Người Việt mình bản tính chỉ ưa những gì thiết thực. Nhưng ưu điểm ấy
thái quá thì thành thực dụng, tiện dụng. Trong bộ ba Chân Thiện Mỹ ta
thường say mê Thiện và Mỹ, trong đó Thiện là tốt, là tử tế, là có ích,
có lợi. Mỹ là cái đẹp. Thiện và Mỹ thì dùng được ngay, thưởng thức được
ngay. Còn Chân là để biết cái thực chất, cái bản chất của sự vật đúng như nó vốn có,
thì phải truy nguyên, truy cứu đến cùng; việc này rất tốn công lại
thường gây rắc rối nên số đông thường tránh né, thường bỏ ngoài tai.
Việc truy nguyên, truy cứu ấy ta thường “nhường” cho người khác, cho
những người “dư lực”, cho những nước giàu có-văn minh, hoặc giả lại
khoán trắng cho người có quyền. Sự lảng tránh, không chịu mất công tìm
cái gốc sâu xa ấy một phần do tính khôn lỏi, một phần do mặc cảm tự ty,
ngại khó, không dám bỏ công thiết kế cái nền tảng cho mình, cứ nương
theo cái nền có sẵn mà phụ hoạ, mà khai thác thôi. Cái gì đã có sẵn, đã
du nhập vào, đã thành chính thống là chấp nhận hết, tận dụng hết, nếu
thấy có gì còn chênh, còn sượng, thì xào xáo lại, hoặc cố kê cho bằng,
cố chắp nối vào cho khớp. Vì thế mà không thể có một tư tưởng cho ra tư
tưởng, một cái nền nào cho ra cái nền.
Nhặt một chút Lão, một chút Khổng, một chút Thích Ca, một chút
Giê-su, một chút Tôn Trung Sơn…, lại gò hết cả vào cho lọt cái chảo
Mác-xít thì thành tư tưởng sao được? Một sự kết hợp chủ động và có sàng
lọc thông minh, sáng tạo như của Phan Chu Trinh là trường hợp hiếm thấy
(xin đề cập nhân vật lịch sử này trong một mục khác).
Người Việt mình tuy rất thông minh, nhạy cảm nhưng chỉ giỏi thứ văn
thơ “tầm tầm”, chơi vơi, mà không đóng góp được cho nhân loại một triết
gia hay một nhà bác học nào về khoa học chính xác là bởi cái tính lưng
chừng, không triệt để ấy. Khi cái Thiện cái Mỹ đã đứng trên cái nền vay
mượn, thì văn hoá khó thoát khỏi tính chất ký sinh, mà chính trị cũng dễ
bị trào lưu đưa đẩy. Người cầm cờ thì chạy theo trào lưu, nhân dân thì
đổ xô theo người cầm cờ. Thế là cả cộng đồng không biết nắm đằng chuôi,
cứ nắm đằng lưỡi (lưỡi là bộ phận hào nhoáng, tiện dùng), thì bị người
ta “dắt tựa trâu bò” (lời thơ Hồ Chí Minh) là lẽ đương nhiên, đã dính
vào rồi thì về sau có tỉnh ngộ ra cũng không cưỡng lại được nữa, cưỡng
lại thì đứt mũi, đứt tay.
Người thực dụng, cảm tính, ăn xổi như vậy trước mắt tưởng là khôn
nhưng suốt đời mắc những cái dại lớn. “Hớt váng nổi” mãi cũng không
được, hớt mãi sẽ cạn và đụng đến cái bế tắc. Khi bế tắc đáng lẽ phải đi
lại từ đầu, nhưng vốn không có sự kiên trì dũng cảm ấy nên đương nhiên
lại chọn cách sửa chữa vá víu, tu sửa vặt, thế là mãi mãi không có một
cái nền nào vững chắc.
Nền không vững thì nhà không thể xây cao, Tư tưởng không được định
hình vững chắc và chính xác thì dân tộc không thể đi xa. Đến những việc
trọng đại của dân tộc mình, không ai làm hộ được mà ai cũng “khoán
trắng” cho người khác thì mong chi làm chủ được cơ đồ? Hàng nghìn năm
phụ thuộc Trung Quốc là do phụ thuộc về ý thức hệ. Mấy chục năm phụ
thuộc phe xã hội chủ nghĩa cũng vì phụ thuộc ý thức hệ. Đến bây giờ dân
phụ thuộc vào Đảng cũng vì bị ý thức hệ dắt đi. Cái giá phải trả cho sự ỷ
lại, lười nhác về tư duy là như vậy đấy.
Khi nhấn mạnh vai trò nền tảng của tư tưởng, phải hiểu rằng ai chiếm
lĩnh được nền tảng ấy là làm chủ được xu thế xã hội. Có tư tưởng đúng
mới xây dựng được một dân trí cao.
Một dân tộc không có tư tưởng hay coi nhẹ tư tưởng thì cũng tự đánh mất luôn quyền làm chủ xã hội của mình.
Ngược lại, áp đặt một tư tưởng cho nhân dân, dẫu cho tư tưởng ấy
ca ngợi dân lên đến tận trời, thì cũng là huỷ diệt tận gốc khả năng làm
chủ của nhân dân. Chỉ cần trói buộc được một người về tư tưởng thôi
là cơ bản đã trói buộc xong con người đó, đảm bảo họ chỉ cựa quậy quanh
quỹ đạo ấy, mọi sự cải thiện về sau cũng chỉ là vớt vát.
Chỉ với một tư tưởng “trung quân” (bởi “quân” là đấng Thiên tử - con
Trời, thay Trời trị dân) mà vua chúa chiếm được hết cả sơn hà xã tắc.
Thần dân bị mất sạch sành sanh vào tay vua chúa, thế mà chỉ cần một câu
nói xạo “dân vi quý, quân vi khinh”, hay một chén rượu thưởng, một mảnh
giấy khen… là sướng run lên đến quên hết sự đời. Khốn nạn thay!
Dân phẫn nộ, có vùng lên thì xương máu góp lại cũng xây đắp nên một ngai vàng mới, còn tệ hơn ngai vàng cũ. Bởi vấn đề gốc rễ không phải là thay một ngai vàng, mà phải thay một tư tưởng!
Không cần tư tưởng tâng bốc nhân dân, vô ích! (Nghịch lý là muốn
thương dân thì đừng nhìn chăm chăm vào dân làm gì mà hãy để mắt nhìn vào
kẻ trị dân!) Chỉ cần kẻ trị dân không được độc quyền, buộc phải phân
quyền, vì độc quyền sẽ dẫn đến lạm quyền vô hạn. Thế thôi, lão vua nó
bảo nó sẽ tu thân, nó sẽ thương dân, nó sẽ hy sinh hết cho dân, nó chỉ
muốn làm đày tớ của dân, ngoài ra nó không có lợi ích nào khác? Mặc nó,
không nghe làm gì! Chỉ cần nó chịu phân quyền, nó không được độc quyền
cai trị, khi nó sai trái dân có thể phế truất. Muốn phế truất được thì
dân phải nắm đằng chuôi. Muốn nắm đằng chuôi thì cái triết lý trị dân,
tức cái tư tưởng chính trị phải do dân lựa chọn.
Cụ Hồ đã chọn một con đường cách đây ngót một thế kỷ, trong một ý thức không mấy đầy đủ [5]
, nay tuyệt đại bộ phận các nước, nhất là các nước văn minh, đều xác
nhận con đường ấy là sai, thì phải đặt vấn đề ấy công khai lên bàn cho
toàn dân tộc thẩm định một cách dân chủ. Nếu trước chọn chưa đúng thì
nay dân chọn lại, dân là chủ thì việc tối hệ trong này phải do ông chủ
quyết định, chứ không thể nhường cái quyền lựa chọn ấy cho “Bác Hồ” hay
cho bất cứ ai.
Nhưng các giới cầm quyền trong các nước xã hội chủ nghĩa
đã “vớ” được một chủ nghĩa cực kỳ béo bở nên không muốn rời ra nữa (sao
Mác thương người lao động mà lại nghĩ ra cái chủ nghĩa làm khổ người lao
động đến thế? Hãy so sánh đời sống người lao động ở các nước theo chủ
thuyết Mác với các nước tư bản xem ở đâu tốt hơn, hãy mở cửa xem người
dân chạy từ đâu sang đâu?). Mà dân mình thì đã nhiễm cái bệnh thâm căn
cố đế là thiếu tinh thần tự chủ nên cứ tiếp tục để bị dắt đi, như thể
chẳng có gì quan trọng xảy ra hết!
Đến đây, tôi xin phép dừng lại một chút, bàn về ý thức làm chủ của
người Việt mình. Sự vùng lên đánh giặc với ý thức làm chủ là hai thứ
khác nhau một trời một vực, một thứ là bản năng sinh tồn của kẻ bị mất
nước, một thứ là ý thức xã hội của công dân một nước độc lập. Truyền
thống ỷ lại, phụ thuộc, chiều lòng cấp trên của người Việt đã hun đúc
nên cái đức “tự kiểm duyệt” rất tuyệt vời. Chưa cần cấp trên ra lệnh
hoặc cấm đoán mà mình đã thông minh, nhanh trí, tưởng tượng xem tâm lý
cấp trên muốn gì để mình tự thực hiện trước. (Đồng tiền đi trước là đồng
tiền khôn, sự ngoan ngoãn đi trước là sự khôn ngoan của “thánh nhân”
đấy!)
Điều kỳ lạ là kẻ bị trị lại nhanh nhảu thử đặt mình ở địa vị kẻ thống
trị, xem là cấp trên thì muốn điều gì, không muốn điều gì, để mình tự
giác thực hiện. Nhiều “trí thức cách mạng” đã là kẻ đi đầu trên con
đường nô dịch này: nhà nước chưa hề đặt quy chế kiểm duyệt mà nhà văn
nhà báo đã tự xếp hàng đi đều tăm tắp trong hàng quân văn nô không chút
sơ suất! Văn hào Nga Mikhail Alexandrovich Solokhov đã tự hào về sự tự
kiểm duyệt như sau: “Tôi viết theo mệnh lệnh trái tim, nhưng trái tim tôi thuộc về Đảng”
(chứ Đảng đâu cần ra lệnh cho tôi?). Trái tim vẫn nằm trong lồng ngực
nhưng đã được nhà văn “chuyển giao” cho Đảng, một quy luật của tình yêu
(si tình “xin chết” cho người mình yêu) đã vào chính trị một cách ngọt
ngào. Không phải chỉ những bài viết, những tác phẩm, mà cả những cuộc
đời cũng được tự kiểm duyệt cho “phải đạo”! Tôi chợt hiểu ra một thuật
chính trị: Muốn đánh lừa người khác thì tốt nhất là làm thế nào cho họ
tự đánh lừa họ, bằng cách đó họ sẽ tiếp tục giúp mình đánh lừa những
người khác nữa, tạo nên một phản ứng dây chuyền! Nhà thơ Bùi Minh Quốc
gọi mẹo ấy là “biến cuộc trấn lột thành một cuộc hiến dâng tự nguyện”.
Cũng nhà thơ Bùi Minh Quốc, trong bài viết “Một mình một phiếu” [6]
mới đây đã phát hiện thói “tự kiểm duyệt” của phần đông người Việt
trong việc bầu cử: Chỉ có một mình trong phòng kín với lá phiếu trong
tay mà không làm chủ được mình, vẫn luôn bỏ phiếu cho những kẻ mà lúc
thường ngày mình vẫn không coi ra gì vì tội tham nhũng! Nếu lúc ấy mình
gạch tên ấy đi thì có ai làm gì mình đâu? Cái thói tự kiểm duyệt đã
thành tự kỷ ám thị đưa con người vào tình trạng bị thôi miên. Mà tôi xin
nói: Đảng đâu có bảo anh làm như thế, làm thế Đảng còn “mắng” cho là
đằng khác! Đảng vẫn nói: “Đảng đem lại quyền làm chủ cho dân, làm chủ
gồm có làm chủ bản thân trước rồi mới làm chủ xã hội!” Thế mà lúc “một
mình một phiếu” trong phòng kín mình lại không “làm chủ bản thân” thì
tức là mình làm ngược ý Đảng chứ? Nhưng, một người dân khẽ bảo với tôi:
Thôi ông ơi, cứ “làm ngược” thế mới là xuôi đấy ông ạ! (Người dân nào
cũng làm y như mình rất am hiểu về khoa “Tâm lý Đảng” mới lạ! Tài thế!).
Không chỉ người dân thường, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ có tên tuổi
cũng thường có những ứng xử rất “xoàng”, rất không xứng, mặc dù chẳng có
sức ép gì đến mức phải chọn cách ứng xử như vậy. Cũng là một kiểu tự
kiểm duyệt an toàn quá mức cần thiết đấy thôi.
Không ít người còn có suy nghĩ đơn giản: Trước mắt hãy cứ phát triển
kinh tế, chính trị-tư tưởng là chuyện đường xa, chưa cần. Thậm chí còn
coi chính trị-tư tưởng là cổ lỗ. Những bạn trẻ đề cao kinh tế-kỹ thuật
ấy tưởng như thế là trí tuệ, là hiện đại, nhưng thực ra đó là trí tuệ
nông cạn, cũng không khác gì tính thực dụng của người ít học. Bất cứ một
sự nghiệp lớn, một công trình lớn nào cũng đòi hỏi trước hết một cái
nền “triết lý” của nó, đó là sợi dây vô hình để sâu chuỗi tất cả mọi
người, mọi điều, mọi việc.
Tiến sĩ Vũ Minh Khương (Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học
Quốc gia Singapore), sau khi khảo sát hàng loạt những chỉ số kinh tế-kỹ
thuật của Việt Nam, so sánh với Trung Quốc và nhiều nước khác, cuối
cùng đi đến kết luận: “Thế nhưng, đột phá không bắt đầu từ cố gắng
sửa đổi một vài thủ tục hành chính, hay biện pháp đốc thúc quyết liệt
một số dự án trọng điểm, mà phải khởi đầu từ một TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN” [7]
. Triết lý ở đây là một hệ thống những quan niệm khoa học và linh hoạt,
giúp con người có một nhãn quan xa, rộng và hài hoà, làm cơ sở để tiếp
tục chọn lọc không ngừng, không hề có tính chất khuôn mẫu như một chủ
nghĩa. Chủ nghĩa mới là thứ lạc hậu, cổ lỗ, bởi không một chủ nghĩa nào,
do một đầu óc siêu việt nào nghĩ ra, mà trụ nổi trong thế giới ngày
nay, thế giới mà tất cả những bộ óc của nghìn triệu con người đã được
nối thông sang nhau bằng Internet! (Muốn cứu sống một chủ nghĩa nào đó
đương nhiên người ta nhận ra kẻ thù là Internet và muốn khống chế nó,
nhưng làm sao “lấy chỉ mà buộc chân voi”?).
* * *
Trong khi rất dễ dãi, lơ mơ, đại khái cho qua trước những vấn đề lớn
thì người Việt lại thường sắc sảo, tỉ mỉ, xét nét, chặt chẽ, chấp nhặt,
khó châm chước cho nhau trong những vấn đề nhỏ, thậm chí chỉ là tiểu
tiết trong những vấn đề quan hệ, đời sống cá nhân. Vì thế người Việt vừa
đặc trưng ở tính cách ôn hoà, nhu thuận lại vừa đặc trưng ở tính phân
tán, nhỏ nhặt, ganh tị, võ biền, ham đánh nhau. Dân ta bộc lộ được hết
ưu điểm nếu trước mặt có một kẻ thù xâm lược, nhưng lại bộc lộ hết nhược
điểm khi cần hiệp lực trong tự chủ và phát triển. Dễ chia sẻ với nhau
trong đau thương hoạn nạn nhưng khó chia sẻ hạnh phúc vinh quang. Cứ
phải có kẻ thù mới mạnh lên được, hết kẻ thù là nhược điểm lại hiện ra! Ở
điểm này thì tính cách dân tộc và tính cách của chủ nghĩa Mác-Lênin tỏ
ra tương hợp, cộng hưởng với nhau. Hình như chủ nghĩa Mác được viết ra
chủ yếu là để cho người Việt chúng ta vậy!
Bản năng sinh tồn cao, nhưng nặng về thích nghi, và thích nghi quá
“nhạy” nên dễ pha tạp, hầu như không có gì thuần chủng. Không bao giờ
rành mạch, không thể rành mạch, hoặc không thích rành mạch. “Làm tài trai cứ nước hai mà nói”, “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”, “Nói dzậy mà không phải zdậy”,
cứ nhũng nhẵng thế mà “vô địch” đấy, mặc dù vô địch kiểu này thì cũng
khó đứng lên thành “người lớn” được. Luật pháp gì cũng pha chất “cao su”
cả, tính luật thì ít, chất “mẹo” thì nhiều. Sự chọn lựa không phải giữa
đúng và sai (bản chất nó là cái gì không quan trọng), mà chỉ tính toán
cái nào có lợi nhất, hoặc trước mắt thấy “ngon xơi” nhất, hoặc khó diệt
nhất, mà những giá trị này thì thay đổi hàng ngày hàng giờ theo tình
hình. Vì thế khó lòng có một “gien trội” thuần chủng nào có điều kiện ổn
định lâu dài để định hình và phát triển được trong tính cách Việt Nam.
Đó là một thể nhão vô định hình, không phải thể lỏng, không phải thể rắn, cũng không phải thể khí.
Một biểu hiện khác của tính nhập nhằng là sự “hiểu ngầm”: không chính
thức đề cập đến mâu thuẫn cũ, tội lỗi cũ, mà dùng một cử chỉ thân
thiện, một món quà… để hiểu ngầm rằng đã đổi mới, đã phục thiện, có thể
rũ bỏ chuyện cũ, xuý xoá chuyện cũ. Cách ứng xử ấy là rất tốt trong
những quan hệ tình cảm gia đình, họ hàng, bè bạn, trong đó lòng nhân ái
và tin nhau là chính. Nhưng lạm dụng cách ứng xử “chín bỏ làm mười” ấy
trong việc điều hành xã hội, trong những việc đòi hỏi pháp lý rành mạch
thì sự nhập nhằng ấy khiến cho muốn hiểu thế nào cũng được, tiến lui thế
nào cũng được, chẳng có gì ràng buộc. Trong việc điều hành đất nước,
muốn sửa tận gốc một lỗi lầm có tính căn bản, nhất là lỗi lầm do ý thức,
thì phải phân tích và nhận diện lỗi lầm ấy ở nguyên dạng, chưa bị sự
thích nghi khôn khéo làm nhòe đi (trong bệnh tật, việc dùng thuốc an
thần, giảm đau nhiều khi che giấu mất nguyên nhân, cản trở việc chẩn
đoán). Phải đi đến những kết luận chính thức, công khai, không thể hiểu
ngầm! Đấy không phải là sự cố chấp, bới lông tìm vết mà là phẩm chất
minh bạch, khoa học, quân tử và thực lòng cầu tiến, rất cần cho một xã
hội văn minh quy củ. Không dám minh bạch đối với quá khứ chính vì chưa
thực lòng đối với hiện tại.
Muốn đổi mới đất nước không thể không chiến đấu chống lại những “ưu
điểm” nhũng nhẵng rất “quái chiêu” kể trên. Nhưng ngặt nỗi đó là những
tính cách đã khắc sâu vào dân tộc, như những ưu điểm mấy nghìn năm để
tồn tại (Mặt tích cực, mặt ưu điểm của những tính cách này đã được ông
Lê Hồng Hà nói rõ trong bài “Thử đi tìm phong cách tư duy Việt Nam” [8]
), nay muốn cải tạo mặt tiêu cực của nó thì những người đổi mới thoạt
tiên phải thích nghi với nó, vừa hoà đồng vừa cải tạo nó, chứ “húc”
thẳng vào nó là thua đấy! Nghĩ rằng một khi hoà nhập vào thế giới minh
bạch thì đặc điểm này ắt phải chấm dứt ngay là suy nghĩ đơn giản kiểu
học trò.
Môn “Hiệp khí đạo” thật là tài: Nương theo động tác của đối phương mà
đánh đối phương, nghệ thuật là phải chọn tư thế làm sao cho chính lực
từ đối phương phát ra được chuyển thành lực chống lại đối phương. Đối
phương càng ra đòn mạnh bao nhiêu càng tự hại mình bấy nhiêu. Phong trào
cộng sản từ chỗ tay không mà giành chiến thắng là nhờ biết “lấy vũ khí
của địch mà đánh địch, lấy gậy ông để đập lưng ông”, bài học ấy đáng suy
ngẫm lắm, sâu sắc lắm.
_________________________________
Chú thích:
[1] Võ Văn Kiệt: "Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới" (http://ykien.net/tl_viettrung90.html) tháng 9-2006
[2] Bùi Tín: “Những vấn đề cần làm rõ về cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam”, 24.3.2007 (www.talawas.org/talaDB/talaDBFront.php?rb=0401)
[3] Nội dung bóc băng cuộc điện thoại giữa ông Lê Hồng Hà và Hà Sĩ Phu ngày 10-3-2007 (www.hasiphu.combaivietmoi_08.html )
[4] Nghị quyết 1481 / Resolution 1481 (2006) - Need for international condemnation of crimes of totalitarian communist regimes: http://assembly.coe.int/Mainf.asp?link=/Documents/AdoptedText/ta06/Eres1481.htm
[5] Hà Sĩ Phu: “Xưa nhích chân đi, giờ nhích lại” (www.hasiphu.comll04.html)
[6] Bùi Minh Quốc: “Một mình một phiếu”
(talawas 10.4.2007: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9711&rb=0401)
(talawas 10.4.2007: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9711&rb=0401)
[7] “Triết lý phát triển: Vai trò tiên phong của hệ thống”
(http://www.canhen.de/index.php?id=123&tx_mininews_pi1[showUid]=12452&cHash=342aa86814 )
(http://www.canhen.de/index.php?id=123&tx_mininews_pi1[showUid]=12452&cHash=342aa86814 )
[8] Lê Hồng Hà: “Thư gửi… của ông Lê Hồng Hà” (http://doi-thoai.com /baimoi0407_244.html)
Nguồn: Dân Luận
0 nhận xét:
Đăng nhận xét