Thực trạng đất nước ta hiện nay như thế nào? Rất có thể dễ thấy đất
nước ta đang ở trong sự phát triển, có những mặt phát triển tốt và có
mặt phát triển kém song có nhiều mặt không phát triển hay gọi là phát
triển chậm chạp.
Nét chủ yếu của thực trạng đất nước này là ở chỗ nào, thì mọi người đều thấy rằng là một nước thiếu dân chủ, kém dân chủ và không có dân chủ.
Tình trạng kém dân chủ, thiếu dân chủ không phải chỉ có nhân dân nói -
không phải chỉ một người nói mà nhiều người nói, nói ở hơn tất cả ngõ
ngách hè phố, nói ở các cuộc họp mặt bạn bè; ngay cả ở trong văn kiện
chính thức của Ðảng và Nhà nước cũng phải thừa nhận rằng đất nước ta
thiếu dân chủ và kém dân chủ. Liệt kê ra những việc, những hiện tượng,
công tác kém dân chủ, thiếu dân chủ cũng khá nhiều và cũng đã có những
chính sách đề ra để khắc phục tình trạng này như chính sách quy chế dân
chủ ở cơ sở hô hào mở rộng dân chủ trong Ðảng và trong xã hội, yêu cầu
các cơ quan mở rộng dân chủ, Quốc hội họp cũng yêu cầu phát triển dân
chủ v.v.
Ðã có những lời kêu gọi, những chính sách để khắc phục tình trạng yếu
kém thiếu dân chủ. Ðó là tình hình thực sự có - nhưng mà cái gọi là
thiếu dân chủ và kém dân chủ ở đây không phải là những mặt cụ thể có thể
sờ thấy ngay được. Nếu xác định rõ cái cụ thể và chỉ đích danh nó rồi
ra một số chỉ thị công tác thì liệu có khắc phục được không? Thực tế cho
thấy là không khắc phục nổi. Nó thành bệnh rồi. Nhưng cứ tưởng hệ thấy
có một hiện tượng mất dân chủ nào đó lại có một chỉ thị một chính sách
thì khắc phục được tình trạng thiếu dân chủ. Không phải như thế.
Cái thiếu dân chủ ở Việt Nam là nó thiếu từ ở trong thể chế Nhà nước của nó.
Các thể chế Nhà nước mà bộ máy cai trị nhiều tầng lớp cồng kềnh phức
tạp. Tuy rằng có hô hào bộ máy Nhà nước là "đầy tớ" phục vụ nhân dân,
chủ quyền thuộc về nhân dân. Nhưng trong thực tế tình trạng Nhà nước vẫn
là cái cơ quan ban ơn bố thí cho nhân dân chứ không phải cơ quan phục
vụ nhân dân. Thể chế đó có nguồn gốc của nó, cho nên khi nói về vấn đề
dân chủ thì phải nhìn thẳng vào cái thể chế của Nhà nước, phải nhìn
thẳng vào cái thể chế của dân chủ, phải nói rõ ra rằng chúng ta bây giờ
thực hiện chế độ một Ðảng, một Ðảng toàn trị. Tất cả mọi thứ
đều ở trong tay Ðảng, không cho ai làm cái gì khác - Tất cả các tổ chức
xã hội, các tổ chức khác, tổ chức của Nhà nước đều không có một tý độc
lập nào cả. Cái gì cũng phụ thuộc vào cơ quan của Ðảng hết.
Thế là một cái thể chế kém dân chủ. Ðó là thể chế một Ðảng và toàn
trị chứ không phải là thể chế dân chủ. Ðó là hiện trạng thực của đất
nước hiện nay. Tình trạng đất nước kém dân chủ, thiếu dân chủ và không
dân chủ như thế thì con đường đưa đất nước tiến lên có lẽ nét chủ yếu
cũng vẫn là phải dân chủ hoá toàn diện.
Nói về dân chủ cần nói nhiều và cần nói dài. Trước khi nói về nội
dung vấn đề dân chủ hoá nên như thế nào thì cần phải làm rõ một số nhận
thức lý sự xung quanh vấn đề dân chủ.
Các tư tưởng và các giải pháp cho các vấn đề nêu sau đây không phải
dùng để chống lại một ý thức hệ cứng nhắc nào đó mà là được cố gắng thực
hiện trong một thế giới môi trường thực - nơi mà các tư tưởng các giải
pháp đó được mang ra bàn luận và có thể bị thay đổi, được chấp nhận hay
bị loại bỏ hoặc bổ sung.
Ðại hội IX của Ðảng Cộng sản đã có một quyết định rất quan trọng. Ðó là bổ sung thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu chiến lược: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chữ dân chủ
bổ sung, ở đây vừa có ý nghĩa gián tiếp thừa nhận là xã hội ta hiện nay
chưa dân chủ, vừa có ý nghĩa coi trọng mục tiêu dân chủ, coi dân chủ là một mục tiêu chiến lược quan trọng.
Lẽ ra sau Ðại hội, TW phải có nhiều nghị quyết và việc làm thực hiện
sự bổ sung khẩu hiệu này, nghĩa là phải có nhiều quyết định và việc làm
thực hiện sự dân chủ hoá trong cả nước. Không nên để nhân dân mừng hụt
vì sự bổ sung chữ dân chủ vào trong khẩu hiệu đã dấy lên một
tinh thần phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân vì nó đã đáp ứng đúng sự
khao khát dân chủ trong nhân dân.
Hiện nay xung quanh vấn đề dân chủ thì ai cũng thừa nhận cần phải dân chủ hoá.
1. Nhưng có một vấn đề lấn cấn giữa dân chủ tư sản và dân chủ vô sản. Cứ cho rằng ta phải làm dân chủ vô sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa còn rơi vào các tình trạng khác thì là dân chủ tư sản.
Thực tế đó là một sự nhận thức máy móc, quá đơn giản, quá ấu trĩ.
Nhìn vào lịch sử loài người từ thế kỷ 17-18 có những cuộc cách mạng
tư sản nổi lên phá vỡ các hệ thống cai trị của chế độ phong kiến, đập
tan bộ máy Nhà nước phong kiến, bọn vua quan triều đình, lập nên cái mô
hình dân chủ từ mấy trăm năm năm nay. Nếu nước nào còn vua như nước Anh,
nước Nhật chẳng hạn thì vua cũng chỉ làm vì thôi, còn quyền lực thực sự
thuộc về Nghị viện, bộ máy Nhà nước, Thủ tướng và Tổng thống. Như vậy
là có một mô hình dân chủ xuất hiện hàng trăm năm nay, trong xã
hội loài người. Tất cả các nước trên thế giới tuỳ theo đặc điểm riêng
của mỗi nước có thay đổi chút ít nhưng đều theo mô hình dân chủ này cả:
đều là nước cộng hoà - đều có Nghị viện, có Thủ tướng, có Tổng thống.
Thế thì cái đó có phải là mô hình tư sản không? Ðúng là dân chủ tư sản. Nhà nước tư sản đánh đổ Nhà nước phong kiến mới nảy ra cái này, nảy ra cái mô hình Nhà nước này.
Mãi về sau, Cách mạng tháng 10 xuất hiện thì Lê nin mới sáng tạo ra
cái mô hình Nhà nước khác gọi là mô hình Nhà nước Xô Viết mà Lê nin nói
là rút ra từ bài học công xã Pa ri và cho nó ưu việt hơn mô hình Nhà
nước Nghị viện của tư sản.
Cái đó có đúng không? Thực tế như bây giờ cho ta thấy cái mô
hình Nhà nước Xô Viết không còn nữa. Một trăm bảy mươi mấy nước trên
thế giới thì 75 đến 80% theo mô hình Nhà nước dân chủ đã có từ mấy trăm
năm nay.
Ðúng là nó đã nảy sinh ra từ cách mạng tư sản nhưng mà hiện nay nó trở thành cái mô
hình phổ biến chung cho đại đa số quốc gia phát triển trên thế giới và
không còn màng tính chất tư sản thủa sơ khai nữa rồi. Quan niệm về bóc
lột và cách cai trị cũng đã khác.
Nhà nước chúng ta thì sao? Theo tôi thì nó cũng cần phải có
những nét mô hình gần giống với mô hình Nhà nước cộng hoà trên thế giới,
loài người tiến bộ ngay nay - thời kỳ hội nhập - Mô hình Nhà nước của
ta cũng là Nhà nước cộng hoà, cũng có Quốc hội, cũng có Thủ tướng, cũng
có Chủ tịch nước . Ðó chỉ là cách gọi có khác nhau, chứ cũng chỉ là cái
mô hình Nhà nước cộng hoà phổ biến bây giờ.
Vậy chúng ta đã lập theo mô hình này thì có phải là dân chủ tư sản không? Nếu ta nói đặc trưng ấy là đặc trưng của dân chủ tư sản thì chúng ta phải thực hiện cái dân chủ ấy.
Rồi vấn đề các quyền cơ bản của công dân nó cũng nằm trong các hiến pháp các nước tư bản,
đến ta xây dựng các hiến pháp của ta năm 1946 - đó là một hiến pháp tốt
đẹp nhất, mà theo tôi hiến pháp vừa sửa đổi có những điểm còn thụt lùi
so với bản hiến pháp năm 1946 - cũng không bỏ qua được những quyền của
công dân. Ðấy cũng là mô hình dân chủ của thế giới. Cho nên bây giờ mà vẫn còn phân biệt dân chủ tư sản với dân chủ xã hội chủ nghĩa thì là một sự lạc hậu, không còn thích hợp nữa.
Nó là mô hình dân chủ chung của toàn thế giới. Ðấy là xu
hướng chung của hàng trăm nước trên thế giới đều hướng theo cái mô hình
này hết. Thế vấn đề cơ bản của mô hình dân chủ là như thế nào? Trước hết
nói tới dư luận "sự kém cỏi lừa bịp" của dân chủ tư sản, nói thế song chính mình cũng phải "tự sờ lên gáy mình xem". Bởi vì thực ra dân chủ tư sản nó nói nhiều làm ít và "có nói mà không làm",
có cái nó đưa ra quyền dân chủ song dân không có điều kiện để thực hiện
quyền dân chủ. Chính trong xã hội ta hiện nay cũng đang rơi vào tình
trạng ấy. Nói một đằng làm một nẻo, cho dân quyền nọ quyền kia nhưng dân
cũng không thể thực hiện được, mà cơ quan Nhà nước cũng còn cứ là người
đi ngăn cấm đối phó với các hình thức biểu thị cái quyền dân chủ của
người công dân. Như thế vấn đề gọi là dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa là không có nữa. Bây giờ còn đặt ra là một sự vớ vẩn, ngớ ngẩn
và buồn cười.
Tôi cho rằng đã đến lúc không nên đặt vấn đề dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa nữa mà vấn đề cần đặt ra để trao đổi là nội dung mô hình dân chủ toàn thế giới có những nét chung như thế nào ?
Chúng ta dựa vào nét chung ấy để mà xây dựng các nền dân chủ của nước
ta, không việc gì phải cấn cớ rằng nó là tư sản hay không tư sản?
2. "Sợ rằng dân chủ thì sẽ mất ổn định" và luôn luôn nêu lên dân phải có lãnh đạo, dân chủ phải có giới hạn, nếu mở rộng dân chủ quá thì nó rối loạn, mất ổn định.
Ðó cũng là một cách lập luận rất cổ lỗ. Sự thật trên thế giới hiện
nay rất nhiều nước dân chủ rất rộng rãi, nhất là các nước tiên tiến tiến
bộ, dân chủ của họ lại càng rộng rãi, họ nào có mất ổn định. Chính do
họ dân chủ như thế nhân dân họ càng ổn định, yên tâm hơn mà sống.
Ở Việt Nam bây giờ đúng là đang có những nét phát triển tốt, nhất là
đời sống xã hội ở thành phố có những biến chuyển tốt đẹp rõ rệt. Nhưng
chúng ta đã sau gần 30 năm sau chiến tranh rồi mà chúng ta vẫn còn trong
tình trạng đói nghèo và lạc hậu, trong khi các nước xung quanh ta xuất
phát thì đều như chúng ta hoặc có kém chúng ta nhưng sau 30 năm họ đều
trở thành những nước giàu có thì ta không thể bằng lòng với cái tốc độ
phát triển như hiện nay của ta được, mà phải nhìn sang các nước mà học
tập.
Nói cho cùng thì các nước họ phát triển nhanh là bởi họ thực hiện dân
chủ tốt mà ta thì phát triển chậm chạp, nặng nề là do sự phát triển dân
chủ không tốt. Xã hội của ta bây giờ nói là không dân chủ cũng không
đúng vì đã có mô hình Nhà nước dân chủ rồi, mà nói là có dân chủ rồi
cũng không đúng vì đời sống nhân dân trong tình trạng có được hưởng một
số tiến bộ về vật chất song tình trạng sống tự do thì chưa có; chưa ai
thấy mình được sống tự do cả, giới trí thức không thấy mình được sống tự
do, giới văn nghệ sĩ lại càng không thấy mình được sống tự do, rồi nông
dân cũng không cảm thấy được sống tự do vì ruộng đất thuộc về Nhà nước
hết, rồi công nhân cũng không được tự do và những người buôn bán nhỏ,
những người lao động ở thành phố làm ăn vất vả mà kiếm sống còn đang vất
vả nghèo nàn quá, trong khi ấy thì cũng không được tự do - những ý kiến
của mình như thế nào cũng không được nói ra, nhất là tình trạng oan
khuất kiện cáo kéo dài hàng chục năm, hàng nhiều chục năm, đơn từ kiện
cáo để thành kho - chứng tỏ dân sống không yên ổn, không thể nói dân ta
sống yên ổn được.
Dân sống không yên ổn thì chủ yếu là do không dân chủ. Một người dân và mỗi người dân đều không được tự do thế thì mở rộng dân chủ sẽ khắc phục được điều đó. Như vậy chính mở rộng dân chủ sẽ làm cho tình hình ổn định hơn,
dân sẽ thoải mái hơn, tự do hơn, có nguyện vọng, có ý kiến được phát
biểu một cách tự do thoải mái thì khỏi phải sợ ai cả. Còn bây giờ nếu ai
có ý kiến gì khác một chút đều phải sợ, sợ người xung quanh, sợ cả họ
hàng con cái mình, sợ công an. Một xã hội như thế không thể gọi là xã
hội dân chủ được. Phải mở rộng dân chủ, thực hiện dân chủ để làm cho mỗi
người dân được sống thoải mái tự do thì mới đúng ý cái câu nói của Bác
Hồ "Nếu độc lập mà dân không có tự do thì cũng vô nghĩa". Chính bây giờ
ta có độc lập mà không có tự do vì ta không có dân chủ. Dân chủ hoá tức là để thực hiện quyền tự do cho Dân,
như thế chỉ làm cho ổn định và phấn khởi hơn, không thể làm cho lộn xộn
được. Hệ quả có thể là sẽ xảy ra tình hình có nhiều ý kiến khác nhau.
Như thế thì càng làm cho xã hội phong phú hơn chứ không có gì xáo trộn
cả. Tất nhiên có những chỗ, những lúc có người có ý kiến cực đoan nói
nhau không ra cái gì, những tình trạng ấy rất ít và là bộ phận như cái
cuộc phê bình tranh luận xung quanh vấn đề văn nghệ, còn về đại thể nó
thoải mái hơn, dễ chịu hơn, đỡ sợ hơn và thế là một cuộc sống về cả tinh
thần lẫn vật chất mới có ý nghĩa tiến bộ.
Xét về đời sống tinh thần của người dân bây giờ không phải cứ có
nhiều lễ hội là đời sống tinh thần phong phú đâu, mà phải được tự do dân
chủ thì đời sống tinh thần mới phong phú, cho nên cái lý sự nói mở rộng
dân chủ bây giờ thì loạn là nói liều và là cố tình nói ra như thế để
ngăn cấm quá trình dân chủ chứ không có lý lẽ gì cả, không có thực tiễn
nào cả.
Thực tế Thái Bình và Tây Nguyên có phải vì quá dân chủ mà ra thế
không? Thực sự là vì thiếu dân chủ nó ra thế. Có lẽ dân chủ hơn, Nhà
nước hiểu nguyện vọng của dân Tây Nguyên hơn, hiểu nguyện vọng của nông
dân Thái Bình hơn, có chính sách phù hợp với sự phát triển khu vực địa
lý và dân cư thì chắc tình hình ổn định tốt đẹp hơn nhiều.
3. Ý kiến cho là mặt bằng dân trí Việt Nam quá thấp
chưa đủ sức, chưa đủ tầm để mà thực hiện dân chủ cho nên chưa mở rộng
dân chủ được, còn phải từ từ. Có ý kiến cho rằng chưa dân chủ được tức
là không muốn dân chủ hoá, nhưng có ý kiến cho rằng chưa dân chủ được
tức là không muốn dân chủ hoá, nhưng có ý kiến cho là phải làm từ từ. Cả
hai ý kiến này đều dở ở chỗ anh đã thực hiện dân chủ bao giờ chưa mà
bảo dân không biết dùng dân chủ, không để cho dân thực hiện dân chủ thì
làm sao dân biết thực hiện dân chủ, cứ sợ như thế rồi mình kìm hãm thì
cái đó là cái lý sự rất không đúng.
Ðúng là để dân chủ hoá thì có hàng trăm nghìn việc phải làm nhưng
trăm nghìn việc ấy thì có việc dễ thì làm trước, khó thì làm sau chứ
không phải cùng làm một lúc, phải có một thời gian dài có khi hàng năm,
hàng vài ba năm mới có thể hình thành được cái khung sườn dân chủ. Nhưng
mà không bắt đầu đi thì đến lúc nào mới làm được, còn như cứ cho là
phải từ từ mà không bắt đầu làm, cứ yên như cũ thì cuộc đời không phát
triển, không tiến bộ được. Còn sợ dân không hiểu thì cái sợ đó là một sự
chủ quan và rất coi thường nhân dân. Ðúng là nhân dân có nhiều cái
không hiểu, ví dụ như lý sự về dân chủ tư sản và dân chủ vô sản, lịch sử
dân chủ và lý luận dân chủ thì dân có thể không biết thật. Thậm chí cả
các cán bộ cũng không chắc mọi người đã hiểu thấu đáo chưa. Nhưng mà cứ
thực hiện dân chủ đi, cứ từng việc một có ích lợi cho dân thì dân biết
ngay và hiểu được ngay. Cho nên nói dân trí thấp chưa thực hiện dân chủ
thì là nguỵ biện để mà bào chữa cho cái tình hình không muốn dân chủ
hoá, và nói là làm từ từ không làm mạnh sợ mất ổn định thì cũng là một
thứ nguỵ biện. Thực ra muốn từ từ thì cũng phải bắt đầu. Thực tế có
nhiều việc có thể làm ngay và dễ dàng, làm một buổi một giờ là xong mà
lại có tác động tích cực tới đời sống nhân dân. Nếu không bắt đầu ngay
thì bỏ mất thời cơ không bao giờ có (sẽ trao đổi cụ thể nếu được đối
thoại trực tiếp).
4. Một vấn đề nhận thức và quan điểm nữa cần phải trao đổi cho rõ.
Trao đổi rồi song chưa chắc đã rõ được ngay mà phải thường xuyên theo
dõi diến biến thực tế trong nước và thế giới rồi khái quát đúc kết và bổ
sung cho lý sự (lý luận). Ðây là vấn đề thực tiễn lịch sử. Cho nên tôi
cũng cứ phải nêu ra để cùng trao đổi. Ðó là vấn đề Ðảng Cộng sản có tự nguyện tự đổi mới được để mà dân chủ hoá không?
Tôi được tiếp xúc với nhiều người, được nghe nhiều ý kiến, có loại ý
kiến là bất cứ Ðảng nào, nhóm nào cầm quyền cai trị xã hội, khi đã cầm
quyền rồi thì không nghĩ cái gì khác ngoài việc tìm mọi cách củng cố
quyền lực và quyền lợi của phe nhóm mình, không bao giờ tự nguyện chịu
nhường bước bất cứ một ly một tý nào. Vì vậy cho nên thực tiễn đặt ra Đất nước cần phải dân chủ hoá.
Nhưng Ðảng Cộng sản này sẽ không bao giờ thực hiện cái điều đó mà cứ
nhấn mạnh cái việc củng cố sự lãnh đạo của Ðảng và tăng cường sự lãnh
đạo của Ðảng thôi. Ðảng không có khả năng tự đổi mới. Không có khả năng dân chủ hoá.
- Còn loại có ý kiến khác - trong đó có tôi thấy là tình hình đất nước ta như thế này: Vấn
đề dân chủ hoá đã thành một vấn đề bao trùm mà rất nhiều giới - cấp
lãnh đạo cũng như giới trí thức văn nghệ sĩ cùng nhân dân lao động - đều
thấy rằng đất nước kém dân chủ, thiếu dân chủ, không dân chủ và cái sự
thúc đẩy đất nước phát triển lên thì phải thực hiện dân chủ hoá.
Ðó là một bài toán rất rõ ràng sòng phẳng trước mắt ròi. Ðảng Cộng
sản đã có một truyền thống vì nhân dân khi trước mới thành lập Ðảng còn
nhỏ bé - vì quyền lợi của nhân dân, của dân tộc, của đất nước - mà chịu
tù đầy, khủng bố gian khổ để xây dựng lực lượng chiến đấu giành lại độc
lập cho đất nước. Về sau khi nắm được chính quyền thì nhiều khi Ðảng
cũng vì quyền lợi của đất nước, của dân tộc và đã thực hiện những chính
sách mềm dẻo, rất khiêm tốn như những việc Bác Hồ đã làm mà tôi đã nói
trong bài "Tâm đắc Hồ Chí Minh".
Tôi thấy Ðảng Cộng sản có một truyền thống anh hùng vĩ đại như vậy
thì Ðảng Cộng sản phải có khả năng và phải có ý nguyện vì nhân dân vì
đất nước mà thực hiện tự đổi mới. Rõ ràng bây giờ bản thân Ðảng cũng cảm
thấy lúng túng lắm rồi, lúng túng với chủ trương chính sách, lúng túng
ngay cả với tổ chức Ðảng, đối với công tác tư tưởng tổ chức của Ðảng.
Công tác tổ chức tư tưởng của Ðảng bây giờ có phải là công tác tư tưởng
của Ðảng nữa đâu mà là công tác tư tưởng của toàn xã hội, mà nó đã đi
đến bước đường phi lý và nguỵ biện lếu láo hết sức mà Ðảng cũng chưa
chấn chỉnh được. Rồi thì cách sinh hoạt của Ðảng đã bao nhiều lần nêu
khẩu hiệu "nâng cao chất lượng sinh hoạt" có bao giờ thực hiện được đâu. Rồi sinh hoạt chi bộ đã bao nhiêu lần cải tiến bao nhiêu cuộc vận động vẫn không có tác dụng.
Ðó chính là đặt Ðảng đứng trước cái nhu cầu cấp bách nhất là phải tự
đổi mới Ðảng với truyền thống vì đất nước vì nhân dân vì dân tộc đã từng
hy sinh tất cả thân thể, quyền lợi của mình, nay Ðảng vì nhân dân mà
phát huy cái truyền thống ấy ắt phải có khả năng tự đổi mới, tôi nghĩ
như vậy, tôi mong như vậy và hy vọng như vậy. Tôi tin chắc tất cả các
đảng viên lão thanh của Ðảng - gần chục vạn người - đều có suy nghĩ như
vậy, cũng như những đảng viên trẻ có học thức am hiểu lịch sử dân tộc,
hiểu lịch sử Ðảng một cách trung thực đều muốn Ðảng tự đổi mới. Chỉ có
những người quá đi sâu vào con đường tham nhũng, bảo vệ quyền lợi cá
nhân một cách điên cuồng thì mới khước từ sự đổi mới của Ðảng và có
những người mới vào Ðảng không biết đầu đuôi ra sao, không rõ lịch sử
anh dũng của Ðảng trước đây như thế nào thì bây giờ có thể lạnh nhạt với
sự tự đổi mới của Ðảng. Nhân dân và những đảng viên chân chính cần vạch
mạch chỉ tên những kẻ sống theo khẩu hiệu "Sống chết mặc bay, tiền thầy (tiền của Nhà nước là tài sản của dân) bỏ túi".
Cho nên vấn đề này là một vấn đề có tranh cãi, có người bảo có thể
được, có người bảo là không thể được. Tôi - khi nói là có thể được - thì
chính lòng tự tin của tôi cũng không cao lắm, nhưng tôi cũng vẫn cứ
mong, vì tôi cho đó là con đường duy nhất của Ðảng hiện nay để duy trì
vị trí, vai trò và truyền thống của mình, cho nên vấn đề dân chủ hoá và
tự đổi mới được hay không cần phải trao đổi thêm một cách rộng rãi dân
chủ.
Tôi tha thiết kêu gọi Ðảng chủ động tiến hành tự đổi mới một cách
thực sự và công khai thì sẽ rất tốt đẹp và Ðảng vẫn giữ được vai trò, vị
trí tiên phong của mình. Ðảng vững mạnh và vẻ vang hơn, cũng như truyền
thống lãnh đạo của Ðảng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam ngày càng
rạng rỡ.
***
Con đường Đảng tự đổi mới để Dân chủ hoá đất nước là con đường như thế nào ? Nó bao gồm những việc gì cần phải làm ? Nó có khó không ? Có thể làm được không ?
Tôi thì tôi quả quyết rằng nó gồm một quá trình cũng vất vả gian khổ, cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng nó bao gồm những việc làm đơn giản mà Ðảng bây giờ hoàn toàn có khả năng thực hiện được, có đầy đủ khả năng và điều kiện để thực hiện và thực hiện từng việc một cách trật tự. Có hàng nghìn việc cần phải làm, nhưng ta cần chọn ra một số việc, rồi ta thực hiện những việc ấy từng bước chứ không ai lại có ý muốn tháng trước tháng sau đã có dân chủ hoá ngay được. Cái đó không có đâu, mà phải kéo dài hàng năm hàng nhiều năm. Thể chế của chúng ta có vướng mắc lớn là như thế. "Ðộc Ðảng và toàn trị" - cho nên nó không dân chủ. Nhưng điều nói trong hiến pháp và những điều nói hay trong những vấn đề dân chủ vừa qua đều "nói một đằng làm một nẻo". Nói thì có rất nhiều điều hay như "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" rồi thì "Chính quyền do dân, vì dân, của dân". Ðó là những lời nói dân chủ rất tốt đẹp; chúng ta cũng đã có một số ít giá trị dân chủ được duy trì; chúng ta còn chế độ cộng hoà, có Quốc hội "được toàn dân bầu", tuy luật bầu cử không dân chủ. Nhưng rõ ràng chúng ta có một thể chế một quốc hội do dân bầu. Chúng ta khi làm một cái gì sai trái thì dân đều nói là "Dân chủ mà thế à ?" thì cán bộ cũng phải co tay và cũng thấy mình làm như thế là không dân chủ, trái với chế độ - ấy là nói tới những cán bộ còn lương tâm. Chúng ta thường nói chế độ ta tốt đẹp, bản chất tốt đẹp nhưng thực chất bây giờ không tốt đẹp tí nào cho nên cần phải làm cho nó tốt đẹp trở lại. Ðó là những việc cần phải làm cho dân chủ hoá đất nước để thúc đẩy đất nước phát triển tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước hiện nay, đáp ứng được nguyện vọng của tất cả mọi tầng lớp nhân dân hiện nay.
***
Con đường Đảng tự đổi mới để Dân chủ hoá đất nước là con đường như thế nào ? Nó bao gồm những việc gì cần phải làm ? Nó có khó không ? Có thể làm được không ?
Tôi thì tôi quả quyết rằng nó gồm một quá trình cũng vất vả gian khổ, cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng nó bao gồm những việc làm đơn giản mà Ðảng bây giờ hoàn toàn có khả năng thực hiện được, có đầy đủ khả năng và điều kiện để thực hiện và thực hiện từng việc một cách trật tự. Có hàng nghìn việc cần phải làm, nhưng ta cần chọn ra một số việc, rồi ta thực hiện những việc ấy từng bước chứ không ai lại có ý muốn tháng trước tháng sau đã có dân chủ hoá ngay được. Cái đó không có đâu, mà phải kéo dài hàng năm hàng nhiều năm. Thể chế của chúng ta có vướng mắc lớn là như thế. "Ðộc Ðảng và toàn trị" - cho nên nó không dân chủ. Nhưng điều nói trong hiến pháp và những điều nói hay trong những vấn đề dân chủ vừa qua đều "nói một đằng làm một nẻo". Nói thì có rất nhiều điều hay như "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" rồi thì "Chính quyền do dân, vì dân, của dân". Ðó là những lời nói dân chủ rất tốt đẹp; chúng ta cũng đã có một số ít giá trị dân chủ được duy trì; chúng ta còn chế độ cộng hoà, có Quốc hội "được toàn dân bầu", tuy luật bầu cử không dân chủ. Nhưng rõ ràng chúng ta có một thể chế một quốc hội do dân bầu. Chúng ta khi làm một cái gì sai trái thì dân đều nói là "Dân chủ mà thế à ?" thì cán bộ cũng phải co tay và cũng thấy mình làm như thế là không dân chủ, trái với chế độ - ấy là nói tới những cán bộ còn lương tâm. Chúng ta thường nói chế độ ta tốt đẹp, bản chất tốt đẹp nhưng thực chất bây giờ không tốt đẹp tí nào cho nên cần phải làm cho nó tốt đẹp trở lại. Ðó là những việc cần phải làm cho dân chủ hoá đất nước để thúc đẩy đất nước phát triển tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước hiện nay, đáp ứng được nguyện vọng của tất cả mọi tầng lớp nhân dân hiện nay.
Ðó là việc gì ? Tôi thấy nó đã có tiền lệ rồi, không phải tìm ở đâu xa xôi lắm. Tôi xin nêu một số việc:
Sau Ðại hội, Tổng bí thư Nông Ðức Mạnh rất đúng khi phê phán những hiện tượng "nói không đi đôi với làm" và hộ hào nhiều cho việc làm đi đôi với nói, cho là ta nói nhiều rồi nay phải làm thôi.
Ðó là một việc rất hay.
Về Dân chủ, ta nói đã nhiều, khá nhiều rồi, ta đã có những khẩu hiệu
và nghị quyết khá hay rồi. Bây giờ không cần nói thêm nữa mà là Làm,
và đã đến lúc ta chọn những việc làm để thực hiện dân chủ hoá đất nước
cho thiết thực. Những việc cần làm ngay là những việc sửa chữa những
khuyết điểm đã có, đó là sự việc các luật không nhất quán và thường đi
trái với hiến pháp mà ai cũng đã thấy.
Ðúng là phải thực hiện ngay "Lời nói đi đôi với việc làm".
Trong khi tiến hành thực hiện, cũng xin nói trước, có thể có những
phát sinh - song ta có đủ khả năng và điều kiện vượt qua để đưa sự
nghiệp dân chủ hoá và đổi mới tiến lên một tầm cao mới.
1. Ðiểm qua nội dung một số điểm trong Hiến pháp
Ðiểm thứ nhất trong Hiến pháp cần phải thực hiện ngay đó là điều 69 về tự do ngôn luận và tự do báo chí.
Việc đơn giản là chúng ta phải sửa chữa luật báo chí. Phải có một
chương trình nghị sự sửa chữa luật báo chí. Công nhận quyền độc lập và
quyền tự do của tất cả những người có ý kiến phát biểu, các nhà báo được
tự do hoạt động không phải xin phép, không phải bị quản lý một cách
chặt chẽ, không phải dưới quyền dưới bóng của Ban Tư tưởng Văn hoá của
Ðảng, họ chịu tuân thủ theo tôn chỉ mục đích của tờ báo hoặc tạp chí mà
họ cộng tác, và rộng hơn nữa là họ chịu sự phê phán của nhân dân thông
qua những đạo luật mà Quốc hội đã thông qua - kể cả những luật pháp quốc
tế mà đất nước ta đồng cam kết thông qua. Mỗi tờ báo ra nó có một vị
trí độc lập của nó, nó có một vai trò của nó, phát biểu ý kiến độc lập
theo tôn chỉ và mục đích của nó đã được Nhà nước cho phép theo Hiến pháp
quy định về tự do báo chí. Như thế thì nó sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Các
nứoc người ta cũng ra báo như thế rất nhiều, mỗi nước có tới hàng chục
nghìn tờ báo nhưng nó có lộn xộn bao giờ đâu (ý nói tình hình chính trị
xã hội). Mình bây giờ có khoảng 600 tờ báo mà chỉ nói theo một giọng
điệu. Nếu ta thực hiện điều này ở Hiến pháp bằng cách các luật báo chí
sửa đổi thì sẽ có sự xuất hiện dăm ba tờ báo tư nhân, thậm chí sau này
có thể có hàng trăm, hàng nghìn tờ đi nữa cũng không thể nào làm lộn xộn
đất nước được vì những tờ báo lớn, và những công cụ hiện đại trong lĩnh
vực truyền thống đại chúng vẫn nằm trong tay lãnh đạo của Nhà nước.
Không ai làm lộn xộn được cái mặt trận này mà chỉ có phấn khởi, hồ hởi
hơn vì nhiều người có nơi có chốn để mà nói lên ý kiến của mình. Hiện
nay trong thực tế có rất nhiều cựu chiến binh, rất nhiều bậc lão thành,
trí thức đã tự động thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình, viết bài
và gửi đi các báo của Nhà nước để được đăng, nhưng không bao giờ được
đăng thì người ta gửi cho bạn bè đọc để giao lưu tư tưởng tình cảm.
Bây giờ cái số độc giả bạn bè tìm đọc các bài tin này càng ngày càng
nhiều, vô hình chung nó cũng đã thành một loại hình báo. Không có báo -
không có ban trị sự - nhưng đã hình thành một diễn đàn, một nơi thông
tin ngôn luận cho tất cả những ai có ý kiến về đất nước muốn phát biểu -
điều này được nhân dân tự nguyện hưởng ứng, về mặt tâm lý người dân số
đông lại thích đọc. Ðấy là việc thứ nhất cần làm, rất dễ làm không có
khó khăn gì cả, không có lộn xộn gì cả, chỉ có phấn khởi, tốt đẹp hơn.
2. Cái việc xuất bản đi liền với việc báo chí
Xuất bản cũng phải thực hiện cái quyền tự do xuất bản, không
có lý do gì một người có một cuốn sách cần in ấn xuất bản nhất thiết
phải nhờ vào một nhà xuất bản: bỏ tiền túi ra để in sách nhưng phải có
một nhà xuát bản - tất nhiên là quốc doanh rồi - chịu trách nhiệm "bảo
kê" cấp giấy phép thì mới "hợp lệ" được in ấn xuất bản, như thế việc
xuất bản bị hạn chế một cách vô lý lắm. Mà cũng ở kẽ hở này tạo cho
những ấn phẩm xấu ra đời và bọn gian nhũng lộng hành. Chính vì cái hạn
chế này mà văn học lâu này nghèo nàn, nhạt nhẽo. Xem như ở Trung Quốc
người ta cũng nắm độc quyền về tư tưởng nhưng người ta mở tự do hơn, các
nhà xuất bản tự do xuất bản, nhà văn tự do hơn, do đó xuất hiện nhiều
tác phẩm văn học có giá trị, Việt Nam mình thì tôi phải nói rằng văn
nghệ đang nhạt nhẽo và nghèo nàn. Ðây cũng là một việc cần làm ngay và
làm được dễ dàng trong tầm tay của Ðảng.
3. Thực hiện sửa đổi các luật về bầu cử và ứng cử để đảm bảo có được nhiều người tự do ứng cử
Mỗi người ứng cử tự do đều có tư cách độc lập của mình, không phải
phụ thuộc vào bất cứ một cụôc hiệp thương và sự chỉ đạo nào cả; nó sẽ có
tình hình là: Một vị trí đại biểu nhưng có rất nhiều ứng cử viên xin
ứng cử. Các nước ngoài cũng thường có tình trạng này và người ta cũng đã
thực hiện một cách đơn giản. Bao nhiêu người ứng cử thì cứ ứng cử, còn
khi bầu cử thì cử tri cứ bầu một người nào vào vị trí mà cử tri tín
nhiệm. Có thể một nghìn người ứng cử chỉ để bầu lấy 1 hoặc 2 người thôi.
Chúng ta sẽ lấy thể thức đa số tương đối - cứ ai nhiều số phiếu thì
trúng cử, không nhất thiết phải quá bán. Không cần phải mơ ước rằng
người ứng cứ phải được 90%, 80% số phiếu bầu. Thậm chí hàng nghìn người
ứng cử, hàng trăm người ứng cử vào một vị trí thì có người chỉ được
2,30% số phiếu thôi song so với người khác cùng ứng cử vị trí đó số
phiếu vẫn là cao hơn. Người đó đã trúng cử rồi. Còn lại những ai có số
phiếu kém hơn là thất cử. Như thế mới có nhiều người ứng cử có chất
lượng để làm việc ở Quốc hội, sẽ tham gia vào diễn đàn quan trọng đó để
gốp ý kiến với đất nước và từ đó sẽ xuất hiện những nhân tài một cách dễ
dàng, dân chủ mà không cần phải tìm tòi bằng những cách không dân chủ,
"quen thuộc" trong lúc hiệp thương ma quỷ.
Hiện nay công tác cán bộ của ta, khi đi tìm nhân tài thường cứ Ban Tổ
chức Trung ương với các ban tổ chức bộ nọ cơ quan kia đi tìm như cách
vẫn làm thì cứ đi tìm cả đời cũng không tìm được nhân tài đúng thực là
"hiền tài của đất nước". Hơn nữa, cứ mỗi khi thấy nhân tài xuất hiện thì
cứ sợ nhân tài đó giỏi hơn mình mà không cho họ làm gì cả mà cứ tìm
cách cản trở rồi thì đến kỳ bầu cử cứ đến lúc hiệp thương ở Mặt trận tổ
quốc là gạt hết và chỉ để một cái danh sách độ dăm ba ứng cử do lãnh đạo
đề cử với vài ba người tự do ứng cử đã được "bồi dưỡng trước". Như thế thì số phiếu vẫn tập trung có vẻ tốt đẹp thật nhưng thực ra là không. Dân chủ hoá là phải dân chủ hoá từ trong Ðảng, dân chủ hoá ra toàn xã hội.
Tôi đề nghị kỳ Ðại hội X sắp tới Ðảng thực hiện ngay cái tự do bầu ở
trong Ðảng để bầu ra TW uỷ viên, không nên có ban nhân sự sắp xếp ròi
thì cơ cấu, rồi thu xếp, rồi thì thuyết phục lôi thôi mà cử để cho các
đảng viên tự động ứng cử vào TW uỷ viên, rồi cứ để Ðại hội tự bầu không
có chỉ định hướng dẫn, không có hiệp thương như thế nó sẽ hình thành một
cái uỷ ban TW không theo một dự kiến nào cả. Lúc ấy những đồng chí
trúng cử UBTW sẽ làm việc một cách thực sự để cho cái Uỷ ban đó phát huy
tác dụng của mình. Còn kỳ bầu cử Quốc hội này không làm kịp rồi nên vẫn
hiệp thương lủng củng. Nhưng mà kỳ bầu cử Quốc hội sau và các kỳ bầu cử
Hội đông nhân dân các tỉnh cần phải thực hiện tự do bầu cử và tự do ứng
cử, không có sự hướng dẫn, không có sự đi rỉ tai bầu cho người này
người nọ, bỏ ông này bỏ bà kia mà là tự do bầu cử và tự do ứng cử cần có
nhiều danh sách ứng cử để dân tự do lựa chọn.
Trong 10 người dân chọn 1 người có lẽ tốt hơn là danh sách có 2 người
dân chọn 1 người. Trong 10 người dân chọn từ 1 đến 3 người tốt hơn là
chỉ có 3 người chọn lấy 2 người. Việc tiếp theo là việc tự do bầu cử và
ứng cử. Cái việc này Ðảng phải tuyên bố cái chính sách của mình trước
cho dân biết để dân hưởng ứng và làm dần dần chứ không phải làm một lúc
được. Nghĩa là phải tuyên bố cái chính sách đó - nghĩa là phải sửa đổi
luật bầu cử. Việc sửa chữa luật bầu cử này cũng ở trong tay Ðảng. Ðảng
muốn làm lúc nào là được lúc ấy. Ðảng muốn luật bầu cử như trước thì nó
như trước và không dân chủ. Nếu Ðảng bây giờ muốn dân chủ hoá thì sửa
đổi luật bầu cử cho nó dân chủ. Như thế là Ðảng thực hiện thì toàn xã
hội sẽ thực hiện, luật bầu cử quan trọng nhất là việc hiệp thương bởi vì
ai cũng biết hiệp thương là một động tác của Ban tổ chức của Ðảng dùng
Mặt trận tổ quốc làm nơi gảt bỏ những người khác để cuối cùng chỉ còn
lại danh sách mà Ðảng giới thiệu, rồi sau đó có nói cho một vài người
ứng cử tự do nữa thì cũng là 3 chọn 2 hoặc 4 chọn 3 chứ không có người
thực sự tự do ứng cử.
Tiếp theo cần phải có những chương trình lớn nữa:
- Chương trình thứ nhất là chương trình cải tổ lại Ðảng Cộng sản.
- Chương trình thứ hai là cải tổ lại cái cơ chế mà Ðảng đã dựng lên.
- Chương trình thứ hai là cải tổ lại cái cơ chế mà Ðảng đã dựng lên.
Mỗi một việc đều phải có chương trình, phải có dự án, có nhiều việc làm dần.
A. Trước hết nói về cải tổ Ðảng, Ðảng lúc
đầu thành lập từ một tổ chức có ít người, mỗi đảng viên là một đồng chí
gương mẫu rất lớn có uy tín trong xã hội, cho nên Cách mạng tháng 8 có
mấy nghìn đảng viên mà huy động được toàn dân. Lúc đó tổ chức Ðảng đơn
giản và có hiệu lực cao, mỗi chi bộ cần dăm ba người thôi nhưng có thể
lãnh đạo một địa phương rất là rộng lớn có nhiều dân. Còn các cơ quan
thì lúc đầu chưa có cơ quan gì cả cho nên cái thứ chi bộ cơ quan ấy là
một thứ rất phụ thuộc không có ý nghĩa gì quan trọng so với chi bộ địa
phương.
Nhưng đến nay thì Ðảng phát triển ghê gớm rồi, gần 3 triệu đảng viên và bộ máy Nhà nước thì đã lớn mạnh quá lắm cho nên tổ chức Ðảng trong bộ máy Nhà nước trở thành những tổ chức rất quan trọng nhưng mà hình như chưa có dịp nào phân tích vai trò vị trí của tổ chức Ðảng trong bộ máy Nhà nước mà xác định cho cái tổ chức ấy một cách hợp lý. Bây giờ cái bộ máy Nhà nước đa số là đảng viên, mà đảng viên nhiều như thế nên lắm các thứ tổ chức lãnh đạo.
Trước hết là các tổ chức theo hệ thống với các địa phương và trung
ương, lại có các tổ chức Ban cán sự, các tổ chức Ðảng, Ðoàn, các tổ chức
ấy có phải là lãnh đạo các công việc ở cơ quan không? Còn có vai trò
của các thủ trưởng các Bộ, chịu trách nhiệm trước trung ương. Ðã là
trung ương uỷ viên thì cần phải lãnh đạo công việc của mình và chịu
trách nhiệm trước TW, thế nhưng lại có ông Ban cán sự, thì Ban cán sự
lại quan trọng hơn ông Bộ trưởng hay ông Bộ trưởng quan trọng hơn ông
cán sự? Vấn đề này phải làm cho rõ ràng.
Bên cạnh cái đó lại còn các Ðảng uỷ khối, rồi lại Ðảng cơ sở, rồi
Ðảng uỷ trên cơ sở, cứ mỗi một việc về nhân sự hay về chủ trương thì lại
phải tham khảo ý kiến nhiều tổ chức Ðảng; nào là tham khảo ý kiến Ðảng
uỷ khối, tham khảo ý kiến Ðảng cơ quan, tham khảo ý kiến chi bộ rồi lại
tham khảo ý kiến Ðảng - Ðoàn mà như vậy thì nó rất lằng nhằng, không rõ
trách nhiệm chính là ai.
Bây giờ cần phải cải tiến xác định rằng Bộ trưởng là TW uỷ viên thì Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước TW về công việc chuyên môn của mình ở Bộ mình quản lý mà không cần phải có các tổ chức khác để tham khảo ý kiến. Còn nếu cứ giữ y nguyên khẩu hiệu "Nguyên tắc tập thể lãnh đạo" thì rõ là cái tổ chức này lằng nhằng và công việc chậm chạp vì nó cứ chờ đợi nhau rất nhiều và đùn đẩy trách nhiệm - nhiều khi sự chờ đợi nó kéo dài vô tận vì những ý kiến không điều hoà được với nhau cho nên các tổ chức Ðảng ở trong các cơ quan Nhà nước cần phải có sự nghiên cứu thu xếp lại. Ðây là một sự cải tổ lớn.
Một sự cải tổ nữa là cần nghiên cứu về vấn đề tổ chức chi bộ. Tôi
biết rằng rất nhiều công cuộc vận động để nâng cao chất lượng sinh hoạt
của chi bộ. Thực tiễn xảy ra là vận động thế nào thì vận động, sinh hoạt
chi bộ vẫn nhạt nhẽo không có chất lượng, không có nội dung sinh hoạt
gì có ý nghĩa cả. Tôi cũng đã từng sinh hoạt chi bộ ở cơ quan nhiều lần.
Tôi thấy đến họp cũng được mà không đến cũng được, chẳng có gì hại cả,
đến khi nghe bí thư chi bộ phổ biến một vài cái thông báo, thông tri của
cấp trên rồi thôi hết, chẳng có gì để thảo luận bàn bạc cả. Bởi vì công
việc chuyên môn đã có thủ trưởng làm, cho nên hội nghị chi bộ rất là
nhạt nhẽo và giản đơn, nên bảo là nâng cao chất lượng thì không thể nâng
cao được vì không thể thảo luận công việc chuyên môn của thủ trưởng. ở
các cơ quan của Nhà nước thì phải thực hiện triệt để vai trò cá nhân phụ
trách vì thủ trưởng cơ quan đều được Ðảng tín nhiệm và bố trí, tất cả
đều chịu trách nhiệm trước Ðảng cả, công việc của cơ quan thì không cần
có một tổ chức Ðảng nào tham gia. Tổ chức Ðảng sinh hoạt chỉ là sinh
hoạt về lý luận, chủ trương đường lối tham gia ý kiến với TW còn công
việc cơ quan thì không nên bàn, công việc cơ quan đã có thủ trưởng cơ
quan chịu trách nhiệm trước Ðảng. Cho nên phải xác định quy chế nội dung
sinh hoạt của chi bộ cho thật rõ ràng chứ không ngồi kiểm điểm dăm ba
câu là khuyết điểm thế này ưu điểm thế kia rồi thì hết không còn gì cả,
xem thế sinh hoạt chi bộ rất vô duyên.
Tóm lại cần xác định rõ là ở cơ quan nào thủ trưởng cơ quan ấy tự
chịu trách nhiệm trước toàn thể nhân viên về công việc ở cơ quan mình
phụ trách và cũng chịu trách nhiệm trước Ðảng vì thủ trưởng cơ quan
thường là đảng viên. Sau này có bộ trưởng nào không phải là đảng viên -
hy vọng sẽ có bộ trưởng không phải là đảng viên cộng sản thì cũng sẽ
chịu trách nhiệm trước Ðảng và trước TW chứ không phải chịu trách nhiệm
trước tổ chức Ðảng ở cơ quan sở tại vì tổ chức Ðảng ở cơ quan ấy không
đủ tư cách và không đủ điều kiện để mà thực hiện cái việc bàn bạc về vấn
đề chuyên môn như thế nó mới minh bạch rõ ràng và sinh hoạt chi bộ mới
thực sự là sinh hoạt của một tổ chức chính trị, thảo luận những vấn đề
chủ trương chính sách của TW và góp ý kiến với TW.
Còn những việc kiểm điểm ưu khuyết điểm này khác thì mỗi năm làm một
lần là đủ rồi, không cần kỳ họp nào cũng có kiểm điểm, nhắc đi nhắc lại
càng ngày càng vô duyên. Năm sau không biết kiểm điểm năm trước cái gì,
nhiều khi có nhiều người đưa bản kiểm điểm năm trước nộp cho năm sau thì
cũng xong thôi. Cho nên sinh hoạt chi bộ và tổ chức chi bộ ở cơ quan
cần phải cải tổ lớn. Cái đó cần phải có chương trình và quan điểm rõ
ràng chứ không thể theo mãi cái tập quán từ khi sinh hoạt chi bộ vào
thời kỳ mới thành lập Ðảng, hồi bí mật và trong chiến tranh được. Bây
giờ hoà binh đã trên 20 năm rồi. Dùng tác phong lãnh đạo du kích mà lãnh
đạo Nhà nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thời kỳ tin học
bùng nổ là không được.
B. Chương trình cải tổ cái thể chế này đã
mắc vào một cái điều rất không dân chủ và rất bất hợp lý mà nhiều người
đã nói. Trí thức thế giới cũng đã nói, nhất là trong nước hiện nay. Ai
cũng nhận thấy - đó là cái thể chế độc Ðảng và toàn trị và như thế thì cái thể chế này không thể gọi là dân chủ được. Nên bây giờ cần phải thay đổi cái thể chế này
- mà thay đổi thể ché này không làm hại gì tới vai trò vị trí của Ðảng
Cộng sản cả. Tức là phải ghi vào trong Hiến pháp cái điều 69 ấy có tự do lập Hội, phải thêm là tự do lập Ðảng nữa.
Kỳ thực nói là tự do lập Hội nhưng cũng không có điều luật nào để cho các Hội được tự do thành lập cả. Trước ta có cả Ðảng Dân chủ và Ðảng Xã hội, tuy chỉ có danh vì hoạt động vẫn chỉ là làm theo ý kiến của Ðảng Cộng sản
- sau bị ép phải giải tán; gần đây có chủ trương về kinh tế tư nhân thì
ta có luật doanh nghiệp mà cái luật doanh nghiệp đó cũng gặp bao vướng
mắc mà hàng năm Thủ tướng Chính phủ cứ phải tiếp xúc với doanh nhân - họ
phàn nàn này nọ để thủ tướng phải giải quyết những yêu cầu do giới họ
đề ra mới dần dần được tiến bộ. Bây giờ vấn đề lập Hội, lập Ðảng cũng
phải như thế, thực ra trong thực tế Việt Nam không thể có cái Ðảng nào
khác xuất hiện bây giờ mà lại đủ cạnh tranh được với Ðảng Cộng sản vì
Ðảng Cộng sản vẫn có vai trò rất đặc biệt cho nên cái việc thêm những
Ðảng chỉ là thêm tiếng nói - đó là những tiếng nói độc lập.
Có nhiều Ðảng khác nhau thì mỗi Ðảng có cái độc lập của họ, có tiếng
nói của họ thảo luận với Ðảng Cộng sản chứ còn như bây giờ Ðảng Cộng sản
nói ra thì mặc nhiên bắt tất cả mọi người phải nghe hết, không ai được
không nghe - không nghe là không được, như thế thì không thể có dân chủ
được. Các Ðảng mà được quyền có tiếng nói độc lập thì họ sẽ thảo luận
với Ðảng Cộng sản mà tôi chắc là hiện giờ chưa có Ðảng nào nếu được phép
thành lập mà có đủ sức để tranh luận, thảo luận với Ðảng Cộng sản - ý
nói ở thế đối lập; còn nếu được phép thành lập tất yếu là chịu sự ảnh
hưởng lớn của Ðảng Cộng sản mà thường cũng sẽ phải tiếp thu đường lối
chính sách của Ðảng Cộng sản thôi.
Ðiều đó là điều không hại đến vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản,
nhưng xã hội sẽ có bộ mặt dân chủ và không phải chỉ là bộ mặt nữa mà nó
phản ánh thực chất xã hội dân chủ; Ðảng Cộng sản có tiếng nói lãnh đạo
nhưng không phải tiếng nói độc tôn, tiếng nói mà có người nhận xét phê
phán, tiếng nói ấy phải thận trọng hơn mà có khi tiếng nói ấy có một lúc
sai lầm thì do có sự phát hiện của nhân dân, của sự phát hiện của các
Ðảng anh em mà Ðảng Cộng sản điều chỉnh lại làm cho đường lối chính sách
của mình ngày càng tốt đẹp hơn.
Như thế tức có sự giám sát của nhân dân đối với Ðảng đúng với tinh thần "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"
đã được đề ra mới thực sự có ý nghĩa. Còn không thì hiện nay không ai
giám sát Ðảng cho nên những phần tử thoái hoá trong bộ phận lãnh đạo
Ðảng muốn làm gì thì làm, dân chẳng biết kêu ai. Thế chế đó cần được
thảo luận. Còn cứ sợ cái sự đa nguyên thì trước sau gì dân chủ cũng phải
đa nguyên rồi chứ còn một người mà nói là dân chủ, một Ðảng mà nói là
dân chủ thì không được - đã là dân chủ là phải đa nguyên. Ðấy là một cái
thể chế cần phải xác định thành một chủ trương chính sách của Ðảng, cái
này Ðảng Cộng sản Trung Quốc họ sẽ làm và hình như họ đã làm.
Còn một thể chế thứ hai nữa là thể chế nêu trong hiến pháp ở điều 4 - như thế rất không dân chủ - cho nên điều 4 phải bỏ hoặc là viết lại như thế nào để chứng tỏ vai trò của Ðảng Cộng sản là quan trọng nhưng không phải là độc tôn vì cũng không ai không thừa nhận vai trò quan trọng của Ðảng Cộng sản cả, còn để độc tôn đưa vào hiến pháp
thì thành ra một sự bắt buộc nhân dân tuân theo cái điều mà có lẽ nhiều
người dân không thích, mà chính có nhiều người dân không thích nên mới
có nhiều tiếng nói khác nhau.
Cái thể chế này nó liên quan tới các thể chế trên - tức là có Ðảng
Cộng sản và có nhiều Ðảng độc lập khác - Ðảng Cộng sản làm việc lãnh đạo
của mình hoàn toàn bằng sự lãnh đạo chính trị: có những ý kiến về đường
lối chính sách nêu lên thuyết phục nhân dân và các Ðảng anh em khác,
các tổ chức xã hội khác, các giới, hội, đoàn thể, trí thức văn nghệ sĩ -
mà người ta nghe hoặc người ta góp ý kiến thì nó cũng được cải thiện
thêm.
Chứ còn làm cái lối Ðảng đã ra nghị quyết và cai trị dân bằng nghị quyết thì cái thể chế đó cần phải bỏ.
Ðảng không thể nào thực hiện cai trị bằng nghị quyết và các cơ quan Nhà
nước chỉ thực hiện nghị quyết của Ðảng thôi thì cái đó là không đúng.
Các cơ quan Nhà nước phải có vai trò của cơ quan Nhà nước, còn Ðảng thì
đưa ra những ý kiến về đường lối chính sách, mọi người có quyền tham
gia, có quyền thảo luận bổ sung và kiến nghị - như thế thì ý kiến của
Ðảng ngày càng được cải thiện hoàn chỉnh, làm cho ý kiến càng ngày càng
tốt hơn và nhân dân tiếp thu ý kiến đó, các cơ quan Nhà nước cũng tiếp
thu ý kiến đúng tốt đó và thực thi quyền cai trị của mình - chứ Ðảng
không cai trị mà Ðảng giữ vững vai trò tổ chức lãnh đạo chính trị. Ðó là
một sự thay đổi thể chế rất lớn. Có thể nó ngược lại với những tập quan
thói quen của ta đã hình thành mấy chục năm nay nên có khó khăn nhưng
phải làm vì chỉ có làm việc ấy mới thực sự có dân chủ, nếu không làm
việc ấy thì không thể nào có dân chủ hoá được. Nếu có nói dân chủ hoá
thì chỉ là sự hô hào khẩu hiệu thôi.
Ðây là thể chế quan trọng nhưng việc này là việc lớn cần phải có dự
án, phải có kế hoạch. Chương trình thực hiện làm nhiều năm phải phân
tích mỗi một chương trình, chính sách dự án cho kỹ sao cho phản ánh đúng
yêu cầu thực tiễn đổi mới đề ra rồi thực hiện từng bước có kiểm tra rút
kinh nghiệm. Ðây là một chương trình rất lớn.
C. Một vấn đề nữa là cải tổ nội dung và phương thức lãnh đạo bởi vì Ðảng cho đến bây giờ vẫn lãnh đạo theo phương thức thời kỳ lãnh đạo chiến tranh, vẫn chưa thoát ra khỏi cái "toàn diện và triệt để" - bây giờ không thích hợp.
Tôi nhấn mạnh là chỉ lãnh đạo chính trị thôi,và trên cơ sở phân tích
thực tiễn xã hội thật kỹ mà từ đó rút ra điều cần làm để xây dựng phương
hướng cho đường lối chính sách. Phân tích tình hình thực tiễn xã hội
thật kỹ là việc rất quan trọng.
Thời kỳ lãnh đạo trước như thời kỳ lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ
có công trình đó là phân tích giai cấp trong xã hội Việt Nam, nó làm cơ
sở cho việc xác định đường lối đoàn kết dân tộc để mà nêu khẩu hiệu đấu
tranh đúng giành độc lập.
Ngày nay ta bước sang thời kỳ xây dựng đất nước thì không có và không
ai chú ý đúng mức tới một công trình phân tích thực trạng tình hình xã
hội Việt Nam ngày nay một cách tổng thể, toàn diện. Có chăng một vài
công ty này nọ của tư nhân hoặc của nhóm đầu tư một vài dự án của người
nước ngoài nào đó làm một vài chương trình điều tra xã hội học để có
những con số thống kê cụ thể đơn lẻ chưa chắc đã chính xác - phục vụ lợi
ích cho công ty họ, cho việc làm kinh tế của họ. Còn có chương trình có
tính tổng hợp toàn diện mọi mặt ở tầm vĩ mô thì chưa thấy có một chương
trình dự án có tầm cỡ thích ứng với thời kỳ hội nhập. Có chăng nó còn
đơn giản, chỉ là công nông trí thôi, không phải, mà bây giờ nó
nảy sinh ra rát nhiều nhóm xã hội, hàng trăm nhóm xã hội, mỗi nhóm có
một vị trí và có những nhu cầu, tâm lý nguyện vọng riêng. Phải xem xét
tình hình kinh tế phát triển nó đẻ ra các nhóm xã hội như nhóm nông dân
có thêm tầng lớp trang trại chủ, người làm công ăn lương theo trang
trại, nông dân trồng rừng v.v. nhóm doanh nghiệp tư nhân, thương nghiệp,
ngư nghiệp, dân đánh cá xa bờ và đi đánh bắt cá ở ngoài nước, nhóm tư
bản.
Bây giờ người ta nhìn vào xã hội, đều nhìn thấy những nhân vật quan
trọng nhất trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội là vai trò của các
doanh nhân và vai trò của người trí thức, bây giờ đã nói đến kinh tế tri
thức, nhưng quan niệm về tri thức còn rất thô sơ và rất lạc hậu. Việc
cần phân tích xã hội một cách cẩn trọng sâu sắc, nghiêm túc, thẳng thắn,
trung thực như nó đã có, đã xảy ra trong thực tế là điều rất khẩn thiết
cấp bách, không thể chần chừ được mặc dù đã có những cơ quan khoa học
của Nhà nước đã làm - như Viện Xã hội học cũng có nhiều công trình đáng
chú ý.
Không nên phân biệt ra cơ quan khoa học của Ðảng với cơ quan khoa học
của Nhà nước, nên thống nhất lại chỉ còn là Viện nghiên cứu của Nhà
nước vì kết quả nghiên cứu của các Viện đó đều báo cáo lên Chính phủ và
Ðảng, mà Ðảng đều sử dụng nó một cách có hiệu quả khi thừa nhận tính
chân lý khách quan của kết quả công trình, những kết quả nghiên cứu khoa
học đó của những nhà chuyên môn sẽ giúp cho những nhà lý luận cách mạng
của Ðảng có nhiều dự kiện đáng tin cậy để hoạch định những chủ trương
chính sách lãnh đạo của Ðảng. Còn cơ quan khoa học của Ðảng thì nghiên
cứu một cách, các cơ quan Nhà nước nghiên cứu một cách - đó là lẽ thường
có. Nhưng thường kết quả của cơ quan Ðảng"oai hơn", được trọng dụng hơn
- các kết quả của cơ quan nghiên cứu của Nhà nước, mà những con người ở
cơ quan Nhà nước thường là người có thực học chuyên ngành, có thực lực
hơn về đề tài nghiên cứu cùng loại. Cho nên cái gọi là vấn đề lý luận,
vấn đề tư tưởng lý luận không nên phân ra các cơ quan như thế.
Phải thay đổi toàn bộ cái hệ thống gọi là tư tưởng văn hoá.
Cái hệ thống đó cần trở lại vai trò hệ thống tuyên huấn của Ðảng, nghĩa
là tuyên truyền của Ðảng, phát triển Ðảng, giáo dục trong Ðảng, những
nghị quyết của mình. Còn cơ quan của xã hội thì để cho Nhà nước quản lý,
Nhà nước có Uỷ ban khoa học xã hội, có các trường đại học, có Bộ Văn
hoá Thông tin, hãy để cho các cơ quan này có quyền độc lập hành động làm
việc chứ không phải bị lệ thuộc vào hệ thống tư tưởng văn hoá của Ðảng.
Ðây là một thể chế lớn. Ðã đến lúc cần phải nghiên cứu một công trình
phân biệt công việc của Nhà nước và công việc của Ðảng cho rõ ràng là Nhà nước làm cái gì ? Ðảng làm cái gì ? cho thật cụ thể, được quy định thành pháp luật và được Quốc hội thông qua chứ không thể nói "Ðảng và Nhà nước"
chung chung được. Chứ còn hiện nay có nhiều cái vẫn còn nhập nhằng. Ví
dụ Ðảng đứng ra tặng huân chương thì vô lý lắm. Ðảng không phải làm việc
ấy, không nên làm cái việc ấy và không được làm cái việc ấy. Huân
chương là công việc của Nhà nước. Còn như đến đâu cũng cứ "Thay mặt Ðảng và Nhà nước"
thì vô lý lắm, vì thay mặt Ðảng là thay mặt Ðảng, thay mặt Nhà nước là
thay mặt Nhà nước để cho dân và cán bộ dưới quyền thấy rõ. Cho nên cần
phải tách ra, quy định rõ chức năng quyền hạn của các bộ máy chính quyền
và của cán bộ trong các cơ quan của Ðảng và Nhà nước có ghi thành một
luật trình Quốc hội thông qua để tăng cường hiệu lực dân chủ trong công
tác lãnh đạo và quản lý đối với nhân dân ở trong một nước có dân chủ
thực sự xã hội công dân.
Cần phải căn cứ vào kết quả nghiên cứu khoa học mà xác định nội dung
lãnh đạo một cách chính xác chứ không như vừa qua Ðảng ôm nhiều việc
quá. Trong lĩnh vực nào Ðảng cũng tỏ ra thành thạo nhưng thực ra Ðảng
không hề biết được kỹ và sâu sắc các lĩnh vực chuyên môn kỹ thuật, kinh
tế, nghệ thuật, khoa học cao, tri thức v.v. Cho nên cần tạo niềm tin -
Ðảng muốn dân tin Ðảng thì chính Ðảng trước hết cũng phải cần tin dân và
phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, tổ chức khoa học để họ phấn
khởi hoàn thành sứ mệnh của họ trước nhân dân và dân tộc cũng như với sự
lãnh đạo của Ðảng trước yêu cầu đổi mới của đất nước.
Ðảng lãnh đạo một phàn cũng căn cứ vào những hệ quả hoạt động của các
tổ chức xã hội đó mà hoàn thiện thêm những chủ trương chính sách của
Ðảng trong cái tổng thể chiến lược của Ðảng. Tôi biết phần việc về lãnh
đạo văn hoá văn nghệ. Lãnh đạo văn hoá văn nghệ ở đại hội VI có nghị
quyết 05 của Bộ Chính trị. Nghị quyết đó là Nghị quyết nói về chính sách
lãnh đạo văn hoá văn nghệ của Ðảng tương đối toàn diện và sâu sắc. Qua
thực tiễn thực ra Ðảng chỉ cần có một chính sách lãnh đạo đúng thôi chứ
Ðảng không cần phải giải quyết các vấn đề - ý nói cụ thể các biện pháp -
về văn hoá văn nghệ như là cần biết thế nào là phim ảnh, thế nào là vẽ
hội hoạ. Ðảng không cần làm những việc đó - tất nhiên cán bộ của Ðảng am
hiểu văn học nghệ thuật âm nhạc thì tốt thôi, song nhất thiết cán bộ
lãnh đạo không cần hiểu rõ tường tận về "hoà âm phối khí" trong âm nhạc
cũng như về sử dụng những mảng mầu khói trong hội hoạ mà lại hiểu lơ mơ
lờ mờ về mọi chủ trương chính sách của Ðảng trong đất nước hiện nay cần
phải có những chủ trương chính sách gì để thúc đẩy xã hội tiến lên theo
kịp thời đại hội nhập. Lễ hội tổ chức ra làm sao thì dần họ cũng biết sẽ
phải làm gì, làm như thế nào, Ðảng cũng không cần phải chỉ bảo cụ thể
vấn đề đó. Ðảng chỉ cần có một chính sách đúng đắn hợp với quy luật phát
triển đất nước và sự hoà nhập với thế giới đương đại là được. Còn như
cán bộ của Ðảng lại quá chú ý tới lễ hội dù là lễ hội gì mà quên mất
thực trạng tình hình bức xúc về dân chủ thì cũng rất sai lầm. Cái cần là
chính sách tự do sáng tác và tự do phê bình. Bây giờ có thêm Nghị quyết
05 của Trung ương nói về nền văn hoá tiên tiến và đậm đà bản sắc dân
tộc thì cũng là một phần của chính sách tôn trọng các di sản văn hoá và
phát huy các kết quả tích cực của di sản văn hoá - chính sách đó được ở
cái chỗ đó. Thế thôi, chứ không nên có một lãnh đạo gì khác nữa cả. Các
việc chuyên môn đã có các hội, các văn nghệ sĩ mà mỗi văn nghệ sĩ là một
đơn vị cá thể họ có rất nhiều khả năng và điều kiện để làm cái việc
chuyên môn mà họ ưa thích.
Tóm lại, tôi vẫn nhấn mạnh Ðảng chỉ nên lãnh đạo những chủ trương
chính sách còn công việc cụ thể để cho anh chị em có chuyên môn cùng hội
đoàn của họ giải quyết theo định hướng lãnh đạo phát triển đất nước ở
tầm vĩ mô củ Ðảng. Lãnh đạo như thế có lợi cho sự nghiệp đổi mới của đất
nước hơn. Công việc quản lý mọi công việc nên đề Nhà nước làm, Ðảng nên
tách ra Ðảng chỉ lãnh đạo chủ trương chính sách còn tất cả mọi công
việc quản lý để cơ quan Nhà nước làm. Như vậy Ðảng có công việc của
Ðảng, Nhà nước có công việc của Nhà nước, người dân có công việc của
người dân. Mọi người đều hết lòng hồ hởi với công việc xây dựng đất nước
trong giai đoạn dân chủ ở tầm cao mới. Trong xã hội có hiện tượng nhân
dân ai mở mồm ra là "Ơn Ðảng ơn Nhà nước" thì đúng là đáng cảm ơn Ðảng thật nhưng không phải lúc nào cũng nói thế. Cái gì cũng "Ðảng và Nhà nước".
Mọi người dân có yêu cầu đề nghị cũng không phải yêu cầu Ðảng làm việc
này việc khác được, phải biết mình yêu cầu đề nghị gì cho đúng chỗ đúng
lúc. Những công việc như đường sá, giống má việc đó là của cơ quan Nhà
nước. Hơn nữa thực chất đã có Ðảng lãnh đạo trong các bộ phận này rồi vì
đây là trách nhiệm của cán bộ đầu ngành phải chịu trách nhiệm trước
Trung ương Ðảng chứ không cần phải có sự chỉ đạo sát sao hàng ngày. Ðó
là nội dung và phương thức lãnh đạo cần phải cải tổ. Ta có phương châm
rất hay "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".
Nhân dân ta cũng cần phải hiểu cho rõ tránh sự chồng chéo nhập nhằng
giữa vai trò lãnh đạo của Ðảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Có rạch
ròi như vậy mà lại được Pháp luật và Quốc hội thông qua thì chắc chắn
người dân mới được hưởng quyền làm chủ thực sự đúng tinh thần dân chủ
hoá ngày càng được nâng cao. Bây giờ phải thể hiện cụ thể bằng luật lao
động. Công việc của Nhà nước, Nhà nước làm. Công việc của Ðảng, Ðảng
làm, tách bạch rạch ròi ra không chồng chéo, dẫm chân lên nhau nữa -
không phải lúc nào cũng "Ðảng và Nhà nước". Ông Chủ tịch nước
thay mặt là thay mặt Nhà nước chứ không phải cùng lúc thay mặt Ðảng là
không được nữa rồi - trừ phi thể chế có thay đổi. Chủ tịch nước và Tổng
bí thứ là một thì mới có thể một người thay mặt cho hai tổ chức được.
Ông Chủ tịch Quốc hội cũng thế, chỉ thay mặt Quốc hội thôi, chứ không
phải thay mặt Bộ Chính trị ở đây làm gì tuy ông cũng ở trong Bộ Chính
trị. Còn khi ông đứng trên cương vị TW, Bộ Chính trị thay mặt Bộ Chính
trị làm công việc của Ðảng để phát biểu - một vấn đề gì đó thuộc Bộ
Chính trị mà ông được uỷ quyền thì ông có thể phát biểu thay mặt Bộ
Chính trị được. Cho nên cái thể chế tách Ðảng ra khỏi bộ máy Nhà nước là
một thể chế lớn lắm và quan trọng lắm, cần phải làm dần và có nhiều dự
án, có nhiều chương trình lắm. Tôi nhấn mạnh làm dần và nhắc đi nhắc lại
là rất quan trọng.
Trở lên trên tôi đã trình bày những nét chính về dân chủ hoá đất nước
và vai trò của Ðảng Cộng sản. Lúc này quan trọng nhất là việc thực hiện
tiến trình dân chủ hoá. Tôi nói những nét chính là vì còn nhiều ý kiến
lắm mà những ý kiến đó chỉ nảy sinh qua trao đổi mới sáng rõ thêm, chứ
còn một người một lúc viết ra hoặc nói ra thì nó không bao giờ được đầy
đủ hoàn chỉnh. Tôi xin nhắc lại rằng: Bây giờ Ðảng Cộng sản phải làm vai
trò đứng ra tổ chức dân chủ hoá đất nước, và tôi cũng nói lại rằng Ðảng
làm cái việc này thì Ðảng sẽ nâng cao được uy tín của mình và thực sự
là Ðảng đã góp phần tích cực xây dựng đất nước nếu không cứ theo như cũ
cái kiểu độc Ðảng toàn trị như hiện nay thì đất nước sẽ càng ngày càng
khó khăn. Ðảng làm việc dân chủ hoá này thì một là vài trò của Ðảng quan
trọng hơn, được đề cao hơn, hai là phát huy được truyền thống oanh liệt
hào hùng của lịch sử Ðảng Cộng sản trong mấy chục năm qua, ba là Ðảng
để lại những dấu ấn công lao cho các thế hệ về sau. Còn nếu Ðảng cứ lúng
túng như bây giờ thì Ðảng không giữ được vai trò của mình Ðảng không
biết dân bây giờ nghĩ gì đâu. Ðảng cần phải biết trong 7, 8 chục triệu
dân thì có rất nhiều người không tán thành chủ nghĩa xã họi mà Ðảng nói
chủ nghĩa xã hội và xây dựng CNXH thì cứ nói xong Ðảng phải trình bày
cái chủ nghĩa xã hội ấy cho nó rõ ràng phù hợp với tình hình Việt Nam để
cho mọi người dân họ có thể tán thành được - chứ còn cái mô hình xã hội
chủ nghĩa nó đã bị tan rã ở thế giới vừa qua thì cái chủ nghĩa xã hội
ấy dân ta không thể chấp nhận được.
Ðảng lúc này hơn lúc nào hết cần nhận thức rõ vai trò của mình và
thực hiện vai trò đó một cách đúng đắn thì nó tốt đẹp hơn nhiều và lợi
ích cho đất nước nhiều - hồng phúc cho dân nước. Nếu không Ðảng làm
ngược lại thì vai trò lịch sử của mình sẽ bị mất.


0 nhận xét:
Đăng nhận xét