- Nguyễn Khải: Đi tìm cái tôi đã mất - Phần 1
- Nguyễn Khải: Đi tìm cái tôi đã mất - Phần 2
- Nguyễn Khải: Đi tìm cái tôi đã mất - Phần 3
13.
Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài,
không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế
giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai
bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm
trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu
hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào
những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được
sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả
ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng
cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm
sinh. Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều
thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi
sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã
được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và
rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp
còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch
giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu
sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong
mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần
thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách
đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh.
Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là
công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn
bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong
tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại
người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! Ông tổng bí thư
đã mở một cuộc chiến ảo nên ông cũng chỉ nhận được những kết quả ảo.
Một Đảng, một thể chế chính trị lấy phê bình và tự phê bình làm vũ
khí sắc bén để giải quyết mọi mâu thuẫn nội bộ, giả thử nó lại không còn
dùng được nữa thì các mâu thUẫn sẽ được hoá giải bằng cách nào? Đảng
đối lập không có, dư luận đối lập qua báo chí và các cuộc biểu tình quần
chúng cũng không có, vậy làm cách nào để biết và điều chỉnh mọi sự rắc
rối, thậm chí cả bạo loạn nữa nếu nó xảy ra? Vẫn có cách, là phải tạo ra
một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể
xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống
trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị
chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư
tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống. Còn
khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt
giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn
lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua
nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là
nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài. Họ đâu có sợ loạn. Họ
còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc.
Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét
cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì!
14.
Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự
riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những
tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ
đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiêng
kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu tự do, thiếu công
bằng, thiếu hạnh phúc… Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh
thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để
bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn
giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không
thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí
để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa
sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả
loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới
chân Ngài. Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối
người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ,
trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư? Là thiên đàng trần gian
hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không
lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả
lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để
làm ra triết học và thơ ca!
Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải
nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương
quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm
nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần
gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm. Còn thức
ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm
đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế,
tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố
viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai
lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con
ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có
được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc
thịt, có cả chút rượu nữa càng hay. Tôi không phải lo nuôi con, không
phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi
chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn
sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì
tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang
trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi
đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho
được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng
trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ
béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi,
rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng tuếch, vô
hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với
xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt!
15.
Tôi có một tuổi thơ rất buồn, lại sống với những người có số phận
buồn nên mới 14, 15 tuổi đã nhìn đời như một ông già. Tức là một cái
nhìn không mấy lạc quan. Cái xã hội tôi đang sống không mấy hoàn hảo,
những người tôi gặp cũng không được hoàn hảo. Tôi quen thuộc với những
gì không hoàn hảo tới mức gặp những gì quá đẹp, quá chu toàn tôi đều
ngờ, đều sợ. Người truyền cho tôi cái nỗi sợ bẩm sinh ấy là mẹ tôi. Bà
đã qua một đời chồng rồi mới gặp được bố tôi. Đời chồng trước mọi sự đều
tốt đẹp, ông ấy còn trẻ, có địa vị trong xã hội, nhà giàu, lấy nhau
được một năm lại sinh con trai. Mà rồi chỉ ở với nhau được ba năm phải
bỏ. Đời chồng sau thì dở, dở cả mọi đằng. Bố tôi cũng còn trẻ, làm tham
biện ở phủ thống sứ, nhưng ông đã có vợ và hai con nên phải làm lẽ và
lấy giấu. Mẹ tôi bảo thế là đúng số, là đã an phận, nhưng lại lo bố tôi
sẽ bỏ khi cuộc ăn chơi này gây thêm phiền phức cho cái gia đình chính
thức của ông. Hai anh em tôi là bản sao nguyên mẫu của bà. Những gì nhận
được từ tuổi thơ mãi mãi hằn dấu lên cho đến hết cuộc đời chúng tôi.
Nhìn bên ngoài tôi có tướng con nhà phong lưu nhưng cái ruột của tôi lại
thuộc về con cái của những gia đình nghèo, lại chả có thế thân gì nên
rất biết phận, cho thì nhận, không cho cũng không đòi, chỉ cầu không có
ai quấy nhiễu là mừng. Em trai kém tôi năm tuổi, lấy vợ muộn, về hưu
sớm, lúc trẻ thì thay anh hầu hạ mẹ, về già thì đi chợ nấu cơm, giặt
quần áo thay vợ chăm sóc các con. Cả đời chỉ biết cười, cái cười nhẫn
nhục, bằng lòng với những gì mình có. Tôi thì khác, một cuộc sống bên
ngoài ai cũng biết là khiêm tốn, nhẫn nại, ít làm phiền người khác và
chả dám gây sự với một ai. Nhưng cuộc sống bên trong cũng có nhiều tham
vọng, làm quan hay làm anh nhà giàu thì không dám vì tôi không có bản
lĩnh tiến thân bằng hoạn lộ hay kinh doanh. Tôi chỉ có một ao ước duy
nhất là được viết văn cho đến già. Với cái tài tôi tự biết, tôi phải
sống rất lâu và viết rất nhiều may ra mới được một hai cuốn sách hay, mà
cũng chỉ hay trong cái thời của nó chứ không thể hay ở mọi thời. Tôi tự
nhận tôi là người có một con mắt bên trong và một cái tai bên trong từ
nhỏ. Để quan sát, nghe ngóng những người khác họ yêu mình hay ghét mình.
Càng lớn tuổi cái khả năng tự xét mình của tôi càng sắc nhọn. Và tôi đã
nhận ra cái lợi của phép giấu mình. Trang Tử đã nói: Con chim bay cao
thì tránh được tên, được bẫy, con chuột đào hang sâu thì tránh được cái
hoạ bị khói hun.
16.
Khi tôi nói, tôi sống và viết cũng thoái mải, vui vẻ trong một chế độ
chuyên chế về tư tưởng cứ như là người nói dối, lại nói dối một cách
trơ tráo, sống sượng. Nhưng đó là lời nói thật, không thật với nhiều
người nhưng với tôi là thật. Tôi được thay đổi số phận từ cuộc cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Chín năm đánh Pháp với nhiều người là rất dài, với
tôi lại rất ngắn vì tôi được sống trong niềm vui, trong những cái khác
thường và cả trong nhiều hi vọng. Nhiều anh trong cơ quan tuyên huấn của
quân khu đều xuất thân từ các gia đình viên chức nhỏ, địa chủ nhỏ, được
ăn học đàng hoàng đến hết bậc cao đẳng tiểu học đã có những thói quen,
những nền nếp của cuộc sống thị dân từ nhỏ. Họ rất thích quan sát những
phản ứng của tôi khi phải đối mặt với mọi thiếu thốn của cuộc sống kháng
chiến. Vì nhìn ngoài tôi như một thư sinh con nhà quý tộc chưa từng
biết cái thiếu cái khổ là gì. Những việc làm rất tự nhiên của tôi đều
được đánh giá phải có nhiều nghị lực, nhiều quyết tâm mới làm được thế.
Tôi vẫn sống như xưa kia, ngày xưa thì bị chê bị chửi, bây giờ lại được
khen, được tuyên dương, người cứ lâng lâng như nhập đồng, còn biết cái
thiếu là gì cái khổ là gì. Nếu so sánh thì trước kia tôi chỉ là con số
không, còn bây giờ tôi đã có một cái tên ký dưới các bài báo, đã được
nhiều ông anh trong cơ quan nhờ vả, đòi hỏi, bực tức hoặc khen ngợi. Tôi
đã được tách ra khỏi đám đông để tự bằng lòng mình và có cả chút ít “kế
hoạch riêng” cho mình nữa. Còn các anh hơn tôi dăm bảy tuổi thì đã có
nhiều thứ để so sánh những cái “đã có” trước kia và cái “đang có” bây
giờ. Cái “đang có” của dân tộc thì nhiều, còn cái “đang có” của cá nhân
như chả còn được bao nhiêu. Những kiến thức lịch sử và xã hội, triết học
và văn chương xem ra phải bỏ đi quá nửa. Các quan hệ giao tiếp xã hội
được dạy bảo từ thuở còn thơ nếu dùng lại cứ vênh váo, buồn cười thế nào
trong hoàn cảnh kháng chiến. Sống tinh tế, tôn trọng người khác là cách
sống của anh tiểu tư sản. Lòng thương người không đúng chỗ cũng được
xem như biểu hiện của một tính cách nhu nhược, không đáng tin cậy. Còn
những câu đùa thông minh, kín đáo ánh lên như một vệt sáng vui trong
cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt của mỗi ngày lại dễ bị đồng đội hiểu lầm là
một cách chế diễu của người có học với những anh em ít học. Qua mỗi cuộc
chỉnh huấn tầm vóc của mấy anh càng như nhỏ lại, mờ nhạt hơn, mất dần
những vẻ riêng, cái phần độc đáo riêng để nhập vào cái dòng chảy chung,
vào cách nghĩ cách sống của một tập thể bao bọc quanh mình. Đại để cái
riêng của mỗi chúng tôi đã bị cái chung nuốt dần như thế. Tôi thì sao?
Tôi đã có một may mắn lớn vì tôi thuộc về số đông, một quần thể vô danh
tồn tại âm thầm trong nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến. Cách mạng
Tháng Tám đã nhất loạt giải phóng họ ra khỏi thân phận nô lệ, tạo cơ hội
cho họ phát triển những tài năng riêng của mình, chủ yếu trong lĩnh vực
quân sự để kịp thời phục vụ những nhu cầu của kháng chiến. Số đông
trong họ chỉ mới biết đọc biết viết từ ngày vào quân đội nhưng học rất
nhanh cách xây dựng một quân đội hiện đại với những cơ quan phục vụ cho
công việc tham mưu, tác chiến, hậu cần vì họ đã có được một ông thầy lý
tưởng là quân đội hiện đại của đối phương với ông tướng lừng danh trong
thế chiến 2 của nó. Trong chín năm đánh Pháp quân đội đã trở thành cái
nôi đào tạo, nuôi dưỡng nhiều nhân tài quân sự của thời hiện đại, cả
những tài năng văn nghệ phục vụ trong quân đội, nó là tổ chức tiên tiến
nhất của xã hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Trong chiến tranh
người chỉ huy quân sự là hình tượng đẹp nhất, lãng mạn nhất vì họ là con
người của hành động, của đảm bảo chiến thắng, luôn ở vị trí thứ nhất,
còn con người của học thuyết chỉ ở vị trí đứng sau, trong nhiều trường
hợp chỉ là cái anh bàn thêm, nói góp. Còn những năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì con người lý luận có nhiệm vụ bảo vệ sự trong sáng của học
thuyết chính thống ở hàng đầu được tôn trọng và có quyền quyết định sự
sống chết của nhiều người. Chính là trong những năm này mới sinh ra
nhiều vụ án chính trị và văn chương, nay nghĩ lại vừa vô nghĩa vừa buồn
cười nhưng thời ấy nó đã chôn sống nhiều tài năng thực sự ở mọi lĩnh vực
vì họ đã tỏ ra ngờ vực sự đúng đắn của tư tưởng chính thống.
Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một
đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở
thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chả có tài sản
gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng
thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một
học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của
nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như
một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào
chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một
xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện
tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình
sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!
Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà
là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay
cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo
được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu
cầu.
17.
Những năm 50, 60 của thế kỷ 20, với tôi là những năm tràn đầy niềm
vui. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy tôi được, dân tộc tôi được. Nhưng cũng
những năm ấy với hàng triệu người dân thường lại là những năm đầy lo
lắng, hãi sợ và tuyệt vọng. Tôi vui là chuyện có thật, những trang viết
của tôi vào những năm ấy là rất thành thật. Nhưng nước mắt của người
khác cũng là chuyện có thật, tôi có biết, có được chứng kiến. Tôi nên
nghiêng ngòi bút của tôi về phía nào. Về già tôi mới nhận ra nhà văn
phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện
lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận
nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau
của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn
nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở
các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh
ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người
nghèo đã thành giàu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái
phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải
chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần
tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi
nghệ thuật. Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là
nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để
tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện
thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của
nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước
những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người
phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống
đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy
để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ
giúp mình thôi.
18.
Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình,
vàng thau, phải trái, cao quý ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt
đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước
“Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe). Ngôn ngữ
làm nên văn minh này, vì nó có thể lưu giữ và truyền lại toàn bộ kinh
nghiệm của nhiều đời trước cho nhiều đời sau, càng ngày cái khả năng
nhận thức càng gần đúng như nó có, khiến sự lựa chọn của con người khách
quan hơn, có hiệu quả tích cực trong quá trình chủ động thích ứng với
mọi đổi thay của môi trường sống và môi trường xã hội. Vậy mà ngôn từ
lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở
các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che
đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “nói
vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc,
chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi
chính quyền chuyên chế. Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh
đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói
bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết,
ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút
thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các
buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả
đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm
quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ
hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên,
không cần che đậy. Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được
gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân
chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất
nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiện
liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước
tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không
biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi
lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm
tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp
tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong
cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những
tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để
không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói.
Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân
dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền
đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng
hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi
lại nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng
sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.
Trong hàng trăm cuốn hồi ký của các nhà văn hoá, của những người hoạt
động chính trị, của nhiều tướng lĩnh, ta chả biết được bao nhiêu cái
thế giới riêng của họ, cái thế giới cá nhân của họ. Cái phần đóng góp
của họ càng nhỏ thì cái ý nghĩa quyết định của tập thể càng lớn, cái có
tên thì bé tí xíu, vô nghĩa, cái không tên thì bao trùm rộng khắp nhưng
cũng không có hình thù rõ rệt, cứ mờ mờ mịt mịt, có đấy mà cũng không có
đấy, cái chung ấy chả phải chịu trách nhiệm với một ai, có biết nó là
ai mà truy cứu.
19.
Trong cái bối cảnh xã hội, chính trị như thế, mỗi người đều ít nhiều
đánh mất cái cá nhân của mình cũng là lẽ đương nhiên. Nhà văn là chuyên
viên nghiên cứu mọi chuyện của cá nhân, những sắc thái tâm lý cùng với
những biến hoá vô tận của nó trong những hoàn cảnh khác nhau, những thời
thế khác nhau. Nhưng đọc hồi ký của các nhà văn cũng nhạt nhẽo lắm, họ
chỉ phô diễn cái tôi trong các cuộc gặp những bậc đàn anh và bạn bè
trong nghề, nói toàn chuyện tào lao, vụn vặt, chuyện sinh hoạt và chả đả
động chút nào tới thời thế, tới những bức xúc về thời thế và cái nghề
của mình trong thời thế. Tính hiện thực và tính lịch sử của một thời rất
mờ nhạt, đơn giản, thành thử cái ý nghĩa truyền đạt những giá trị đích
thực của một thời tới các thế hệ đến sau hầu như không có. Đó là điều
rất đáng tiếc, vì nếu các chứng nhân không nói gì cả thì lịch sử cũng
không thể cất lên tiếng nói chân thực của nó, thời gian qua đi, bóng tối
phủ lên, quên lãng phủ lên, cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại
những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan
nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực
thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của
một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng
với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói
đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.
Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu
ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân
tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực
khác. Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân
dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân
tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá
nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt
đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa
văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa
là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. Một nền văn
minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội
ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số
phận những cá nhân sẽ ra sao?
Hãy nhìn vào nước Nga những năm 90 của thế kỷ 20 là sẽ rõ. Họ vừa
thoát khỏi cái bóng che của chủ nghĩa chuyên chế để được nhìn cái ánh
sáng thật của dân chủ và tự do. Ai chả nghĩ họ đã có cơ hội sải những
bước chân dài khi đã bung phá mọi sự trói buộc. Nước Nga mãi mãi là một
siêu cường vì những thử thách lớn nhất của một dân tộc là chiến tranh và
cách mạng nước Nga đều đã trải qua mà vẫn tồn tại vì đất đai mênh mông
của mình và những tiềm lực vô hạn ẩn giấu trong đó cả vật chất lẫn tinh
thần. Phải vài chục năm nữa nước Nga sẽ là như thế nhưng trước mắt thì
không thể. Lý do rất đơn giản, kinh tế có thể phục hồi nhanh nhưng con
người phải có thời gian dài hơn nhiều nó mới có thể lấy lại những gì đã
mất. Tầm vóc cá nhân của người Nga trong non một thế kỷ dưới chế độ Xô
Viết đã bị co hẹp lại rất nhiều dầu họ vẫn được sống, được học tập và
lao động trong những điều kiện của một xã hội văn minh. Chỉ đáng tiếc
cái văn minh của họ là một nền văn minh tự tạo tách khỏi nền văn minh
nhân loại, dựa trên những tiêu chuẩn mà tâm hồn Nga không thể chấp nhận,
không thể tiến hoá. Lại thêm trong non một thế kỷ người Nga đã mất dần
thói quen suy nghĩ độc lập, quyết định độc lập, mất dần cả tính cách
phản kháng và bảo vệ chân lý, con người quen sống trong đám đông, trong
tập thể, trong bầy đàn, không có cơ hội và sự khích lệ của xã hội để tạo
ra những chân dung riêng với những tư tưởng khác nhau, những triết lý
khác nhau những cách sống khác nhau. Mọi cái khác với chính thống đều bị
lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác nhau
rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo,
làm theo mọi mệnh lệnh. Người cai trị sẽ rất dễ chịu, rất nhàn nhã nếu
quốc gia mình cầm quyền được tổ chức giống như trại lính, ông ta sẽ có
dư thời gian để làm thơ hoặc viết tiểu thuyết, vừa có cái bây giờ lại có
cả cái sau này. Còn phải lãnh đạo một xã hội dân sự của các công dân tự
do thì có hàng trăm công việc đòi hỏi phải được giải quyết mỗi ngày, mà
cách thức giải quyết cũng rất phức tạp, nó yêu cầu phải đối thoại, phải
được tranh luận bình đẳng, phải thương lượng, phải luôn luôn thay đổi
những chủ trương mà dân chúng không bằng lòng. Và mọi việc làm đều phải
tuân theo hiến pháp và được xã hội kiểm tra thông qua hệ thống thông tấn
báo chí. Chẳng những người lãnh đạo phải bị kiểm tra những công việc
thuộc về chức năng của họ mà còn bị theo dõi rất nghiêm ngặt mọi sinh
hoạt thuộc về đời tư của họ để ngăn chặn kịp thời những vi phạm thuộc về
đạo đức. Ở những xã hội văn minh thì người cầm quyền bị rất nhiều luật
lệ câu thúc, trói buộc, là người mất tự do nhiều nhất, còn dân chúng thì
được pháp luật bảo vệ đủ mọi đàng, càng ít bị trói buộc càng tốt, càng
có nhiều tự do càng tốt. Chỉ một xã hội được tổ chức như thế thì vị trí
cá nhân mới được tôn trọng, người có giá trị là người có cái TÔI mạnh
mẽ, đầy sức sống, đầy sáng tạo. Nên mỗi người đều có ý thức vun trồng
những nét đặc sắc của riêng mình, cái vẻ đẹp của riêng mình và con của
cháu thành những gia đình nổi tiếng, những dòng họ nổi tiếng làm cột
chống cho một quốc gia. Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những
biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian
diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng,
không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn
tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy
thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết
không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái
vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật
bất thường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó
một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường.
Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu,
là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là
tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn
trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác
biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang
trọng trong hiến pháp hay không? Vì tiềm lực tinh thần của mọi cá nhân
được vun xới, được phát triển trong tự do là nền tảng vững chắc nhất của
mọi thiết chế chính trị. Vì còn nó ta có thể vững tin sẽ vượt qua mọi
sóng gió bất thần của thời thế để mãi mãi tiến về phía trước.
Viết xong tại quận Bốn Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/5/2006
NGUYỄN KHẢI
NGUYỄN KHẢI
0 nhận xét:
Đăng nhận xét