Nhìn từ gia đình và nhà trường
Người ta vẫn thường nói, gia đình là hạt nhân của xã hội. Cấu trúc
của gia đình có ảnh hưởng nhất định tới cấu trúc của xã hội. Ở Việt Nam,
khoảng cách quyền lực lớn thể hiện khá rõ ràng trong phạm vi một gia
đình.
Có sự phân cấp quyền lực rõ rệt trong một gia đình điển hình ở Việt
Nam, nơi mà trên đỉnh kim tự tháp là ông bố bà mẹ và dưới đáy kim tự
tháp là các con. Lời nói hay quyết định của bố mẹ luôn là quan trọng
nhất, và những đứa trẻ được học cách tuân lời cha mẹ kể từ khi còn nằm
nôi. Ngay cả khi chúng lớn lên, nhiều ông bố bà mẹ vẫn tiếp tục can
thiệp vào đời tư của con cái mình, từ việc chọn vợ gả chồng cho tới giáo
dục các cháu. Chứ Hiếu, tức nghe theo lời ông bà cha mẹ, cho đến nay
vẫn được coi là một nét đẹp của Nho Giáo cần duy trì.
Sự bao bọc quá đáng của cha mẹ đã tạo ra những đứa trẻ chỉ biết tuân
lời như những cái máy, không tự tin, thiếu khả năng tự lập và sáng tạo.
Vì thế, tính dân chủ và tự do ngay trong một gia đình ở Việt Nam là rất
thấp. Sự thiếu dân chủ trong gia đình dẫn tới nhiều ảnh hưởng tới hành
vi và thái độ của trẻ, ví dụ thiếu tính tự lập, không có khả năng sáng
tạo hoặc không tự tin.
Khoảng cách quyền lực cũng tỏ ra khá lớn ở trường, thể hiện qua vai
trò của thầy cô và chương trình giáo dục. Học sinh thường phải tuân theo
lời thầy cô giáo, và trẻ có ý kiến khác biệt thường được coi là hỗn hào
và không được chấp nhận. Chấp nhận sự khác biệt và biết cách bày tỏ
chính kiến độc lập của mình là một phần của văn hóa dân chủ, và điều
đáng tiếc là trẻ em Việt Nam không được học điều này ở trường. Đây là di
sản của nền văn hóa Khổng Giáo, khi người ta được đào tạo để phục vụ
Triều Đình: Nền giáo dục chỉ tạo ra những rô-bốt có vừa đủ kiến thức để
làm việc, nhưng không đủ hiểu biết về các quyền cơ bản của mình để thách
thức sự cai trị của Vua
Tới xã hội
Với một nền giáo dục trong gia đình và nhà trường như thế, không lạ
gì người Việt Nam khi ra xã hội lại cảm thấy có một khoảng cách quyền
lực xa vời giữa "quan chức" và "thường dân". Các đồng chí lãnh đạo cao
cấp dường như đứng ở ngoài tầm với của đại đa số quần chúng, đến mức
việc họ "vi hành" tới thăm dân sống ra sao cũng là một điều vinh dự lớn
lao cho cơ sở. Báo chí Việt Nam kể chuyện cố Thủ tướng Thụy Điển
Ôlốp-Panmơ đi xe đạp về nhà sau giờ làm việc như một câu chuyện cổ tích;
bởi lẽ ở Việt Nam người ta không thấy chính khách tầm cỡ đó đạp xe đạp
ngoài đường như thế.
Ở Việt Nam, "hệ thống chính trị" và "cuộc sống dân dã" dường như là
hai thế giới cách biệt nhau hoàn toàn. Ở ngoài quán nước, trong công sở,
có thể bắt gặp rất nhiều người ca thán về chính sách nọ, nghị định kia
của Nhà nước. Nhưng nếu bạn hỏi tại sao không thay đổi Nhà nước cho tới
khi có chính sách / nghị định ưng ý thì người ta sẽ nhìn bạn như một tên
khùng. Ngược lại, Nhà nước cũng chẳng quan tâm tới người dân nghĩ gì,
bởi đơn giản là rất ít người dân dám chất vấn thẳng Nhà nước, thách thức
quyền lực của Nhà nước khi Nhà nước ra quyết định sai. Để tiếp tục
"cuộc sống dân dã" dưới rừng chính sách và pháp luật vô lý, người dân
chọn cách "lách luật". Những tệ nạn như tham nhũng, hối lộ, hay thái độ
bất tuân pháp luật chính là xuất phát từ sự "vênh" giữa hai thế giới
này.
Nói tóm lại, muốn có dân chủ thực sự ở Việt Nam, thì trước hết phải
có sự chuyển hóa từ mỗi gia đình. Cần phải giảm bớt khoảng cách quyền
lực trong gia đình, trong trường học cho tới ngoài xã hội. Phải làm sao
cho khoảng cách giữa người dân và Nhà nước gần lại hơn, để các chính
sách và luật pháp thực sự phục vụ lợi ích đa số, và như thế, được tôn
trọng.
Tiến trình thay đổi này có thể đến từ từ qua quá trình phát triển kinh tế và hiện đại hóa, như lập luận ở đây: "Lợi
ích mà phát triển kinh tế đem lại cho dân chủ nằm ở hai khía cạnh: Thứ
nhất, nó tạo ra một tầng lớp trung lưu đông đảo, có giáo dục, có thói
quen suy nghĩ độc lập. Thứ nhì, nó biến đổi những giá trị và động lực
của xã hội, khiến người ta khao khát tự do và quyền tự quyết nhiều hơn,
thúc đẩy họ tham gia tích cực hơn vào chính trị, đặt câu hỏi và yêu cầu
những câu trả lời thích đáng từ bộ máy cầm quyền. Có thể nói, dân chủ ra
đời do những nhu cầu mới từ cuộc sống mới". Tuy nhiên, lịch sử phát triển của Nhật Bản
cho thấy, nếu có sự thúc đẩy của tầng lớp trí thức, thì tiến trình này
sẽ được rút ngắn đáng kể. Đó là điều mà trí thức Việt Nam có trách nhiệm
và hoàn toàn đủ sức để thực hiện...
Nguồn: Dân Luận
0 nhận xét:
Đăng nhận xét