dấu cả một thời. Hồi ấy bộ đội đóng quăn di động ở các vùng nông thôn. Đã thành quen, tôi thường nghe các em bé xíu hỏi bố mẹ: "Ai kia, ai kia?" Và thường được trả lời: "Các cụ ta đó. Các cụ lãnh đạo đó... Tôi bấm bụng nín cười khi có dân nghe một anh nông dân trẻ trả lời con nhỏ: "Các ông Tây có râu của ta đó." Lập trường ta địch hồi đó thật là rõ ràng, không một ai có thể mơ hồ.

Về sau, một loạt tranh đệt bằng tơ lụa hóa học xuất hiện, dệt tử Quảng Châu, Trung Quốc, được các hiệu sách Nhân Dân bân với giá cực rẻ, theo nhiều cỡ, một màu hoặc nhiều màu, cũng theo bộ: chân dung Marx, Engels, Lenine, Staline, Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông... Đi theo còn có những bộ 12 lá cờ của các "nước xã hội chủ nghĩa anh em", với bộ chân dung của 12 lãnh tụ cao nhất của 12 nước ấy. Nhà in Tiến Bộ, Trần Phú, Nhân Dân cũng tổ chức in theo qui mô lớn, ảnh màu của các nhân vật nói trên, bán theo kiểu tuyên truyền đại chúng, vừa bán vừa cho.

Vào dịp cải cách ruộng đất, ở một vùng nông thôn Nghệ An, một số bần cố nông được vội vã kết nạp vào đảng. Có nhưng chuyện buồn cười. Anh em cán bộ đi tham gia các đội cải cách về kể lại. Khi làm lễ tuyên thệ vào đảng, có anh nông dân chất phác xúc động quá nên lúng túng không biết phát hiểu thế nào, liền thốt ra: "Tôi, Lê Văn A, xin thề, trên có các ông tây, có cụ Hồ, dưới là bàn thờ Tổ Quốc..." "Các ông Tây", "các ông Tây râu rậm , một thời đầy rẫy trong các căn nhà Việt nam ấy quả thật đã in một dấu ấn sâu đậm trong cuộc sống xã hội và thật sự có ảnh hưởng quyết định đến số phận của cả một dân tộc, của mỗi gia đình cũng như đến mỗi con người Việt nam. Đã đến lúc cần đánh giá cho rõ ràng, minh bạch là ảnh hưởng quyết định ấy tốt hay là xấu, may mắn hay tai hại.

Đó. Do tư duy cứng nhắc, khô cằn, lại hay ảo tưởng, lấy mong muốn chủ quan làm hiện thực, cộng thêm tật duy ý chí, không có gì là không làm được, nên họ vẫn giữ niềm tin mù quáng. Cũng có thể trong thâm tâm họ, niềm tin đã lung lay, hoặc tắt ngấm, nhưng họ vẫn nói như thế, vẫn viết như thế. Nói và viết theo nghị quyết là vậy.
Không phải ngẫu nhiên mà cuộc biểu tình bỏ túi ở một quảng trường nhỏ ở Moscou nhân dịp kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười dân thứ 76 (ngày 7 tháng 11 năm 1992) vừa rồi, vài trăm người, phần lớn là tuổi cao, các bà nội trợ, giương những tấm ảnh cũ của Mác, Lênin, cả Staline nữa... đã được Thông tấn xã Việt nam chộp vội lấy, đưa tin và các báo đăng lại! Những tin quý, hiếm ấy là những chiếc phao níu giữ những niềm hy vọng... hão huyền.

Cần chứng minh cho đông đảo bà con ta ở trong nước, cho cả phần lớn những người còn trong đảng cộng sản rằng bão táp lớn, cơn lốc lịch sử diễn ra trong mấy năm qua ở Liên xô và Đông du mang tính tất yếu và không thể nào đảo ngược được nữa - nó mang tính quy luật của quan hệ nhân quả Người nông dân gieo gì thì gặt nấy. Gieo gió gặp bão là cầu ngạn ngữ dân gian. Tất cả nội dung tôi viết trong cuốn sách này cũng là nhằm góp phần nào soi tỏ điều ấy.

Tôi vừa nhận được bài "ám ảnh có thật" do một anh làm báo trẻ ở Hà nội gửi sang. Bài báo của Trần Huy Quang, một nhà văn trẻ, khá nổi tiếng qua những truyện ngắn làm sôi nổi dừ luận một thời: Ông Vua Lốp, Lời khai của bị can, Mối tình hoang dã, Người làm chứng... Bài "Linh Nghiệm" của anh "lách" đăng trên tuần báo Văn Nghệ trong tháng 7-1992 đã bị phê phán rất nặng, vì dám ám chỉ một cách... thẳng thừng đến Chủ tịch Hồ chí Minh. Số báo bị thu hồi để hủy gấp. Anh bị mất việc, treo bút trong 2 năm, mất luôn chức Chi hội trưởng Chi Hội Nhà Báo của báo Văn Nghệ, với nhiều phiền toái khác đi theo đó. Tổng biên tập Hữu Thỉnh phải làm một bản kiểm điểm dài và chỉ bị cảnh cáo vì "mới đi vắng xa về, không được tỉnh táo?" Còn một việc khác ít ai biết đến- Đó là báo Tiền Phong, trong số ra ngày 30-6-1992 -trước có 2 tuần số báo Văn Nghệ nói trên đã có một bài nữa cũng của Trần Huy Quang mang nhan đề "ám ảnh có thật". Bài báo này cũng bị phê phán rất nặng, số báo Tiền Phong này cũng bị thu hồi để hủy. Nội dung truyện cực ngắn này (chỉ hơn một nghìn chữ) kể về một cô gái ở nông thôn tên là Thơm, có chồng chết ở mặt trận tử lâu. Cô gặp một anh lính giải ngũ người cùng làng, chưa vợ và hai người yêu nhau. Điều này bị Bí thư chi bộ xã coi là không lành mạnh, không được phép, là bất chính, vì chính hắn ta cũng thèm muốn cô Thơm! Một tối, hai anh chị lẻn ra một thửa ruộng xa xóm làng để tâm sự. Bí thi chi bộ huy động lực lượng dân quân xã "mở cuộc chiến đấu truy lùng, nhằm bắt quả tang. Anh cựu chiến sĩ ta lanh lẹn thoát khỏi "vòng vây". Họ trói tù binh là cô Thơm giải về trụ sở. Bí thư Chi bộ Xã lấy khẩu cung, quát nạt, xỉ vả, đe đọa cô gái. Cô Thơm cứng cỏi không nhận gì hết vì không có chứng cớ. Bí thư chi bộ ra lệnh cho dân quân: "Con đĩ già mồm! Các đồng chí dân quán, hãy khám nó. Có tinh dịch đàn ông trong ấy là nó trắng mắt ra". Cô gái phẫn uất vì bị xúc phạm, tự vẫn ngay đêm ấy trong ao làng. Hai năm sau, Bí thư Chi bộ: "...tự nhiên hai con mắt nổ tung con ngươi ra ngoài. Đi khắp nơi không chữa được."

Ngắn gọn. Rõ ràng. Thông điệp của nhà văn trẻ thông minh và nhạy cảm này là: kẻ nắm quyền lực độc đoán chà đạp lên quyền sống của thường dân đến mức người dân không thể sống nổi. Nhưng ác giả ác báo, và quả báo ấy là nhãn tiền!

Bí thư chi bộ cộng sản lộng hành ở một xã, cũng có thể ám chỉ Đảng cộng sản lộng hành trong một nước, hoác cả các đảng cộng sản lộng hành trong phe xã hội chủ nghĩa. Và ác giả ác báo. Kẻ ác phải trả nợ đời. Chẳng phải chờ lâu! Bài báo thật thâm thúy. ở ngay thời điểm lịch sử hiện tại. Nó lý giải số phận của các đảng cộng sản. Bằng đạo lý dân gian truyền thống, thành gần như quy luật mang tính tất yếu: ở hiền gặp lành, kẻ gian ác bị trừng phạt; thường là nhỡn tiền, ngay trước mắt.

Nhìn lại, có thể thấy đảng cộng sản Việt nam trong khi lãnh đạo cuộc kháng chiên của dân tộc đã có một số thành tích. Những thành tích ấy từ truyền thống dân tộc và sự hy sinh khôn xiết của nhân dân! Không thể viện ra để xóa bỏ vô vàn thành tích bất hảo về vi phạm quyền con người, quyền công dân. Trong chiến đấu, cần hy sinh, cần xả thân cứu nước, xã hội có thể châm chước, thể tất phần nào cho những hiện tượng xâm phạm tự đo của công dân; nhưng hòa bình rồi, không thể cứ chà đạp lên số phận người dân theo kiểu thô bạo độc ác như người Bí thư chi bộ trong truyện ngắn này được! Hắn ta bị nổ cả hai con mắt là nghiệp báo, và nghiệp báo ngay nhãn tiền. Ngay trong cuộc đời hắn.

Đảng cộng sản Liên xô, sau 74 năm cầm quyền, không phải là lâu. Và ở Việt nam, đảng cộng sản cầm quyền được gần 50 năm ở miền Bắc, và cũng chỉ mới hơn 18 năm trong cả nước! Một đời người, một phần ba của đời người... Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa Mác, không bao giờ có thể nghĩ rằng chủ nghĩa xã hội hiện thực sống yểu như thế này! Ông từng lạc quan cho rằng: ngày diệt vong của chủ nghĩa tư bản không xa! Ông dóng chuông: giờ tận số của chủ nghĩa tư bản đã điểm! Những kẻ đi tước đoạt đã đến lúc bị tước đoạt!

Trong Chống During, F. Engels cũng lạc quan chẳng kém. Ông nhận định, chế độ nô lệ kéo dài ba nghìn năm, chế độ phong kiến một nghìn năm, nhưng tuổi thọ của chủ nghĩa tư bản không vượt quá 300 năm. Mới đây, khi đi qua Berlin, tôi nghe một anh bạn nhà báo Đức kể câu chuyện vui kiểu tiếu lâm. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực cáo chung ở Liên xô, người dân trong quán bia Berlin kháo nhau, 74 tuổi rồi còn gì nữa! Thế là quá mất 9 năm rồi đó, vì tuổi về hưu ở Liên xô được quy định là 65 tuổi. Chấm dứt hoạt động ở tuổi 74 là quá lắm rồi! Người ta còn đố nhau: Gần đây trong lịch sử cái gì dài nhất và cái gì ngắn nhất? Thì ra dài nhất là con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ngắn nhất là lịch sử của chính chủ nghĩa xã hội? Một chế độ xã hội không có sức sống! Trái hẳn với mong muốn, hy vọng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là chế độ vĩnh cửu, mùa xuân bất tận của nhân loại!

 Các Mác và chủ nghĩa Mác

ở Việt nam, có một học sinh, sinh viên, trí thức, đảng viên, cán bộ, đoàn viên thanh niên nào mà không học, đọc và biết ít nhiều về Các Mác và chủ nghĩa Mác? Đây là một môn học bắt buộc. ở Bộ Giáo Dục Phổ Thông có một vụ giáo dục chính trị, trong đó có một phòng giáo dục về chủ nghĩa Mác-Lênin, làm nhiệm vụ biên soạn, đào tạo giảng viên, chọn đề thi, chỉ đạo việc học tập chủ nghĩa Mác- Lênin ở tất cả các trường học. Các trường đại học đều có một phòng giáo dục Mác-Lênin. Khi 2 bộ Giáo dục Phổ thông và bộ Đại Học và Trung cấp Chuyên nghiệp nhập vào nhau thành Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, các cơ quan giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin cũng được nhập vào nhau. Khi thi tốt nghiệp, mọi sinh viên đều phải học ôn và thi môn Mác-Lênin - đây là môn cơ bản nhất được tính để xét đỗ hay trượt, lên lớp hay lưu ban.

Trong những năm 1966 và 1967, sau một thời gian làm giảng viên lý luận của quân khu 4 rồi về công tác ở Cục tuyên huấn, tôi nhận được quyết định của Bộ Quốc Phòng giao nhiệm vụ tham gia Ban chấm thi nhà nước để chấm thi tốt nghiệp Trường Sy Quan Lục Quân, môn chính trị. Các trung đội trưởng và đại đội trưởng tương lai phải hiểu biết sâu sắc và vững vàng về chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo quy định, môn học chủ nghĩa Mác gồm có môn Triết học (gồm Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử), môn Lịch sử Đảng (gồm Lịch sử Đảng cộng sản Liên xô, Đảng cộng sản Việt nam và Lịch sử Phong trào cộng sản Quốc tế) và môn Chủ nghĩa Xã hội Khoa học. Các cuộc thi đều có cả thi viết và thi ấn đáp quy định của Bộ chính trị cũng như của Ban Tổ Chức và Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng (về sau Ban này mang tên Ban Tư Tưởng và Văn Hóa), cán bộ Đảng và nhà nước ở bậc cán sự đều phải trải qua một khóa học ở Trường Đảng Sơ Cấp, cán bộ ở bậc chuyên viên đều phải trải qua một khóa học ở Trường Đảng Trung Cấp và các chuyên viên cấp cao từ bậc 7 trở lên đều phải qua Trường Nguyễn ái Quốc Trung ương. Không có bằng tốt nghiệp về chính trị, về chủ nghĩa Mác-Lênin thì không thể thành cán bộ. Cán bộ nào được chọn đi học Trường Đảng là có thể bắt tay chúc nhau, mở liên hoan nâng cốc chúc mừng nhau, báo tin cho bố mẹ, vợ con để chia vui, với niềm tin rằng đã được đảng chấm, lựa chọn để đưa lên bậc cao hơn, trở thành "cán bộ nguồn", có nghĩa là cán bộ trong danh sách riêng được coi là nguồn dự trữ để cất nhắc ngay trước mắt.

Cho nên muốn hiểu thấu đáo tình hình chính trị ở Việt nam không thể không xem xét việc truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin đã được thực hiện ra sao, để từ đó giải quyết nhận thức của một bộ phận cực lớn và cực kỳ quan trọng trong xã hội như thế nào trong tình hình mới, khi chủ nghĩa Mác-Lênin đã phơi bày tất cả mặt trái sai tâm và tệ hại của nó, khi cuối cùng nó không thể tìm nổi sức sống trong thực tế.

Có một cách đối xử với chủ nghĩa Mác rất thịnh hành trên không ít sách báo tiếng Việt ở hải ngoại. Đó là chửi bới, phỉ báng, vứt bỏ cả gói bằng tất cả chữ nghĩa thô tục nhất, và gọi Mác là thằng già có tội chửa hoang với người ở, đáng chặt đầu, đáng đào mả để băm vằm cho hả giận. Thật ra xác Các Mác đã được thiêu ở một vùng ngoại ô Luân Đôn. Cách làm cũng vậy, dù là có đốt hết sách vở của Mác cũng chẳng khó gì, nhưng không phải là cách giải quyết vấn đề tận gốc, có chính trị và văn hóa. Phần lớn những người ấy không hiểu gì về nội dung chủ nghĩa Mác. Họ chống theo cảm tính. Họ cũng đáng thương hơn là đáng chê.

Các Mác là nhà nghiên cứu, nhà triết học và tư tưởng, cũng là nhà chính trị. Ông nghiên cứu về xã hội rất sâu sắc. Sức làm việc của ông, sức nghĩ, sức viết thật lớn lao. Ông có thiện tâm, cố tìm ra con đường giải phóng giai cấp cần lao, xây dựng một xã hội không còn có bóc lột, của cải dồi dào. Tư Bản Luận của ông là công trình đồ sộ, mổ xẻ xã hội tư bản từ mọi phía, dựa trên vô vàn quan sát thực tế với cơ man nào là con số, tỷ lệ, thống kê, so sánh. Ông là một nhà bác học uyên thâm. Tôi nghĩ chính vì thế đến nay, người Đức, ở bất cứ trận tuyến chính trị nào, đều tự hào và đánh giá cao về ông, một người con lớn của nước Đức. Tháng 8-1992 tôi ghé qua Berlin, ở phía Đông Đức cũ, còn nguyên tượng đài Mác-Engels ở ngay trung tâm Alexander gần tháp vô tuyến độc đáo. Tượng Stalin bị phá từ hồi 1956, tượng Lênin bị kéo đổ đầu năm 1990, nhưng tượng Mác và Engels vẫn còn. Và ở Đức theo tôi tìm hiểu không có ai đòi phá đi những bức tượng ấy. Điều rất lạ đối với một số người, và không có gì là lạ đối với một số người khác, là ở bên Tây Berlin, có một đại lộ loại bự nhất mang tên Đại lộ Các Mác. Đó, ở một địa bàn chống cộng mạnh mẽ nhất, tên tuổi của Các Mác vẫn được giữ gìn trân trọng.

ở Berlin cũng như ở Paris tôi nói chuyện với một số nhà báo, một số giáo sư đại học về Mác, về phép biện chứng duy vật và về sự mổ xẻ hàng hóa, sức lao động, tiền lương, lợi nhuận... của Các Mác để xác lập học thuyết về giá trị thặng dư. Tác phẩm của Mác vẫn là tài liệu nghiên cứu và tham khảo bắt buộc của sinh viên, nghiên cứu sinh môn kinh tế và kinh tế chính trị ở Đức cũng như ở Pháp, ở Anh, ở Hoa Kỳ...

Suốt 2 năm nay, tôi đã để công sức vào các thư viện đọc lại sách của Mác, sách của nhiều học giả phương Tây về chủ nghĩa Mác, và nhận thấy thiếu sót và sai lầm của Mác có thể ở 2 phần: một phần là sai lầm và thiếu sót của chính Mác, và phần nữa là sai lầm và thiếu sót của những người tự nhận là đồ đệ của Mác, những người Mác-xít ở khắp nơi, đã tiếp thu và đối xử với chủ nghĩa Mác thế nào.

Cái sai lầm lớn nhất của chính Mác có lẽ là ở phần duy vật lịch sử. Mác đã đơn giản hóa sự phát triển xã hội theo mô hình phát triển từ xã hội cộng sản nguyên thủy lên xã hội nô lệ, xã hội nông nô, rồi xã hội phong kiến, lên xã hội tư bản và sau đó là lên xã hội xã hội chủ nghĩa... Các chế độ trước chủ nghĩa xã hội xem ra là hợp lý vì quan sát, ghi nhận những điều đã trở thành hiện thực, đã có thật rồi. Mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất là khá rõ ràng, có thể chứng minh được cho đến chủ nghĩa tư bản, chế độ mà Mác sống. Phần từ chủ nghĩa tư bản chuyển lên chủ nghĩa xã hội và nội dung của chủ nghĩa xã hội là có vấn đề. Sai lầm và thiếu sót của Mác khá rõ ở những vấn đề này.

Trong thực tế, tình hình các xã hội ngay từ khi Mác còn sống phức tạp hơn rất nhiều so với những mô hình xã hội của Mác. ít có xã hội nào thuần túy thuộc một phương thức sản xuất duy nhất. Có nơi tàn dư của chế độ nô lệ còn rớt lại trong một chế độ phong kiến, chung sống với một vài phương thức tư bản thời sơ khai, tất cả cài vào nhau, đan chéo với nhau. Chính Mác đã tỏ ra lúng túng, không rõ ràng khi nhận định về phương thức sản xuất Châu á. Các phương thức sản xuất ở châu Phi cũng phức tạp, rối rắm, đan lồng vào nhau, không thể tìm ra lời giải ở mô thức quá đơn giản của Mác.

Cái sai lầm nữa của Mác là đã đơn giản, chủ quan, nôn nóng nhận định về chủ nghĩa đế quốc, cho rằng chủ nghĩa đế quốc là sự phát triển tột đỉnh của chủ nghĩa tư bản, tới mức phát triển đó là chủ nghĩa tư bản đi xuống để bị diệt vong rồi! Lênin đã phát triển chủ ý này của Mác. Thật ra giai đoạn đế quốc chỉ thuộc giai đoạn đầu hoặc giai đoạn giữa của chủ nghĩa tư bản. Qua thời kỳ xâm chiếm và bóc lột thuộc địa, chủ nghĩa tư bản đã mở rộng, củng cố phương thức sản xuất của mình, tạo nên điều kiện để phát triển hơn nữa chủ nghĩa tư bản với mức độ tập trung và tích tụ tư bản lớn, ngay cả sau khi đã phi thực dân hóa, đã từ bỏ các thuộc địa. Điều này ở ngoài dự kiến của Mác. Thêm nữa, khi tư bản quốc tế phát triển thành đế quốc kinh tế kiểu thực dân mới nó vẫn tạo được đà phát triển.

Cái sai lớn nữa của Mác là đã đề cao một chiều bạo lực và chuyên chính vô sản, coi dùng bạo lực như là phương thức duy nhất để chuyển sang chế độ chính trì mới, từ đó coi nhẹ các hình thức đấu tranh khác. Trong cuốn Nội Chiến pháp, Mác đã nhiều lần nhận định: "Bạo lực là bà đỡ của cách mạng." Lý luận về giai đoạn sau khi khởi nghĩa thành công, Mác đã coi nhẹ hẳn phần củng cố thắng lợi bằng xây dựng một chế độ dân chủ mới, một xã hội dân sự, bằng sự thức tỉnh của mỗi một công dân và từ đó của toàn thể công dân, trên cơ sở quyền công dân được xử dụng rộng rãi như một vũ khí đấu tranh có ý nghĩa quyết định. Điều này A. Gramsci đã nhận ra, phê phán và bổ xung.

Mác nhận thấy tính chất quốc tế hóa của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại cũng như xu thế quốc tế hóa của phong trào công nhân. Thế nhưng ông vẫn chủ quan và đơn giản, không thấy được sự phức tạp và khó khăn của phong trào công nhân bị xâu xé bởi quá nhiều xu hướng từ cải lương đến quá khích, cản trở việc làm cách mạng vô sản đồng thời ở các nước phát triển cao nhất, trong khi chủ nghĩa tư bản sớm thực hiện được xu thế liên minh, liên kết quốc tế khá là chặt chẽ. Cái khái niệm "giai cấp công nhân quốc tế của ông cho đến nay vẫn chưa thành hiện thực. Luận điểm về bần cùng hóa tuyệt đối giai cấp công nhân cung là một luận điểm sai lầm do suy luận chủ quan có tính chất giáo điều. Mác không dự đoán được rằng khi sản xuất phát triển, với phát minh khoa học kỹ thuật mới, năng xuất xã hội lên khá cao, đời sống của công nhân vẫn có thể được cải thiện rõ, và qua đấu tranh hợp pháp họ có thể dành những quyền lợi đáng kể (giảm giờ lao động trong tuần: từ 82 giờ, 75 giờ một tuần xuống 48 giờ rồi 42 hoặc 39 giờ hiện nay; 1 tuần nghỉ 2 ngày, 1 năm nghỉ ăn lương từ 2 đến 3 tuần). Những phụ cấp thất nghiệp, phụ cấp mất việc, bảo hiểm sức khoẻ, người lao động đã đấu tranh để giành được là những thành tựu mà Mác không thể dự đoán nổi. Nó thật sự to lớn và chắc chắn còn lớn hơn nữa qua củng cố những quyền lợi của công dân, của lao động trong một xã hội dân sự. Những quyền lợi trên rất nhiều mặt, kể không hết, vì có quá nhiều quy định cụ thể, tỷ mỷ ấy, ở thời của Mác có mơ tưởng cũng không hình dung nổi. Mác cũng không nghĩ rằng đông đảo người lao động có thể trở thành những người tham gia bằng cổ phần, cổ phiếu vào vốn kinh doanh và thành một kiểu chủ nhân của công ty.

Những thiếu sót khác của chủ nghĩa Mác thì có nhiều. Bởi vì dù có bộ óc thông minh, suy luận và dự đoán tài giỏi, Mác vẫn bị hoàn cảnh lịch sử cụ thể chi phối. Không ai có thể là thầy bói, là nhà tiên tri dự đoán nổi sự phát triển của kinh tế và xã hội mấy chục năm sau một cách chính xác được. Các Mác sinh năm 1818 và mất năm 1883 khi 65 tuổi. Ông chỉ biết sức mạnh kỳ diệu của hơi nước, của điện. Ông không hề biết sức mạnh của nguyên tử, của khinh khí. Ông không hề biết về sự phát triển sau này của máy tính điện tử tốc độ vừa đến tốc độ cực lớn; ông không hề biết về vệ tinh nhân tạo, các con tàu vũ trụ, tên lửa vượt đại châu... mà ngày nay các em bé cũng biết và học sinh trung học đều hiểu về nguyên lý chế tạo và sử dụng. Nếu đột nhiên sống lại và tỉnh đậy, ông sẽ bàng hoàng nhìn chiếc máy vô tuyến truyền hình màu mà em bé 6 tuổi ngày nay cũng biết tắt và mở. Cho nên một sai lầm lớn nữa của chủ nghĩa Mác theo tôi lại là ở sự đối xử của người đời với chủ nghĩa Mác sau khi ông chết. Họ đề cao ông, thần thánh hóa ông, tâng bốc ông là nhà tiên tri dự kiến được rõ ràng tất cả chuyển biến của thế giới ngày nay. Chắc chắn rằng nếu ông sống cho đến nay thì ông đã bổ xung, sửa chữa chủ nghĩa Mác ở rất nhiều điểm rồi. Là nhà nghiên cứu khoa học, phái hiện và tuân theo phép biện chứng duy vật, coi mọi sự vật đều phát triển không ngừng với những đột biến về chất, chắc chắn những ý kiến, quan điểm, lập luận của ông cũng đã phát triển, thay đổi, rất có thể có những đột biến (phủ định của phủ định) khác hẳn với những nội dung ông để lại khi từ trần. Chắc chấn cái chủ nghĩa Mác của ông đã khác, sẽ khác rất nhiều với cái mà hiện nay người ta vẫn gọi là chủ nghĩa Mác... Ông mất đã 110 năm. Bao nhiêu là biến động? Dự đoán 10 năm sau đã khó. Dự đoán 100 năm sau chỉ là điều mạo hiểm, viễn vông.

Lênin, ông ở nước Nga...

Ở vùng Đông Nam á, chỉ có một bức tượng duy nhất của Lênin ở Hà nội, trong vườn hoa Canh nông cũ, bên đường Điện Biên Phủ. . Lênin đứng, một tay cầm ve áo khoác, một tay chỉ về phía trước, trông sang Cột Cờ cổ và Bảo tàng Quân Đội. ở Hà nội, hồi khai mạc bức tượng nhân kỷ niệm 70 năm cách mạng tháng Mười (1917-1987), đã có những câu thơ tiếu lâm vỉa hè:

Lênin ông ở nước Nga .
Cớ sao ông đến vườn hoa nước này?
Ông ngửng mặt, ông chỉ tay.
Chủ nghĩa xã hội nước này còn lâu


Có người còn mỉa mai, châm biếm trước thảm cảnh đạo đức suy đồi ăn cắp, hối lộ tràn lan: Lênin vừa bước chân đến Hà nội đã một tay giữ túi đựng ví tiền, một tay chỉ trỏ hô hoán, "Ôi? kẻ cắp! kẻ cắp! Bắt lấy nó!" Dịp Quốc Khánh mồng 2 tháng 9 năm 1991, có người đã lẻn trèo lên bệ tượng và đội cho ông Lênin một chiếc nón rách. Khi trời đã sáng bạch, mấy chú công an phải trèo lên cất chiếc nón mê cho cụ. Người Việt nam vốn có tính trào lộng, đùa rất chính trị như vậy đó. Lãnh tụ vô sản mà lỵ. Cùng với Các Mác, Lênin (1870-1924) là nhân vật có ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với Đảng cộng sản Việt nam và cuộc sống của nhân dân Việt nam trong gần nửa thế kỷ qua.

Lênin luôn tự nhận là người học trò trung thành của Mác và được xưng tụng như người đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, áp dụng chủ nghĩa Mác trong đấu tranh thực tiễn đố mở ra kỷ nguyên mới, "Kỷ nguyên Cách Mạng Tháng Mười ở Liên xô và trên toàn thế giới." Luận điểm của Lênin khác với Mác, và có thể nói trái hẳn với Mác, là cách mạng vô sản có thể thành công trong một nước, ở lại một khâu yếu nhất của chủ nghĩa đệ quốc, như ở nước Nga. Trong khi ấy Mác cho rằng cách mạng vô sản chỉ có thể thắng lợi đồng thời ở một số nước kinh tế phát triển nhất, với đội ngũ đông đảo và đã thức tỉnh của giai cấp công nhân sản nghiệp lớn, như ở các nước Tây Âu chẳng hạn. Luận điểm của Lênin đúng hay sai? Sự tan vỡ của Liên Bang Xô Viết và của đảng cộng sản Liên xô đem lại bằng chứng thể nghiệm rằng luận điểm ấy là một sai lầm mang tính chất chủ quan, nóng vội và gượng ép, tiêu biểu cho căn bệnh duy ý chí. Lênin cũng áp dụng một cách cực đoan quan điểm bạo lực và học thuyết đấu tranh giai cấp, dẫn đến thái độ cường điệu vai trò của khởi nghĩa vũ trang, và nội chiến. Vai trò của đảng cộng sản cũng được tuyệt đối hóa một cách quá đáng, tách nó khỏi giai cấp vô sản, ra khỏi đời sống kinh tế xã hội, với cách nghĩ chủ quan duy ý chí rằng một đảng tiên phong có thể lôi cuốn một giai cấp công nhân nhỏ yếu trong một nước chậm tiến vào một cuộc cách mạng vô sản thắng lợi!

Có thể nhận thấy sự "có mặt" của Lênin ở Việt nam tai hại nhất là ở chỗ đảng cộng sản Việt nam đã cường điệu vai trò của chính mình trong một nước kinh tế nông nghiệp lạc hậu, một giai cấp công nhân nhỏ xíu; ở sự cường điệu đấu tranh giai cấp đến độ làm lu mờ các vấn đề dân tộc; ở thái độ nôn nóng vội đốt cháy giai đoạn, đi lên chủ nghĩa xã hội không cần đến một thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa! Cái giá phải trả thật là đắt! Việc coi rất nhẹ, thậm chí phớt lờ yêu cầu xây dựng một xã hội dân sự, một nền dân chủ thật sự trên nền tảng quyền công dân rộng rãi theo pháp chế dân chủ ở Việt nam cũng là do ảnh hưởng của chủ nghĩa Lênin. Đảng đặt trên nhà nước, đảng là tối cao, đảng chiếm đoạt mi quyền lực của nhà nước, đảng trùm lên đến độ bóp nghẹt nhà nước, đến mức đảng là pháp luật đảng, là nhà nước (Parti-état) cũng là điều Đảng cộng sản học được từ Liên xô và Lênin. Cái sai lầm này quá sâu, quá nặng, đến nay dù có quyết định tách đảng ra khỏi nhà nước mà 2 thực thể này vấn cứ dính chặt vào nhau một cách tệ hại.

Theo chiều suy nghĩ trên đây, Lênin cũng đưa ra quan niệm về dân chủ tập trung, hay nói rõ hơn là nền tập trung mang tính chất dân chủ, hạn chế quyền dân chủ, cả trong nội bộ đảng và trong xã hội, dẫn đến nạn độc đoán, chuyên quyền, bóp nghẹt dân chủ một cách tai hại. Cho nên Lênin đã tự mâu thuẫn với chính mình khi khẳng định rằng nền dân chủ Xô Viết là một nghìn dân cao hơn nền.dân chủ tư bản? Điều này đã trở nên mỉa mai đến lố bịch! Ơ Việt nam tác hại do quan niệm dân chủ tập trung cho cả xã hội không sao lường hết? Dân chủ trong Đảng cộng sản Việt nam là con số không, ở trong xã hội cũng lại là một quả trứng lớn?

Đó. Lênin, từng được những người đứng đầu đảng cộng sản coi là bậc thầy của cách mạng để hãnh diện tự nhận là những học trò trung thành, đã có mặt ở Việt nam trong những sai lầm như vậy đó. Đã đến lúc không thể mù quáng mãi được nữa. Đã đến lúc cần nhìn rõ bộ mặt Lênin một cách khách quan, tỉnh táo, đúng như nó có. Trong di chúc của ông Hồ Chí Minh, có nói rằng: "Phòng lúc tôi đi gặp cụ Mác, cụ Lênin..."; nó đánh dấu cả một thời kỳ lịch sử coi học thuyết chuyên chính vô sản là hòn đá tảng của các chính sách lớn, coi đấu tranh giai cấp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự phát triển của xã hội Việt nam... Hai điều đó hợp lại thành cỗ máy nghiền nát tình đoàn kết dân tộc, tinh thần nhân ái truyền thống, quyền dân chủ của công dân, nếp sống trong luật pháp... dẫn đến thảm cảnh bần cùng và lạc hậu hiện nay. Đó là những nguyên nhân sâu xa, đã đến lúc tất cả những đảng viên cộng sản, cán bộ và nhân dân ta từng được giáo dục sâu rộng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận cho rõ, bằng tất cả sự tỉnh táo, cũng như bằng tât cả nỗi khổ sở, nhọc nhằn, mồ hôi và cả xương máu của bà con mình!

Tôi đã từng ngắm bức tượng lớn, cao đến 6 mét của Lênin ở quảng trường trung tâm Adis Abéba, thủ đô Ethiopia, tận Châu Phi. Bức tượng nhìn vào trụ sở bề thế của Tổ chức các nước Châu Phi. Mười năm trước, ông Mengistu Sélassié Quốc trưởng cũng là Chủ tịch đảng theo chủ nghĩa Mác- Lênin của Ethiopia khánh thành bức tượng đó và hoan hỉ xác định: "Lênin và học thuyết Lênin đã đến bén rễ ở Châu Phi." Thế mà cuối năm 1991, bức tượng áy đã bị kéo đổ xuống và ngài Mengistu Sélassié, từng nhiều lần sang Moscow và một lần sang thăm Hà nội, đã bỏ trốn chạy khỏi đất nước Ethiopia hồi tháng 6 năm 1992 để xin cư trú ở Dimbabuê! Những thăng trầm lịch sử đáng để suy ngẫm. : ở Moscow, đang lưu truyền những chuyện vui kiểu tiếu lâm về Lênin. Một hôm vào lăng Lênin người ta sửng sốt không thấy thi hài Lênin đâu. Đến gần, thấy trên bệ một mảnh giấy ghi: "Tôi đã lên đường trở lại Thụy Sĩ, tất cả phải làm lại từ đầu!" Ký tên: Lênin. (đầu năm 1917 Lênin ở Thụy Sĩ để nắm tình hình và chỉ đạo phong trào trong nước). Lại một câu chuyện khác do một nhà văn Nga trẻ kể lại cho tôi. Một hôm văn hào Nga Maxim Gorki rủ Lênin đi uống rượu. Hai người vừa sống lại và vui vẻ gặp nhau. Lênin suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Vâng, rất vui lòng đồng chí Maxim thân mến ạ. Thế nhưng rút kinh nghiệm thời xưa, hôm nay tôi chỉ xin uống nửa rúp rượu vodka thôi. Hồi trước, tôi uống đến 1 rúp, quá chén, nên lỡ lời ba hoa về chủ nghĩa cộng sản sẽ một mình thắng trọn vẹn ở nước Nga cho vô sản hồi ấy nghe. Tôi xin nhận lỗi là bốc đồng vì men rượu và xin chừa..." Đó, lại thêm một nét văn học dân gian hóm hỉnh mà thâm thúy.

Bản báo cáo mật còn được dấu kín việc thành phố Lêningrad được đổi tên, lấy trở lại tên Pêtrôgrad hoặc Pêtécbua năm 1990 chỉ được bộ máy tuyên truyền ở Hà nội nói thoáng qua. Những người lãnh đạo giáo điều bảo thủ vẫn còn cố ghi trong bản Hiến Pháp mới thông qua ngày 15-4-1992 tên của Mác Lênin đến 2 lần. Trong lời nói đầu, họ vẫn lắp lại câu: "Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh..."; rồi ở Chương 1 (Chế Độ Chính Trị) điều 4 họ vẫn tụng lại câu: "Đảng cộng sản Việt nam, đội tiên phong của giai cáp công nhân Việt nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhãn, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội". Do đó họ nghĩ rằng việc đổi tên thành phố nói trên ở nước Nga là sai lầm, nông nổi, mang tính chất cơ hội hữu khuynh, ăn phải bả của đế quốc. Họ không thể hiểu những ý nghĩ và tình cảm chân thực của trí thức, công dân có lương tâm ở nước Nga trước một quyết định sâu sắc như thế, lấy lại cái tên cũ Pi-e đại đế cho thành phố tuyệt vời ấy. Do vậy, những người đấu tranh cho một nền dân chủ thật sự mang bản chất dán tộc ở Việt nam còn phải làm rất nhiều để nhân dân ta hiểu thật đúng tình hình chính trị của nước Nga gần đây đang bị che dấu và xuyên tạc.

Tiếng đầu lòng con gọi : Stalin!...

Một vấn đề không thể không làm rõ là về Stalin. Giữa năm 1990, đã có chỉ thị của Ban Văn Hóa Và Tư Tưởng cấm tất cả các báo, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình không được nói đến 2 chữ: đa nguyên là một, Stalin là hai. Đó là 2 điều cấm kỵ. Ai không tuân sẽ bị phạt nặng, mất chức như chơi.

Tại sao Stalin là điều húy kỵ lớn đến vậy? Bởi vì cùng với Mác và Lênin, nhưng đã bỏ rất xa Mác và Lênin, Stalin (1879-1953) đã in rất sâu dấu ấn của mình ở mảnh đất xa xôi tận Đông Nam á này. Bởi vì từ vườn trẻ, em bé Việt nam đã phải trìu mến, kính cẩn ngắm ảnh ông Stalin có bộ ria vểnh, hát múa dưới ảnh ông ta. Vẫn lại thơ của Tố Hữu, nhà thơ cung đình của chế độ:

Stalin! Stalin!
Yêu ông biệt mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi : Stalin!


(Nhà thơ có phịa, bốc đồng không đây? Vì trẻ con ta mới bập bẹ, rất khó nói từ: Stalin!). Rồi, vẫn lại Tố Hữu, xưng tụng trong bài "Bài Ca Tháng Mười":

Hoan hô Stalin
Đời đời cây đại thụ
Rợp bóng mát hòa bình
Đứng đầu sóng ngọn gió...


Tấm lòng, nhận thức hôm nay của Tố Hữu đối với Stalin ra sao? Có thay đổi chút ít? Hay vẫn thế? hay còn hơn thế? Công nhận một lầm lỡ, quả thật không dễ dàng, nhất là khi quả tạ của quá khứ còn quá nặng.

Tôi nghĩ đến một điều rất cần là nhân dân ta, các đảng viên cộng sản ở Việt nam được biết, được đọc một vãn kiện quan trọng về Stalin: bản báo cáo mật về Stalin do N. Khrushev đọc trước Đại hội Đảng cộng sản Liên xô tháng 2 năm 1956. Vì là báo cáo mật nên Liên xô không công bố. Phía Liên xô có phân phát tận tay cho mỗi Trưởng đoàn Đại biểu các đảng anh em một bản với yêu cầu không phổ biến rộng theo nguyên văn. Ông Trường Chinh, Trưởng đoàn Đại biểu Đảng Lao Động Việt nam (tên hồi ấy của Đảng cộng sản) đã cất kỹ trong cặp tập tài liệu độc đáo ấy.

Tài liệu này tỷ mỹ hơn nhiều so với bản báo cáo về chống sùng bái cá nhân Stalin cũng do Khrushchev trình bày ở Đại hội 20. Ngay sau Đại hội, bản báo cáo mật này bị tiết lộ trọng Đảng cộng sản Ba Lan do Zambrowski trong đoàn đại biểu Ba Lan dự Đại Hội 20 về phổ biến trong đảng. ở các đảng khác, trong đó có Đảng cộng sản Việt nam, tài liệu này được giữ kín, các ủy viên Bộ Chính Trị truyền tay nhau đọc, không phổ biến nguyên văn cho Ban Chấp Hành Trung ương Đảng, họ rất sợ gây chấn động dây chuyền vì ít nhiều đảng nào cũng có tệ sùng bái cá nhân. Họ sợ phản ứng mạnh của đảng viên thường và của quần chúng. Dân chủ, nhưng là dân chủ tập trung, ắt phải thế. Sang đến Pháp, gần đây, tôi mới có được nguyên văn toàn bộ bản tài liệu mật dày hơn 50 trang này.

Những tội ác, vâng, phải gọi là tội ác của Stalin được một ủy ban đặc biệt của đảng cộng sản Liên xô sưu tầm, điều tra, xác minh, thật là kinh khủng! Chính Stalin là người đầu tiên chụp mũ tất cả nhưng ai khác ý kiến với mình là kẻ thù của nhân dân". Chính Stalin cho phép dùng đủ mọi cực hình nhằm buộc những người đó phải viết những "bản thú tội trong đe dọa của nhục hình, tra tấn. Các đại biểu dự Đại Hội 20 đã sửng sốt đến kinh hoàng khi được biết rằng Đại Hội Đảng lần thứ 17 họp năm 1934 đã bầu ra 139 uỷ viên trung ương chính thức và dự khuyết thì sau đó, nhất là vào 2 năm 1937 và 1938, đã có 98 người bị tống giam và xử bắn vì là "kẻ thù của nhân dân". Trong số 1.956 đại biểu dự Đại Hội Đảng lần thứ 17, thì sau đó 1.108 đại biểu bị bắt và bị khép án "phản cách mạng" bởi Stalin? Có nghĩa là hơn một nửa!

Vụ án Kirov năm 1933 là do Stalin dựng lên để thủ tiêu một lãnh tụ bất đồng ý kiến. Về sau những người nhúng tay vào vụ ám sát này đều lần lượt bị xử bắn nhằm xóa bỏ dấu vết. Stalin dùng rất tùy tiện, bừa bãi danh từ "phản động", "kẻ thù của đảng", "kẻ thù của nhân dân", "gián điệp, tay sai của đế quốc để đàn áp quy mô ngày càng lớn mọi người không đồng tình với thái độ độc đoán tàn ác ấy, dựa trên luận điểm trứ danh: càng xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cuộc đấu tranh giai cấp càng thêm gay gắt, kẻ thù càng nhiều hơn và nguy hiểm hơn! Stalin đích thân thúc ép bộ máy mật vụ, an mình lao vào bắt bớ, tra tấn và thủ tiêu không chút e ngại người ngay thật và lương thiện. Ông ta ra lệnh, mọi án xử bắn đều phải thi hành ngay. không được phép chống án và xử lại! Staline đã thúc bộ hạ kê những danh sách "Kẻ phản bội" một cách bịa đặt, dựng đứng, tràn lan và đích thân duyệt để hành quyết hàng chục nghìn người trong 383 danh sách ấy! Stalin cung đe dọa cả Bộ Trưởng An Ninh (lgnatiev - đến 1956 vẫn còn sống và dự đại hội 20) rằng: "Tôi sẽ chặt đầu anh nếu anh không lấy được lời thú nhận tội trạng của bọn bác sĩ," trong vụ án lớn "Các bác sĩ phản nghịch" tiếp sau vụ án lớn ở Leningrade. Chính Stalin đã ra lệnh giết hơn 25 ngàn sĩ quan Ba lan trung khu rừng Katin rồi đổ vấy cho là phát xít Đức giết. Mới đây một viên sĩ quan Liên xô gần 90 tuổi từng tham dự cuộc tàn sát man rợ này đã kể lại vụ này trên vô tuyến truyền hình Moscow. Đó là chưa kể những cuộc đầy ải hàng triệu gia đình Cu-lắc (phú nông) - thực tế phần lớn là trung nông lớp trên, giỏi nghề nông nhất của xã hội, đi tới vùng tuyết lạnh xa xôi ở Xi-bê-ri, nhân danh chế độ Xô Viết ưu việt và nhân đạo? Nhà khoa học Sakharov khi nhắc đến những tội ác tày trời của Stalin trên đây đã nhận xét rằng, cái tội không kém phần nghiêm trọng nữa của Stalin là đã làm tê liệt mọi xúc động của toàn xã hội Liên xô trước tội ác tràn lan của mình. (Tôi nhớ đèn mấy trăm trại cải tạo ở Việt nam sau 1975 mà rùng mình. Hàng mấy trăm ngàn người bị đầy ải, lao động cực nhọc quá sức, ốm chết trong trại, vợ con nheo nhóc, gia đình tan nát, thế mà chính quyền vẫn cứ nhơn nhơn là nhân đạo quá rồi! Và phản ứng của xã hội thật sự bị tê liệt! Thật đáng sợ, khi con người không còn phản ứng trước nỗi đau thê thảm của đồng loại, đồng bào!)

ảnh hưởng của Staline đối với Việt nam là cực lớn. Cuốn Tóm Tắt Lịch Sử Đảng cộng sản Liên xô dày cộp, khổ lớn, hơn 600 trang, do Stalin đích thân duyệt và sửa, do nhà xuất bản Sự Thật in đi in lại đến hơn chục lần, là cuốn sách gối đầu giường của các cán bộ cộng sản cấp cao ở Việt nam. Cuốn sách này được ông Hồ Chí Minh dịch ra tiếng Việt khi ông còn ở trong hang Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Qua cuốn sách ấy lịch sử đã bị bóp méo theo ý đồ tự đề cao mình của Stalin. Quan điểm bạo lực đơn thuần, nguyên lý cực đoan về chuyên chính vô sản, luận điểm càng đi lên chủ nghĩa xã hội đấu tranh giai cấp càng thêm gay gắt... được Stalin tô rất đậm. Cần thấy rõ, do nhuốm nặng chủ nghĩa giáo điều, Đảng cộng sản Việt nam và dặc biệt là bộ phận lãnh đạo của đảng đã mang tính chất Stalinít sâu nặng vào loại nhất so với các đảng cộng sản khác. Tinh thần sùng bái Stalin một cách mù quáng không phải chỉ có ở nhà thơ Tố Hữu. Nó luôn còn rất nặng ở ngay trong bộ chính trị và han chấp hành trung ương hiện tại.

Cuốn sách lớn của Stalin, Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội, cũng là sách gối đầu giường của cán bộ cộng sản toàn thế giới. Quy luật cơ bản và 9 quy luật tất yếu của chủ nghĩa xã hội, do Stalin tìm ra, trình bày và giải thích, chính là một ngọn nguồn tai họa và bế tắc của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Từ quy luật công nghiệp hóa, lấy công nghiệp nặng làm trung tâm, đến cải tạo quan hệ sản xuất, tiêu diệt chế độ tư hữu đến kế hoạch hóa tràn lan, cứng đờ, máy móc, cho đến đảng độc quyền lãnh đạo, gò bó sự nghiệp văn hóa trong một hình thức duy nhất hiện thực xã hội chủ nghĩa... đều là những sai lầm cơ bản gây cơ man nào là tổn thất, rối loạn, đổ vỡ cho sản xuất xã hội, giam hãm nhân dân trong ìâm than, đói khổ và lạc hậu?

Một giáo sư Nga tôi gặp ở Trường Đại Học Berkeley ở California (Mỹ) kể rằng, Stalin nguyên học ở một trường dòng, không được học có hệ thống về tự nhiên cũng như xã hội, nhưng tự cho mình là biết hết và can thiệp rất liều vào khoa học. Chính Stalin khẳng định rằng: "Không có ở đâu cái gọi phương thức sản xuất Châu á," và cấm bàn vấn đề này. Ông ta cũng kết luận một cách vũ đoán là không có khoa xã hội học (sociologie), vấn đề này nằm trong khoa duy vật lịch sử rồi? ông cũng kết luận không có vấn đề toán trong kinh tế? (Ai cũng biết môn toán kinh tế đang phát triển rất mạnh hiện nay, với khoa toán kinh tế đặc sắc). Ông ta ra lệnh điều các nhà nghiên cứu môn này hồi ấy sang ủy Ban Thống Kê, từ đó Liên xô trở nên rất lạc hậu về môn toán kinh tế. Liên xô trở nên rất lạc hậu về môn toán kinh tế là điều dễ hiểu! Stalin còn viết cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề ngôn ngữ, phê phán một cách bừa bãi, kém trí thức quan điểm của nhà ngôn ngữ học Marx rất tài giỏi về môn này. Trong sinh học, nhà "bác học Stalin" nhận định: ai theo quan điểm gen (gène) trong sinh học là kẻ phản động! Ông đưa nhà nghiên cứu dỏm" Lyssenko lên mây xanh và đưa xử bắn nhà sinh học tài giỏi là Vavilov. Phương pháp suy nghĩ duy ý chí của Stalin đã làm hại dân tộc Việt nam không xiết kể. Các nhà lãnh đạo Việt nam theo nếp nghĩ duy ý chí giải quyết rất ẩu vấn đề kỹ thuật của công trình thủy điện sông Đà, bắn khoan vào lòng đá cho nước chảy, đề phòng chiến tranh nguyên tử (!!!), tốn kém thời gian, chất nổ, tiền của không tính xiết. Việc dựng đường dây cao thế Bắc Nam hiện nay để đưa điện từ Hòa Bình vào Sài Gòn và Cần Thơ, cũng theo cung cách Stalin, quyết định ẩu cấm cãi lại, chính trị là thống soái, cán bộ kỹ thuật là hầu hạ, điếu đóm, phải vâng dạ, thế thôi! Stalin cũng viết cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, nhưng cũng chính Stalin lại phạm sai lầm nhất thống vấn đề dân tộc. Sau nội chiến, ông ra lệnh cho nhiều dân tộc thiểu số di dân từ nơi họ sinh sống từ lâu đi nơi khác, đầy ải từng dân tộc vào những vùng xa xôi, như dân tộc Karatchai, các dân tộc Chechene và Ingouche, dân tộc Balkar... Những xung đột chủng tộc hiện nay ở vùng Karabak là hậu quả của chính sách cưỡng bức di dân thời đó của Stalin. Thái độ độc đoán, khinh thị trí thức, coi cán bộ kỹ thuật là kẻ thừa hành, khinh thị dân tộc, lấy "chính trị làm thống soái đã được truyền sang các nước xã hội chủ nghĩa anh em, và được nhập vào Việt nam khá là sâu đậm.

Theo gót Stalin, các nhà lãnh đạo của đảng cộng sản Việt nam ít được học chu đáo, thậm chí học kém vẫn ngang nhiên phát biểu đủ thứ, lên lớp dạy bảo các nhà khoa học theo quan điểm chính trị là thống soái. Việc phi Staline hóa về nhận thức lý luận trở nên rất cấp bách. Thế nhưng các vị lãnh đạo chóp bu của Đảng cộng sản Việt nam lại, cấm không cho đụng đến Stalin, coi đó là húy kỵ, nhằm bảo vệ cái thần tượng hão huyền ấy? Đây là một thái độ vô trách nhiệm đối với dân tộc và nhân dân. Họ còn duy trì sự sùng bái này bao lâu nữa? Trong khi chính ngay ở Liên xô, Stalin đã bị hạ bệ từ lâu rồi.

Cái luận điểm mà các ông Đào Duy Tùng và Nguyễn Đức Bình, ủy viên Bộ Chính Trị Trung ương Đảng, đến năm 1992, vẫn còn cứ cãi chày cãi cối rằng, dù sao "đồng chí Stalin" công lao vẫn lớn hơn thiếu sót (họ không dám dùng chữ tội ác); dù sao trong chiến thắng chống Phát Xít, đại nguyên soái Liên xô Stalin vẫn lập công đầu... thật là lạc lõng!

Họ vẫn ù ù cạc cạc, không biết rằng ở Liên xô, các nhà viết sử chiến tranh, các nhà lý luận, các nhà chính trị trung thực đã viết hàng chục cuốn sách, hàng trăm bài báo để chứng minh rằng: Trong chiến tranh công của Stalin đã được thêu dệt, tâng bốc quá đáng, còn khuyết điểm đã được che dấu kỹ. Stalin đã hoàn toàn chủ quan, ảo tưởng về "thiện chí", sự "biết điều của Hit-le tôn trọng hiệp ước Đức Xô, để đến mức tê liệt cảnh giác ngay trong đại bản doanh, làm cho Liên xô bị động, bị tấn công bất ngờ, phải lui quân trên quy mô lớn, bị tổn thất hàng triệu sinh mạng nhân dân và binh sĩ. Chiến công lớn về sau toàn là thuộc về tài thao lược của các tướng tài, như Giukov (về sau thống chế Giucov bị Stalin đối xử xấu với thái độ phải nói là hèn hạ, vì đã "dám" tỏ ra tài nàng hơn Stalin). Cướp công của hơn một chục vị tướng có thực tài là một tội lớn của Stalin, đã được chứng minh rõ. Vậy thì các vị cộng sản giáo điều ở Hà nội còn có lý gì để bảo vệ sự thiêng liêng của "đại" lãnh tụ Stalin và cấm đoán toàn đảng và xã hội không được đụng đến chân lông của kẻ mà chính người Liên xô vạch mặt chỉ tên như một tên khát máu man rợ nhất, một con thú dữ lộng hành suốt hơn 30 năm cầm quyền, một kẻ gây tai họa cực lớn cho xã hội, nhân dân Liên xô và thế giới.
 
Ở Moscơw đang lưu truyền chuyện tiếu lâm trên vỉa hè phố Arbat rằng: Stalin chuẩn bị đi săn và xác định rằng chỉ đi săn gấu mà thôi. Lập tức mọi động vật khác, cho đến cả thỏ hiền lành và sóc nhút nhát cũng chạy trốn hết. Vì cái máu Stahn là giết, là bắn mọi động vật đang động đậy, và hắn rêu rao chỉ bắn gấu là để có thể giết được nhiều loại động vật nhất!

Stalin đã tạo nên nhưng tay đô tể dưới trướng hắn như Beria. Truyện rằng: Một hôm Stalin gọi Beria đến và bảo: Ta vừa mất cái tẩu hút thuốc, phải truy bắt lập lức thủ phạm!" Nửa giờ sau, Stalin gọi Beria vào phòng, nói: "Tẩu thuốc lá đã tìm thấy, ta để quên trong ngăn kéo kia." Beria nhanh nhảu:. "Kính thưa đồng chí Stalin vĩ đại, xin trình đồng chí đây là đúng 200 bản tự thú nhận của những kẻ đã dám lấy cắp cái tẩu vô giá của đồng chí..."

Nội dung chuyện có thể vô lý nhưng lại rất thực, lột tả cái tâm địa tàn ác, đần độn của chính Stalin và bộ hạ. Cái thâm của chuyện tiếu làm là ở đó. Lại một chuyện nữa. Stalin vừa chết. Ban Chấp Hành Trung ương họp khẩn cấp. Molotơv báo tin buồn: "Stalin đã tắt thở." Mọi người yên lặng. Bỗng tiếng của một ủy viênbộ Chính trị cất lên, run rẩy: "Thật là nghiêm trọng! Vậy thì ai trong chung ta dám báo cáo cái tin khủng khiếp này đến đồng chí Stalin vĩ đại?" Truyện phịa, không có thật, nhưng để nhấn mạnh rằng đến khi chết rồi, Stalin vẫn còn gây sợ hãi cho bộ hạ đến vậy!

Đông phương Hồng, Mặt trời lên...

Một thời bài hát Tàu rất được thịnh hành:

Mao tsé Tung
Thai vang sâng
rung Hoa su leo cơ Mao Tsé Tung

Phiên theo chữ Hán là:

Mao Trạch Đông .
Thái Dương thăng
Trung Hoa xuất liễu cá Mao Trạch Đông...


Nghĩa là:

Mao Trạch Đông
Mặt trời lên
ở nước Trung Hoa xuất hiện Mao Thạch Đông...

Câu cuối là: Người là cứu tinh của nhân dân"

Một thời, cái thời từ 1950 đến tận 1978, sách ông Mao tràn ngập các cửa hàng bán sách Nhân Dân và các tủ sách công cộng; trong Thư viện Quốc gia Hà nội, sách của Mao được xếp vào loại kinh điển cơ bản nhất. Thư viện các cơ quan cho đến tủ sách ở các khu phố, trường học, xí nghiệp... đều tràn đầy sách của Mao. Cuốn Trì cửu chiến (Chiến tranh lâu dài), Tân cân chủ luận (Bàn về cân chủ mới), Thực tiễn luận (Luận về thực tiễn), Mâu thuẫn luận (Bàn về mâu thuẫn), Vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân... là những cuốn sách được in với số lượng cực lớn, ở trong chương trình học tập chính thức của đảng viên, cán bộ từ sơ cấp đến trung cáp và cao cấp.

Sự sùng bái mù quáng Mao đạt đỉnh cao nhất vào tháng 12 năm 1951, tại Đại Hội Đảng dân thứ 2 họp trên căn cứ Việt Bắc, trăm phần trăm đại biểu giơ tay thông qua điều lệ mới của đảng ghi rõ trên giấy trắng mực đen: Đảng Lao Động Việt nam lấy chủ nghĩa Mác-Angels-Lênin-Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng. Mặt trời chói lọi ấy chỉ ít lâu sau đã chiếu rọi khắp đồng quê miền Bắc, với những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp "địa chủ (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau... Họ đều được biểu dương là lập trường giai cấp vững chắc và đứt khoát, giác ngộ giai cấp sâu sắc, là những đảng viên trung kiên của đảng, thấm nhuần tận xương tủy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, được nêu gương để toàn đảng học tập. Những chữ "Tàu hoặc mang màu sắc Tàu xuất hiện rất tự nhiên: địa chủ cường hào, địa chủ ác bá, tố khố, mạn đàm, tọa đàm, tâm đắc, kiểm thảo, phản tỉnh, liên hệ, liên quan, thành khán nhận tội, thành khẩn hối hận, thành khẩn và ngoan cố, đầu hàng giai cấp, tình cảm giai cấp, Phân loại thành phần, phân loại tư tưởng, cốt cán, bắt rễ xâu chuỗi, phát động cám thù, phát động tư tưởng... Hơn 10 nghìn người đã bị bắn trong các tòa án nhân dân vừa hừng hực khí thế kích động cảm thù, vừa mù quáng kỳ quặc; một chiều theo kiểu a dua của đám đông- những cơn động kinh của đám cuồng tín ít học. Mao Trạch Đông từng vỗ ngực tự nhận là kẻ cầm đầu của mấy trăm triệu nông dân Đông Nam Châu á.

Những phái viên kiệt xuất của Mao chủ tịch là những ông chủ thật sự của cải cách ruộng đất. Đó là "đồng chí Thiế,t đồng chí Triệu, đồng chí Vương"... mà mỗi lời phán, gợi ý, đề xuất được coi là mệnh lệnh, là chỉ lệnh của Mao chủ tịch vĩ đại! Điều lệ Đảng đã ghi lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng thì dù có điều gì các học trò Việt nam cảm thấy là lạ, kạ kỳ, thậm chí vô lý... cũng cứ phải cúi đầu vâng dạ mà chấp hành cho sớm.

Những học trò ấy trước hết là. ai? Là ông Trường Chinh, Tổng bí thư của đảng đảm nhận chức Trưởng Ban chí đạo Cải cách ruộng đất, là ông Hoàng Quốc Việt, ủy viên thường vụ trung ương đảng (như ủy viên Bộ chính trị), Trưởng ban chỉ đạo thí điểm cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên; là ông Lê Văn Lương, Trường ban tổ chức trung ương kiêm Trưởng ban Chỉ đạo chỉnh đốn tổ chức, mà thí điểm được làm ở Thanh hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh; là ông Hồ Viết Thắng, ông Chu Văn Biên, ủy viên thường trực của Ban chỉ đạo trung ương.

Mỗi lần các vị học trò" này gặp đoàn "phái viên quý báu của Mao Chủ Tịch" về Thủ ti cải cớ (Thổ địa cải cách, theo tiếng Bắc Kinh), họ chỉ có thái độ tiếp nhận ý kiến của chuyên gia, không dám hỏi lại cũng không dám cãi lại! Anh bạn của tôi làm ở văn phòng Ban Chỉ Đạo hồi ấy (năm 1954, 1956) kể lại: "Triết cố vấn", Triệu cố ván" và Vương cố vấn" chuyên ngồi dựa vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước, có lúc gác đại cả 2 chân lên bàn, tay cầm ly rượu mao đài, nhổ nước hót ồn ào xuống đất, để phán bảo cho những người nắm vận mệnh của đất nước Việt nam. Thật thê thảm cho đất nước này!

Có một câu chuyện rất đáng chú ý. Khi đội phát động đến vùng đồn điền Đồng Bẩm sát ngoại ô thành phố Thái Nguyên làm thí điểm phát động nông dân, chủ đồn điền là bà Nguyễn Thị Năm. Bà từng ủng hộ các chiến sĩ cộng sản từ thời bí mật từ những năm 1937-1938... Chính các ông Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt đã được bà che chở, nuôi dưỡng. Hai con trai bà hoạt động Việt Minh từ thời bí mật, đi bộ đội giải phóng và đến 1954, một anh tên Nguyễn Công là Chính ủy Trung đoàn, một anh tên Nguyễn Hanh là Đại đội phó Bộ đội Thông tin. Cố vấn Trung Quốc nhận định bừa rằng đây là mụ địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy đầu. Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến. Những người ấy bị cố vấn Tàu và ông Đội trưởng quê ở Nghệ An kết tội là tay sai, đình bênh che, chạy tội cho địa chủ. Không khí ngột ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi, đến bước đau tranh trực diện của nông dân, kể tội và luận tội về kinh tế và chính trị, chuẩn bị cho tòa án nhân dân với màn xử bắn.

Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy, ông chạy về Hà nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: "Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính ủy trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức." Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói ông Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này!

Thế nhưng không có gì động đậy theo hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ là đã quá chậm. Các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Nam rồi. Lập luận của những "phái viên đặc biệt của Mao chủ tịch" là: "Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt tàn bạo, chúng không từ một thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt nhận rõ kẻ thù của mình, dù chúng dở thủ đoạn nào." Tôi hỏi ông Hoàng Quốc Việt vậy thì ông nghĩ sao về câu chuyện này? Lúc ấy là năm 1987, đã có "đổi mới", "nói thẳng và nói thật". Ông nói: "Đến bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ!" Ông than? Thế rồi sang chuyện khác. "Họ" là các ông con trời, đặc phái viên của Mao. Tôi nghĩ việc này có rất nhiều ý nghĩa. Trước hết ông Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là Chủ tịch nước, Chủ tịch đảng, ông vẫn phải chịu phần trách nhiệm. Huống gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp.ì Đây là thái độ vô trách nhiệm. ống không can thiệp thì còn ai có thể can thiệp? Ông đã để mặc cho nước của ông, đảng của ông bị một số kẻ nước ngoài lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế, ông đã từ nhiệm vị trí, trách nhiệm của mình.

Giả thử ông quyết can thiệp hết mình, đến nơi đến chốn vì đây là trường hợp thí điểm, thì biết đâu cả cuộc cải cách ruộng đất sẽ diễn ra khác hẳn. Chẳng phải chính ông, trước đó đã có lần nhận định rằng lòng yêu nước của dân tộc ta rất sâu rộng, cho đến vua quan như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái cũng chống thực dân Pháp; biết bao địa chủ là địa chủ kháng chiến, biết bao nhân sĩ là nhân sĩ dân chủ, có biết bao thân sỹ yêu nước ở khắp nơi...

Sùng bái "mặt trời phương Đông", nể sợ "thiên triều Bắc kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác quanh ông, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ. Chính ông cũng bị cỗ xe Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông đè lên đầu, trong khi cả Đảng cộng sản và xã hội bị cỗ xe ấy nghiền nát. Thảm trạng hiện nay của đất nước bắt nguồn một phần không nhỏ từ "mặt trời" ấy, thái độ "đầu hàng" tai hại ấy, dù cho "mặt trời ấy đã lặn vào bóng đêm dày đặc của lịch sử từ hơn 1 chục năm nay (ông Mao đã chết năm 1976). Báo Nhân Dân hồi đó đã có một bài xã luận ở trang một, khóc lóc tiếc thương "người thầy vĩ đại của cách mạng Trung Quốc, người bạn lớn của nhân dân Việt nam."

Nguồn: Mặt thật (Hồi ký của đại tá QĐND Bùi Tín (xuất bản 1994))

Bạn đọc download cuốn sách tại đây: Bản pdf

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Facebook Digg Stumbleupon Favorites More