Fukuzawa Yukichi đã nói: “Cái hồn của một nước nào thì y phụ vào dân
nước ấy. Cái hồn của dân tộc nước ấy lại y phụ vào thanh niên học sinh,
ấy là linh hồn của nước dân vậy”.
Nhìn lại bấy lâu nay, thanh niên học sinh trong nước ta trình độ ngày
càng thụt lùi so với thế giới, há chẳng phải điều đáng lo cho quốc gia
sao? Đặc biệt hơn là khi nói đến chuyện chính trị, hưng vong của đất
nước mà sao lắm bạn trẻ cho là chuyện rỗi hơi, không cần quan tâm. Ai ai
cũng ích kỷ cá nhân như vậy thật đáng trách, không hiểu dân tộc Việt sẽ
đi về đâu?
Là những chí sĩ yêu nước, tự ta cảm thấy nỗi nhục dày vò về sự tụt
hậu của đất nước. Vậy chúng ta phải làm gì để có thể thúc đẩy đất nước
tiến đến văn minh phương Tây. Không còn đường nào khác là phải truyền
bá, học hỏi các tư tưởng tiến bộ của các nước phương Tây mà nhiều lần
chúng ta lỡ nhịp rồi.
Vấn đề tiếp thu tri thức nhân loại tại Việt Nam
1. Trong quá trình hiện đại hoá, mở cửa và đi theo con đường chung
của nhân loại, điều then chốt là tiếp thu và học hỏi những tri thức của
thế giới. Chúng ta không thể phát triển nếu không học những bài học kinh
nghiệm và sử dụng những thành tựu trong quá trình phát triển của các
quốc gia tiên tiến khác. Để từ đó, trên nền tảng văn hoá, bản sắc, lịch
sử đặc trưng của Việt Nam tìm ra mô hình và bài học phù hợp cho sự phát
triển của mình.
Hiện nay, một điểm yếu của việc nghiên cứu là thiếu những cuốn sách
và tri thức nền tảng của thế giới, đặc biệt là về khoa học xã hội. Ngay
cả các giáo viên và sinh viên ngành xã hội cũng không đủ điều kiện tiếp
cận nguồn tư liệu này. Sách vừa thiếu, ngoại ngữ kém…và ngay cả các sinh
viên và nhà nghiên cứu giỏi cũng không dễ dàng tiếp cận được.
Nhật Bản bắt đầu công cuộc canh tân đất nước với công cuộc Minh Trị
Duy Tân (1868) bằng cách tích cực học hỏi và tiếp thu những đặc điểm
tiên tiến của văn minh Tây Phương. Trí thức Nhật Bản hiểu rằng muốn vượt
Tây Phương thì trước hết phải khám phá để học lấy những bí quyết sở
trường của Tây Phương không chỉ đơn thuần bằng việc mua súng đạn hay tàu
chiến mà phải thấy được đâu là những "sở trường và bí quyết" của văn
minh Tây phương. Họ cho rằng sách vở và những chuyến hành trình để "thám
sát" các nước Tây Phương là cách tối ưu nhất để thu được kinh nghiệm và
các bài học cần thiết để đạt được mục tiêu hiện đại hoá nước Nhật. Vì
thế, việc tiếp thu văn hóa Tây phương được chính phủ Minh Trị đặt làm ưu
tiên hàng đầu. Trong giai đoạn này, các dịch giả, điển hình là Fukuzawa
Yukichi là những người đầu tàu trong việc truyền bá kiến thức và những
tư tưởng tiên tiến của Tây Phương ở Nhật thông qua việc dịch và xuất bản
rất nhiều sách vở của phương Tây để học lấy những tư tưởng cốt lõi phục
vụ cho công cuộc cải cách.
Tôi kinh ngạc khi nhận thấy nhiều tác phẩm lớn của phương Tây đã được
dịch ra tiếng Nhật từ rất sớm, vào nửa đầu thời Minh Trị (giai đoạn
1870-1885) như History of Civilization in England của Henry Buckle; The
Theory of Legislation - Principles of the Civil Code của Bentham; On
Liberty, Political Economy, Representative Government, Utilitarianism
của J.S. Mill; Social Statics của Herbert Spencer; De l'esprit des lois
của Montesquieu; Du contrat social của Rousseau.
Sau thất bại trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895), Trung
Quốc cũng tiến hành một chương trình tương tự. Những sĩ phu Trung Quốc
có đầu óc cải lương với các lãnh tụ như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu
chủ trương rằng Trung Quốc cần thực hiện công cuộc canh tân theo gương
Nhật Bản. Hàng ngàn sinh viên Trung Quốc đã sang Nhật du học và vô số
sách báo tiếng Nhật đã được dịch sang chữ Hán. Đỉnh cao của việc dịch
thuật các tác phẩm này diễn ra trong khoảng thời gian từ 1902 đến 1907,
khi mỗi năm trung bình có hơn 50 cuốn sách dịch được xuất bản và năm
1903 đạt kỷ lục với 200 cuốn. Ngay trong thời gian này, chứ không phải
chờ đến khi Đảng Cộng sản Trung quốc lên cầm quyền, tác phẩm Tuyên Ngôn
Ðảng Cộng Sản của Marx và Engels đã được dịch cho người Trung quốc. Như
Lương Khải Siêu nói, "Các tư tưởng mới lan tràn như đám cháy" và những
tư tưởng mới được truyền tải thông qua sách dịch đó đã góp phần mang lại
cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911 ở Trung Quốc.
Cũng thông qua Tân Thư, các sĩ phu Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 đã lĩnh
hội được tư tưởng mới, điển hình là Phan Châu Trinh, Thân Trọng Huề, Ðào
Nguyên Phổ. Nhìn lại Nguyễn Trường Tộ là nhà canh tân nổi tiếng của
Việt Nam nhưng không thành công và khi đọc niên biểu và những hoạt động
mà Nguyễn Trường Tộ thực hiện, tôi nhận thấy dù các kiến nghị ông viết
rất nhiều và chính xác, nhưng ông không triển khai được các hoạt động
kèm theo mà Fukuzawa đã làm, đó là dịch thuật và mở trường dạy học…để
đào tạo ra một thế hệ mới. Cách tiếp cận của Nguyễn Trường Tộ là thuyết
phục giới quan lại, nhà vua và triều đình; còn Fukuzawa Yukichi chọn
cách xây dựng một tầng lớp mới, tạo dựng tinh thần mới cho cả dân tộc.
Nhờ đó, Fukuzawa Yukichi đã thành công.
2. Trong lời Phát Đoan của bộ Nho Giáo, Trần Trọng Kim viết “Xét ra
cho kỹ, sự bỏ cũ thay mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không
cấp bách, nhưng vì người mình nghĩ nông nổi, không suy nghĩ cho chín,
chưa gì đã đem phá hoại cả đi. Thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị
tất đã bỏ đi được mà lại làm hỏng mất đi cái phần tinh tuý đã giữ cho
xã hội ta bền vững hàng mấy nghìn năm”.
Có lắm người tưởng rằng mình bắt chước người ngoài là điều có ích cho
sự tiến hoá của nòi giống mình. Không ngờ rằng, sự bắt chước vội vàng
quá, không nghĩ cho chín, lại thành cái độc, gây ra thứ bệnh cho xã hội
mình…Mỗi dân tộc có một cái tinh thần riêng, cũng như mỗi cây có cội rễ
đâm xâu xa xuống đất. Hễ cây nào tốt, hút được nhiều khí chất thì cành
lá rườm rà. Dân tộc nào cường thịnh là người đã biết lưu giữ cái tinh
thần của mình được tươi tốt luôn.”
Cho đến nay, 100 năm sau khi Trần Trọng Kim viết Việt Nam Sử lược, tính cách của người Việt Nam vẫn không hề thay đổi.
3. Trong cuốn Tâm lý đám đông, Le Bon viết “Một dân tộc là một cơ thể
sống được sinh thành bởi quá khứ nên cũng giống như mọi cơ thể sống
khác, nó chỉ có thể biến chuyển bởi những tích tụ từ đời này qua đời
khác một cách chậm chạp và lâu dài. Những thay đổi mà con người có thể
tạo ra chỉ là thứ bề ngoài…
Nếu không có truyền thống, tinh hoa của dân tộc hay nền văn minh dân
tộc đó không thể được hình thành. Vì thế, con người sẽ có hai mối quan
tâm chính kể từ khi được sinh ra, là thiết lập cho mình một hệ thống
những tập tục, và cũng chính là thứ mà con người sẽ nỗ lực phá bỏ khi
những tác dụng hữu ích của chúng không còn nữa. Không thể có nền văn
minh nếu thiếu truyền thống nhưng không thể có phát triển nếu không phá
bỏ những truyền thống đó. Khó khăn nan giải nhất là tìm ra sự cân bằng
giữa ổn định và phát triển, tức là sự biến đổi. Nếu một dân tộc cho phép
truyền thống của mình bám rễ quá sâu và quá vững chắc thì sẽ chẳng còn
gì có thể thay đổi được nữa... Trong trường hợp đó, những cuộc cách mạng
bạo động cũng chẳng mang lại điều gì bởi khi đó, những mảnh vỡ của hệ
thống phong tục lại dần dần gắn bó lại với nhau để rồi trở lại thời quá
khứ mà không hề có chút thay đổi nào…”
Làm thế nào để truyền bá tư tưởng tiến bộ của phương Tây?
Các xã hội phát triển Âu - Mỹ được xây dựng trên những nền tảng tri
thức vững chắc, vốn được kế thừa và phát triển từ thời Hy Lạp, La Mã,
qua các thời kỳ Phục Hưng, Khai sáng và thời kỳ Chủ nghĩa hiện đại của
thế kỷ XIX - XX. Tất cả những tri thức nền tảng này đều được đúc kết
trong tác phẩm của những học giả nổi tiếng (Plato, Aristote, Newton,
Darwin, Kant, Hegel, Tocqueville, Mill, Russell, Wcher, Smith.
Hayek...), chúng làm nền móng cho tòa nhà tri thức phương Tây, làm cơ sở
cho triết học, khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn, nghệ thuật, xã hội
dân sự và Nhà nước pháp quyền. ..
Nhiều quốc gia khác đã học tập phương Tây như Nhật Bản khi nhận ra
rằng đằng sau sức mạnh bề ngoài về quân sự và công nghệ, phương Tây còn
sở hữu một lâu dài tri thức đồ sộ. Ngay từ thời Minh Tri cách đây 120
năm, giới trí thức Nhật Bản đã quyết tâm dịch những tác phẩm kinh điển
phương Tây ra tiếng Nhật. Việc dịch thuật đã trở thành chiến lược quốc
gia, góp phần quyết đinh vào việc xây dựng cơ sở nền tảng cho các ngành
khoa học tự nhiên cũng như khoa học nhân văn của Nhật Bản, giúp nước này
chỉ trong thời gian ngắn đã đuổi kịp phương Tây, xây dựng được một xã
hội giàu có, dân chủ và tiến bộ hàng đầu thế giới, đồng thời vẫn giữ
được bản sắc hết sức riêng biệt của mình.
Con đường canh tân của Nhật Bản đã làm bài học và hình mẫu cho giới trí thức Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác ở Châu Á. Việt Nam cũng là một quốc gia nằm trong quỹ đạo tư tưởng Đông Á. Những người đi tiên phong như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh rồi điển hình như Phan Chu Trinh... đã bắt tay vào dịch những tác phẩm phương Tây để truyền bá tới công chúng Việt Nam. Nhưng vì nhiều lý do khiến cho việc dịch thuật những tác phẩm rường cột của phương Tây diễn ra chậm chạp. Như vậy. Việt Nam đã đi sau các nước Châu Á nói trên không chỉ về kinh tế mà còn cả về học thuật. Riêng về học thuật việc thiếu những cuốn sách rường cột được dịch ra tiếng Việt khiến cho Việt Nam bị mất để và tụt hậu so với thế giới.
Như chúng ta đã biết, tình hình tiếp nhận tri thức tiến bộ phương Tây
tại Việt Nam là rất tồi tệ rồi. Vậy nhân dịp ra mắt hàng loạt các tác
phẩm kinh điển về tư tưởng của phương Tây tại Việt Nam, chúng ta nên tổ
chức các câu lạc bộ, hội nghiên cứu về tư tưởng phương Tây để dễ dàng
truyền bá hơn tư tưởng phương Tây vào Việt Nam. Qua tiếp nhận trí thức
mới này thì mới mong thúc đẩy được dân chủ tại Việt Nam, nơi nhiều người
còn lơ mơ về nhân quyền và dân chủ.
Chúng ta có tổ chức được 1 ngôi trường tư thục như Đông Kinh Nghĩa
thục ngày xưa của cụ Phan để truyền bá các tư tưởng này ta nghĩ còn tốt
hơn rất nhiều. Bây giờ tại VN đã cho phép lập trường tư thục rồi.
Trên đây chỉ là chút ý kiến của tôi, mong các vị đóng góp. Về trí và
lực thì tôi vẫn chưa đủ nên cần các vị hỗ trợ thêm để ý tưởng này thành
hiện thực.
Hoàng Sư Phụ


0 nhận xét:
Đăng nhận xét