(Phan Khôi 1887 - 1959) |
Hiện trong thế giới có hai thứ văn minh, là văn minh Tây phương
và văn minh Đông phương. Hai cái văn minh ấy khác nhau là do tại hai
đàng tư tưởng khác nhau. Tây phương gồm cả các nước châu Âu châu Mỹ mà
nước Pháp là một; Đông phương gồm cả các nước châu Á, mà nước ta là một.
Tư tưởng của Tây phương phát nguyên từ Hy Lạp, La Mã, Hê-bơ-rơ, song
bây giờ đã hỗn thành ra một nền tư tưởng Tây phương, nên ở đây gọi chung
là tư tưởng Tây phương. Tư tưởng Đông phương có hai tua lớn, một là Ấn
Độ, một là Tàu, mà ta thuộc về tua Tàu, nên ở đây chỉ lấy Tàu làm trọng.
Người ta thấy bên Tây về đường vật chất phát đạt tinh xảo hơn bên
Đông, rồi cho rằng văn minh Tây phương là vật chất văn minh, còn văn
minh Đông phương là tinh thần văn minh. Nói như vậy là lầm. Những cái
thuyết tự do bình đẳng, là phần hệ trọng nhất trong văn minh Tây phương,
chẳng phải tinh thần là gì? Bên nào cũng có tinh thần vật chất cả,
chẳng qua vật chất tùy theo tinh thần của mỗi bên mà hiện ra hai vẻ khác
nhau. Cái tinh thần ấy tức ở đây tôi gọi là tư tưởng.
Ba điều tôi sắp giải ra dưới nầy chỉ là từ trong hai cái văn minh ấy
mà rút ra mỗi bên ba cái yếu điểm; ngoài ra, mỗi cái văn minh hoặc giả
đều có chỗ hay chỗ dở thì tôi không kể đến. Tôi cũng không có ý so sánh
bên nào hơn, bên nào kém; cốt muốn tỏ ra cho biết hai bên trái ngược
nhau, không thể dung nhau mà thôi.
1. Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền học
Theo ý người phương Tây, mọi sự vật trong thế gian bất kỳ lớn hay
nhỏ, thấy được hay không thấy được, hễ mình muốn biết thì phải biết cho
đến nơi, cho đâu ra đó, chớ không được mập mờ, không được lộn xộn. Bởi
vậy họ phải làm ra cái cách để mà biết. Đối với một sự vật gì, họ cứ
nhặt lấy những cái kinh nghiệm mỗi khi một ít, những cái tri thức mỗi
nơi một chút, rồi quán thông lại, lập ra những cái nguyên tắc, công lệ,
và những cái thuyết có thống hệ, mà ai cũng không cãi được nữa, thì bấy
giờ sự biết mới đích xác và sự học về sự vật ấy mới thành. ấy gọi là
khoa học.
Đại ý huyền học không lấy khách quan mà xem xét
mọi sự vật, chỉ lấy chủ quan mà ứng tiếp nó. Kẻ học, sau khi đã học
nhiều rồi, đã hội được vạn lý vào nhứt tâm rồi, thì có thể đem cái tâm
ấy ra mà đối phó với mọi sự vật chớ không theo y như sự mình đã học; như
vậy sách Nho gọi là "thần nhi minh chi". ấy huyền học tương phản với
khoa học là tại đó.
Ở phương Tây bây giờ hầu như mỗi một sự vật gì là có một khoa học.
Không những thiên văn, địa văn, quang, điện, chánh trị, pháp luật có
khoa học mà thôi; cho đến nuôi gà, trồng rau cũng có khoa học nữa. Triết
học ngày xưa đứng ngoài khoa học, mà bây giờ người ta cũng dùng phương
pháp khoa học để nghiên cứu triết học. Họ chia khoa học ra làm ba loại:
là Tự nhiên khoa học, Xã hội khoa học và Tinh thần khoa học. Những tên
riêng từng khoa thì nhiều lắm, không hơi sức đâu mà kể.
Đây cử ra một khoa y học để cho biết cái vẻ khoa học của họ là thế
nào. Y học lại gồm có nhiều khoa học khác nữa, nào là: Sinh lý học dạy
về sự kết cấu và tác dụng của các cơ thể trong mình người ta; Giải phẫu
học dạy về từng cái xương từng mạch máu trong mình người ta; Bệnh lý học
dạy về các chứng bịnh; Dược vật học dạy về các vị thuốc; tất phải biết
ngần ấy khoa học mà thiệt hành ra được đã rồi mới làm nên thầy thuốc.
Đến khi chữa bịnh, thầy thuốc nói bịnh tại tim, ấy là trái tim thiệt bị
đau; nói bịnh tại phế, ấy là phổi thiệt bị đau. Đau tim đau phổi cách
làm sao thì uống thuốc gì, đều có phương nhứt định cả, phải theo khoa
học chớ không được theo ý riêng của thầy thuốc.
Tóm lại, người phương Tây biết được sự vật gì đều là do khoa học cả. Khoa học đã thành ra như cái tánh riêng của họ.
Sự học phương Đông thì thật là mênh mông và mầu nhiệm. Kẻ học cứ sách
mà đọc tràn đi rồi hiểu được chừng nào thì hiểu. Những sự vật mà ta
muốn biết, tán mạn ra trong sách mỗi nơi một ít, không có xâu suốt lại
thành từng món một, và cũng không có đặt ra phương pháp gì để noi đó mà
tìm tòi. Sách thì dạy trước bác mà sau ước. Kinh Thơ nói vô số là
chuyện, rồi ước lại một chữ Trung, Kinh Lễ nói vô số là chuyện rồi ước
lại một chữ Kính; bác thì cực kỳ là bác, mà ước thì cực kỳ là ước. Đến
Kinh Dịch mới là ảo diệu vô cùng: quẻ Kiền có nói đến "rồng bay" (long
phi), mà kỳ thiệt không phải là rồng bay; quẻ Khôn có nói đến "ngựa cái"
(tẩn mã), mà kỳ thiệt không phải là ngựa cái; chẳng qua nói bóng vậy
thôi, không khác nào "con rồng có bảy đầu mười sừng" và "con thú ở dưới
đất lên" đã nói trong sách Khải huyền của kinh Tân ước. Sách Xuân thu
cũng vậy, nói "Doãn thị chết" song không trọng tại Doãn thị chết mà
trọng tại cái ý chê thế khanh; nói "thiên vương đi săn", song không phải
đi săn mà là bị chư hầu bắt hiếp. Càng những chỗ sâu hiểm éo le như
vậy, thì lại càng tôn cho là vi ngôn đại nghĩa. Cứ theo sách thì những
âm dương, ngũ hành, cũng đều là những cái giả tượng mà thôi, chớ không
phải chỉ ngay về hiện trạng và thiệt tế mà ta ngó thấy đâu. Vì vậy cho
nên gọi là huyền học.
Người nào đã chịu phép "báp tem" của huyền học rồi thì ra làm việc gì
cũng đều được cả, bất cứ việc gì, vì "vận dụng do ư nhứt tâm". Một ông
quan có thể coi việc bộ Hộ rồi coi việc bộ Hình, luôn cả sáu bộ cũng
được, và có khi ra làm tướng đánh giặc cũng xong. Còn các nghề thợ thì
nhứt thiết không có học gì cả, hễ tập quen thì làm được, ăn thua nhau là
tại cái sáng dạ.
Nói đến nghề làm thuốc của ta mới càng tỏ ra cái vẻ huyền học, và để
cho nó phản chiếu lại nghề làm thuốc của Tây vừa nói trên kia. Bắt đầu
dạy về ngũ tạng: tâm, can, tì, phế, thận, thì dạy rằng nó hiệp với ngũ
hành, phối với ngũ vị, ứng với ngũ phương và tứ thời. Dạy về dược tánh
thì: một vị bạch truật mà chủ cả công cả bổ, đã kiện tì cường vị, lại
trị thấp, bĩ, hư đàm; càn cương sao hắc thì nhập thận; hỏi tại làm sao
thì bảo rằng vì "thận thuộc thủy, kỳ sắc hắc".
Những điều ấy nếu bắt cứ
theo phương pháp khoa học mà giải nghĩa thì không tài nào giải ra được.
Đến lúc trị bịnh, thầy thuốc nói là bịnh phong, nhưng phong đó không
phải là gió; nói là bịnh thấp, nhưng thấp đó không phải là ẩm ướt; thậm
chí nói bịnh tại phế, tại can, nhưng thiệt không phải là đau phổi hay
đau gan. Những chữ phong, thấp, phế, can đó chẳng qua là một thứ chữ
trừu tượng chớ không phải cụ thể . Còn đến cho thuốc thì cùng một bịnh
mà mỗi thầy đi một mặt: thầy thì hàn, thầy thì nhiệt, thầy thì bổ hỏa,
thầy thì lợi thủy, thầy thì ít vị, thầy thì nhiều vị, mỗi thầy đều kê
phương dụng dược theo ý mình. Ôi! huyền diệu là dường nào!
Đại ý huyền học không lấy khách quan mà xem xét mọi sự vật, chỉ lấy
chủ quan mà ứng tiếp nó. Kẻ học, sau khi đã học nhiều rồi, đã hội được
vạn lý vào nhứt tâm rồi, thì có thể đem cái tâm ấy ra mà đối phó với mọi
sự vật chớ không theo y như sự mình đã học; như vậy sách Nho gọi là
"thần nhi minh chi". ấy huyền học tương phản với khoa học là tại đó.
2. Tây phương trọng tự chủ, Đông phương trọng thống thuộc
Chữ tự chủ ở đây nghĩa là mỗi người làm chủ lấy mình, cũng tức là cá
nhân chủ nghĩa. ở phương Tây, nói rằng "một người", nghĩa là đối với thế
giới, đối với quốc gia mà nói, chớ không phải phiếm nhiên. Đã gọi là
người, thì người nào cũng vậy, ai ai cũng có cái địa vị cái tư cách đối
với thế giới đối với quốc gia, thật như ta thường nói "đội trời đạp đất ở
đời". Như vậy, người nào tự chủ lấy người ấy, không ai thuộc về ai cả.
Bởi đó mới có sự tự do. Một người đã tới tuổi thành nhân rồi thì
không còn ở dưới quyền cha mẹ nữa. Mà cũng không ở dưới quyền chánh phủ
hay là dưới quyền ông nguyên thủ, song chỉ ở dưới quyền pháp luật. Một
người được y theo trong vòng pháp luật mà tự do. Pháp luật cho mọi người
được tư tưởng tự do, ngôn luận tự do, cư trú tự do,... những quyền tự
do ấy, người khác - dầu là cha mẹ nữa - không được can thiệp đến. Pháp
luật đặt ra cốt là hạn chế sự tự do của từng người để binh vực sự tự do
cho từng người.
Xã hội Tây phương thì như bầy chim sẻ, con nào
cũng một lứa như con nào, và con nào cũng tự kiếm ăn cho con nấy, song
cũng hiệp nhau thành bầy. Xã hội Đông phương thì như bầy kiến, có con
lớn con nhỏ, con lớn giữ phần cai quản, con nhỏ lo việc đi kiếm ăn, song
cũng hiệp nhau thành bầy.
Bởi mỗi người đều có địa vị tư cách vững vàng, tự chủ lấy mà không
xâm phạm đến ai như vậy, cho nên khi hiệp với nhau thành đoàn thể thì
chỉnh tề và ổn kiện lắm. Quốc gia, tức là của chung của quốc dân; hội xã
tức là của chung của hội viên; đối với quốc gia xã hội ai có bổn phận
gì thì làm hết bổn phận ấy, có lợi ích thì mọi người cùng hưởng. Mới
nghe họ nói những là "quốc gia lợi ích, xã hội lợi ích" thì tưởng là
xung đột với chủ nghĩa cá nhân, mà xét kỹ ra thì những cái lợi ích ấy
cũng chỉ là lợi ích cho từng người vậy.
Các nước bên Tây đều dùng cái chánh thể lập hiến, cộng hòa được, là
nhờ họ sẵn có cái tư tưởng như đã nói trên đó. Cái tư tưởng ấy tức là
cái tinh thần dân chủ.
Nói đến Đông phương. Theo cái ý nghĩa chữ "một người" ở phương Tây,
thì ở phương Đông, trừ ông vua ra, hầu như không có "người" nào hết. Bởi
vì "xuất thổ chi tân, mạc phi vương thần", ai cũng là thần thiếp của
vua, ai cũng là dân của vua. Cứ như sách dạy, nhân thần không được tư
giao với ngoại quốc, ấy là không có tư cách đối với thế giới; thứ nhân
không được nghị luận việc chánh, ấy là không có tư cách đối với quốc
gia. Bởi vậy ai nấy phải nộp của cải cho vua, nộp cả đến thân mình nữa;
vua thương thì nhờ, bằng vua không thương mà giết đi cũng phải chịu. Như
vậy gọi là trọn cái bổn phận thờ bề trên; như vậy gọi là thiên kinh địa
nghĩa.
Không những thuộc về vua mà thôi, ai còn có cha mẹ đến chừng nào thì
phải kể cái thân mình là của cha mẹ đến chừng nấy. Lại không những cái
thân mà thôi, mình dầu có của cải, có vợ con, cũng phải kể là của cha
mẹ. Theo kinh Lễ dạy: Con yêu vợ mà cha mẹ ghét, thì con phải để vợ đi;
con ghét vợ mà cha mẹ yêu, thì con phải hòa thuận với vợ. Lại dạy: có dư
của thì nộp cho tông, thiếu thì lấy của tông. Tông là người tông chủ
trong gia đình, tức là cha mẹ. Còn chưa kể đến những lời tục thường nói
"Cha mẹ đặt đâu ngồi đó, bảo chết hay chết, bảo sống hay sống" thì lại
còn nghiêm khắc quá nữa.
Trọng nhứt là vua và cha mẹ, rồi thứ đến quan, làng, họ, cũng đều có
quyền trên một người. Quan, nào có phải một ông, có đến năm bảy lớp, cứ
dùi đánh đục, đục đánh săng, rút lại trăm sự chi cũng đổ trên đầu người
dân cả. Người trong làng thì kể như con của làng, cho nên nói rằng "con
làng nhờ làng". Người trong họ đối với họ cũng vậy.
Ấy vậy, lấy ra một người ròng rặt Đông phương mà nói, thì người ấy
không tự mình làm chủ lấy mình được; song là thuộc về vua, về cha mẹ, về
quan, về làng, về họ, nếu là đàn bà thì còn thuộc về chồng nữa.
Bởi cớ ấy, trong xã hội ta như một cái thang có nhiều nấc. Nghĩa vụ
và quyền lợi của mọi người không đồng nhau: người trên đối với người
dưới không có nghĩa vụ; còn ai có nhiều quyền hơn thì được hưởng nhiều
lợi hơn. Pháp luật đối với mọi người thì tùy từng bậc mà khác: cùng phạm
một tội mà dân bị phạt trọng, quan được phạt khinh; cùng phạm một tội
mà kẻ thứ ấu bị phạt trọng, kẻ tôn trưởng được phạt khinh. Theo Tây
phương, như thế là bất bình đẳng; song theo Đông phương thì như thế là
có trật tự.
Một đằng thì trọng tự chủ, một đằng thì trọng thống thuộc, hai đằng
tư tưởng khác nhau, cho nên trình bày ra hai cái xã hội khác nhau. Xã
hội Tây phương thì như bầy chim sẻ, con nào cũng một lứa như con nào, và
con nào cũng tự kiếm ăn cho con nấy, song cũng hiệp nhau thành bầy. Xã
hội Đông phương thì như bầy kiến, có con lớn con nhỏ, con lớn giữ phần
cai quản, con nhỏ lo việc đi kiếm ăn, song cũng hiệp nhau thành bầy.
3.Tây phương quý tấn thủ, Đông phương quý an phận
Bên phương Tây hay có những người đi bộ quanh trái đất một vòng, đi
tìm đất mới, đi thám hiểm đến Nam cực, Bắc cực, là vì họ có cái tư tưởng
trọng sự tấn thủ. Họ không chịu đầu hàng cảnh ngộ và sức tự nhiên, mà
lại cố chiến thắng cảnh ngộ và sức tự nhiên. Họ không tin có số mạng;
dầu biết có số mạng chăng nữa, họ cũng lo làm cho hết sức mình.
Vì có cái tinh thần tấn thủ, muốn chiến thắng sức tự nhiên mà lợi
dụng nó, nên mới sanh ra các thứ khoa học và làm được những công trình
to tát, như là dùng điện khí, hơi nước, bắc cầu trên sông lớn và đặt
đường hỏa xa xuyên qua núi, v.v.
Bên phương Tây hay có những người đi bộ quanh
trái đất một vòng, đi tìm đất mới, đi thám hiểm đến Nam cực, Bắc cực, là
vì họ có cái tư tưởng trọng sự tấn thủ.
Người Đông phương chỉ muốn sống cách làm sao cho êm đềm lặng lẽ. Trời
bắt thế nào thì hay thế: "Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao
mới được phần thanh cao". Sách Nho dạy phải "lạc thiên an mạng", sách
Lão dạy phải "tri chỉ tri túc" đều là ý ấy. Trải các đời, những ông vua
nào hay đi chinh phục các nước xa, thì bị chê là cùng binh độc võ; những
người nào có chí lớn cử đồ việc lớn, thì người ta cho là không biết an
thường thủ phận. Ai nấy đều lấy sự ở nhà làm sướng, đi ra làm khổ; đến
ông Lão Tử thì lại còn muốn ai ở đâu ở đó, đến già đến chết không qua
lại nhau (lão tử bất tương vãng lai) nữa kia!
Đối với sức tự nhiên, người phương Đông không dùng chước chiến mà
dùng chước hòa; cũng lợi dụng nó mà lợi dụng một cách khác. Một hòn núi
to và cao, người Tây có thể vỡ thành đường quanh theo chơn nó mà đi,
người Đông thì cứ để vậy mà trèo ngang qua; một cái thác, người Tây có
thể dùng sức chảy của nó dựng nên bộ máy mạnh mấy ngàn ngựa, người Đông
thì không, chỉ dùng làm chỗ ngắm cảnh và ngâm thơ. Cho nên phương Đông
khó lòng mà nảy ra khoa học được; mà như vậy thì cũng không cần dùng
khoa học làm gì nữa.
Xem ba điều trên đây thì thấy ra hai cái tư tưởng Đông và Tây nó phản
đối nhau như phương nam với phương bắc, như mặt trăng với mặt trời. Nay
ta nếu muốn theo cách sanh hoạt mới của Tây phương, mà ta lại còn giữ
cả tư tưởng cũ của Đông phương thì quyết không có thể được. âu là phải
dứt bỏ tư tưởng cũ của ta mà theo tư tưởng của Tây phương, thì mới hiệp
với cách sanh hoạt mới của ta.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét