"Văn minh có nghĩa là đạt được cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của con người. Nhưng cái tạo ra những tiện nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người là kiến thức và đạo đức, bản chất của văn minh chính là quá trình phát triển kiến thức và đạo đức con người" - Fukuzawa Yukichi
"Thích điều nhân mà không thích học thành ra người ngu, thích mưu lược mà không thích học thành ra người tặc, thích điều thẳng mà không thích học thành ra người giảo, thích đức dũng mà không thích học thành ra người loạn, thích cương cường mà không thích học thành ra người cuồng!" - Khổng Tử
"Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự bạo ngược bất công là soi sáng đến hết mức có thể tâm trí của quần chúng và đặc biệt là cho họ tri thức và sự thật." - Thomas Jefferson
"Hòa bình không có nghĩa là hết xung đột; sự khác biệt luôn hiện diện trong quan hệ giữa người và người. Hòa bình là giải quyết sự khác biết đó thông qua những phương pháp ôn hòa; bằng đối thoại, giáo dục, sự hiểu biết; và bằng những cách thức khác mang tính nhân bản." - Dalai Lama

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Hoài nghi và chân lý

Socrates: Tôi chỉ biết một điều là tôi không biết gì cả.

Hoài nghi không phá vỡ chân lý, mà ngược lại, làm mới và nâng đỡ chân lý trong một chu trình biện chứng bất tận không ngừng nghỉ của nhận thức.

Hoài nghi 

Phương Tây có một câu châm ngôn được sử dụng phổ biến: Hãy nghi ngờ tất cả!

Vì sao người phương Tây lại đặt nặng việc hoài nghi như vậy? Vì qua truyền thống khoa học và triết học, họ phát hiện ra rằng: Hoài nghi là khởi đầu của tiến bộ, là con đường đi tới chân lý, là sự giải phóng lý trí triệt để nhất.

Khi lý trí hoài nghi, lý trí quay lại tự vấn chính bản thân mình, từ đó tự giải phóng cho mình khỏi tình trạng lệ thuộc vào lý trí của kẻ khác hoặc những giáo điều và quán tính tư duy sẵn có.

Truyền thống hoài nghi trong tư duy của phương Tây được khởi đầu từ triết học, trước hết qua phép truy vấn biện chứng của Socrates, sau đó lan sang khoa học, và hoàn thiện trở thành thói quen tư duy lành mạnh, một phương tiện quan trọng để đi tới chân lý.

Socrates đã sử dụng hoài nghi như một phần tất yếu của truy vấn biện chứng: khi một ý tưởng hoặc một nhận định được nêu ra như một chính đề, thì sẽ ngay lập tức bị hoài nghi nhằm xác định lại tính đúng đắn của nó dưới dạng một phản đề, rồi trên cơ sở đó hình thành nên một hợp đề có tính chân lý cao hơn. Hợp đề, đến lượt nó, lại trở thành chính đề cho một quá trình truy vấn mới, cho đến khi đạt được chân lý, hoặc thực tiễn hơn, đạt đến giới hạn của nhận thức tại thời điểm đó. Như thế, hoài nghi không chỉ là phương tiện để đạt được chân lý, mà còn giúp xác định được giới hạn của tri thức và phạm vi áp dụng của chân lý.

Câu nói nổi tiếng của Socrates là: Tôi chỉ biết một điều là tôi không biết gì cả. Nhưng nghịch lý ở chỗ, người không biết gì cả này lại được coi là người thông thái nhất đương thời. Khi Chaerephon, một người bạn của Socrates, đến hỏi nhà nữ tiên tri, cũng là vị tư tế ở đền thờ Thần Mặt Trời thành Delphi, rằng có ai thông thái hơn Socrates không, thì được trả lời: Không!

Socrates không chấp nhận những niềm tin hay xác tín đã bám rễ lâu đời trong truyền thống và huyền thoại. Chính ông đã thôi thúc người đối thoại phải biện minh và cắt nghĩa những xác tín của mình thông qua một chuỗi những câu hỏi truy vấn liên tục – hình thức cụ thể của hoài nghi.

Sau Socrates, Decartes – nhà Triết học và Toán học Pháp – cũng đã sử dụng hoài nghi như một phương tiện chủ đạo để xác lập tính tuyệt đối trong các kết luận của mình, nhằm làm nền tảng cho việc xây dựng hệ thống tri thức về sau. Ông nghi ngờ mọi thứ, ngay cả sự tồn tại của bản thân mình, nhằm quét sạch mọi quan niệm đã có, để từ đó từng bước xây dựng hệ thống tri thức của mình một cách khả tín và vững chắc. Chính việc hoài nghi này, đã dẫn ông đến một kết luận nổi tiếng về sự tồn tại của bản mình qua câu nói: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại.

“Sự tiến bộ của nhận thức, không chỉ đạt được do tìm ra những mảnh đất tri thức mới chưa từng khai phá, mà còn do tìm ra những cách nhìn mới về một sự vật hiện tượng cũ”. Hoài nghi những cách thức nhìn nhận cũ chính là cách dễ nhất để tìm ra những cách nhìn nhận mới đó. Vì thế, hoài nghi vừa là xuất phát điểm, vừa là động lực của việc mở mang tri thức.

Khi mất khả năng hoài nghi, lý trí sẽ trở nên tê liệt. Một người không biết hoài nghi, tức một người hành động theo những niềm tin được lập trình trước, về bản chất không khác gì so với một cỗ máy.

Khả năng hoài nghi, biểu hiện trước hết bằng khả năng tự đặt câu hỏi và chối bỏ áp đặt của truyền thống và xác tín giáo điều, theo một nghĩa nào đó, chính là thước đo mức độ trưởng thành của một con người. Nếu một người không có khả năng hoài nghi, chỉ tin vào những tín điều do người khác giao giảng, thì về bản chất, người đó vẫn còn ở thời kỳ thơ ấu.

Với một xã hội, cũng giống như một cá nhân, khả năng hoài nghi và chối bỏ áp đặt cũng chính là thước đo sự trưởng thành về mặt tinh thần của xã hội đó. Nếu một xã hội không biết hoài nghi, chỉ đồng thuận tin theo những tín điều, thì xã hội đó còn chưa thoát khỏi thời kỳ ấu trĩ.

Vì thế, ngăn chặn khả năng hoài nghi của một cá nhân, trực tiếp hoặc gián tiếp, chính là phá hoại sự phát triển lành mạnh của cá nhân đó; hạn chế khả năng hoài nghi của xã hội chính là kéo lùi sự phát triển lành mạnh của xã hội đó.

Chân lý

Chân lý là đích đến của việc tìm kiếm tri thức. Nhưng chân lý không bất biến, vĩnh cửu. Chân lý luôn được cập nhật cùng sự phát triển của nhận thức. Và một trong những cách thức chủ yếu để cập nhật chân lý là hoài nghi chân lý đó. Hiểu như thế thì hoài nghi là bổ trợ của chân lý chứ không phải là chống đối chân lý.

Thực tế trong khoa học và triết học cho thấy, biết đặt câu hỏi thậm chí còn quan trọng hơn biết câu trả lời. Vì biết đặt câu hỏi là biết xúc tiến một hành trình đi tìm chân lý, còn biết câu trả lời là tạm thời chấm dứt hành trình đó.

Điều này cho thấy, giữa hoài nghi và chân lý có mối quan hệ biện chứng qua lại lẫn nhau, bổ trợ lẫn nhau. Không thể đạt được chân lý nếu không biết cách hoài nghi lành mạnh. Và chân lý, với tính tương đối của nó, nếu không có hoài nghi để tự hoàn thiện mình, sẽ tha hóa thành giáo điều dưới sự phát triển của những nhận thức mới.

Nếu nhìn qua những thành tựu của tư tưởng của nhân loại, sẽ không có thành tựu nào thiếu vắng hoài nghi như một sự dẫn đường. Những đỉnh cao mới ra đời, đều xuất phát từ sự hoài nghi một đỉnh cao cũ, và tìm cách vượt qua nó bằng một quá trình nhận thức mới.

Những thành tựu của khoa học kĩ thuật đạt được không phải bởi tư duy tư biện của lý trí thuần túy, mà phần lớn bởi những thực nghiệm và quan sát được thiết kết để kiểm tra – một biểu hiện cụ thể của hoài nghi -một giả thuyết đã xác lập. Hoài nghi vì thế là linh hồn của mọi hoạt động nghiên cứu tìm tòi.

Những thành tựu của Toán học và Vật lý học cho thấy, sự bất toàn, bất định và bổ sung nhau là bản chất của tri thức. Nên hoài nghi – đặc tính gắn liền với sự bất toàn và bất định – trở thành đặc tính không thể tách rời của chân lý. Chính hoài nghi đã thổi sức sống cho chân lý, làm cho chân lý sống động, uyển chuyển, luôn tự cập nhật làm mới mình dưới ánh sáng của những nhận thức mới.

Nếu tách hoài nghi ra khỏi chân lý, chân lý sẽ mất hết sức sống và trở nên cằn cỗi, xơ cứng theo thời gian. Chân lý sẽ thoái hóa trở thành giáo điều và kìm hãm, thậm chí phá hoại, quá trình nhận thức những chân lý mới đúng đắn hơn.

Như vậy, hoài nghi không phá vỡ chân lý, mà ngược lại, làm mới và nâng đỡ chân lý trong một chu trình biện chứng bất tận không ngừng nghỉ của nhận thức. Và để đạt được chân lý, khả năng hoài nghi cần phải được khai phóng như một sự tất yếu.

TS. Giáp Văn Dương
Nguồn: Tia Sáng

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

Tương lai của xã hội dân sự

Benjamin Barber
Giáo sư Chính trị học phụ trách Chương trình Walt Whitman, thuộc Đại học Rutgers, New Jersey 

Đây là bài nói chuyện của Giáo sư Barber trong buổi hội thảo về Xã hội Dân sự do Civnet tổ chức năm 1997. Bài này được đăng lại trong Tập san Xã hội Dân sự, bộ I, số 1, năm 1997. Những chỗ in nghiêng trong bản dịch là của người dịch để nhấn mạnh.
 
Tôi xin chân thành cám ơn Penn Kemble, Joseph Duffey và Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ đã mời tôi đến nói chuyện ngày hôm nay, dù biết tôi là một người hay "kiếm chuyện," một người mà hầu như chẳng khi nào dùng những mỹ từ sáo rỗng khi nói về dân chủ. Tôi thì lại nghĩ rằng họ khuyến khích tôi tới chỉ vì họ hiểu rằng, trên tất cả mọi thứ, dân chủ tức là "kiếm chuyện," là đặt vấn đề, là đương đầu với quyền lực, là thách thức các giáo điều, ngay cả đó chính là giáo điều dân chủ. Và bởi vì họ đánh giá đúng đắn rằng sau hơn 200 năm, người Mỹ cũng không nhất thiết đã tiến gần hơn tới việc thực thi được hoàn toàn dân chủ so với những nước chỉ mới có hai mươi hay chỉ hai năm kinh nghiệm về dân chủ. Những vấn đề về sắc tộc và giai cấp vẫn còn gây nhức nhối cho nước Mỹ. Penn Kemble, ngày hôm qua, đã yêu cầu những người trong hội trường này giơ tay lên nếu trong nước của họ vẫn còn có xung đột về sắc tộc. Tôi là một trong những người đó. 

Chính vì bản chất của nó mà dân chủ là một tiến trình của một cuộc thử nghiệm đang diễn ra, chứ không phải là cứu cánh hay là một tập hợp các giáo điều cứng ngắc. 

Nếu chúng ta, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, không tiếp tục gìn giữ nó, thì những lý tưởng dân chủ sẽ trở nên chẳng khác gì các ý thức hệ khác. Một xã hội mở có nghĩa là một xã hội không bao giờ có sự chấm dứt thảo luận. Một xã hội mở ra cho các thách thức và phê phán. Khi một nước tuyên bố rằng công cuộc xây dựng dân chủ tại đó đã xong, thì điều đó cũng có nghĩa là nền dân chủ cũng đã chấm dứt tại đó. Trong tinh thần hoài nghi của dân chủ, tôi muốn đặt ra một số vấn đề khó khăn mà chúng ta, những nhà giáo dục, phải đối diện. Đây là những vấn đề mà câu trả lời sẽ ảnh hưởng đến tất cả những người dân chủ, thế hệ già cũng như trẻ. Sau đây là 4 vấn đề có liên quan với nhau. 

Thứ nhất: dân chủ có xuất cảng được không? Liệu dân chủ có phải là một món hàng mà người ta có thể gửi qua đường bưu điện, hay qua FedEx hay qua điện thư tới những người không có nó chăng? 

Thứ hai: Có phải dân chủ chỉ là một chức năng của định chế chính trị và là một hiến pháp được viết thành văn cùng với đạo luật về dân quyền?  Có phải tự do có thể chiến thắng được bằng cách viết ra hay đi mượn một hiến pháp của người khác hay chế tạo ra một mô hình quốc hội?
Thứ ba: Có phải dân chủ đồng nghĩa với thị trường không? Có chắc là sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản và sự đắc thắng của chủ nghĩa tư bản sẽ đưa đến việc thiết lập thể chế dân chủ hay không? 

Và thứ tư: Có phải dân chủ được thiết lập nhờ vào sự lãnh đạo kiên quyết của những chính trị gia anh hùng, hay những nhà lãnh đạo lỗi lạc như Churchills, de Gaulles, Roosevelts, và Havels? 

Câu trả lời ngắn gọn của tôi cho các câu hỏi đó là: không, không, không, và không... 

Niềm tin cho rằng dân chủ là món hàng có thể xuất cảng được là huyền thoại thứ nhất; cho rằng dân chủ chỉ là một hình thức của chính quyền là huyền thoại thứ hai; cho rằng dân chủ thoát thai từ chủ nghĩa tư bản là huyền thoại thứ ba; cho rằng dân chủ được thiết lập nhờ các nhà lãnh đạo anh hùng là huyền thoại thứ tư, và bốn huyền thoại này là những huyền thoại có sức quyến rũ nguy hiểm đối với những nhà dân chủ tương lai. Tôi sẽ nói một chút về mỗi huyền thoại này. 

Về huyền thoại thứ nhất, thực ra chúng ta--những người Mỹ, Tây Âu, chứ không phải những người ở Đông Âu, Nga, Phi châu, và Á châu cùng với các nước đang có chuyển biến xã hội--mới là những người cần nhớ là dân chủ chưa bao giờ là một món quà của một dân tộc này trao cho dân tộc khác, mà nó là một kết quả rất tốn kém giành được từ những cuộc đấu tranh gian lao tại địa phương. Dân chủ là kết quả giành được, chứ không phải là món quà để cho, đó cũng là điều mà rất nhiều quý vị ngồi đây đã chứng minh, cũng như nước Mỹ đã chứng minh cho cả thế giới hơn hai trăm năm trước đây. 

Hơn nữa, dù cho những cuộc đấu tranh cho dân chủ ở khắp nơi đều được đặt trên căn bản của những lý tưởng đã được chấp nhận trên toàn thế giới, các cuộc đấu tranh này và các chế độ dân chủ khi được hình thành cũng rất khác nhau. Trong những năm trước khi cuộc cách mạng tại Mỹ xảy ra, các tiểu bang theo Thanh giáo như tại Massachussetts, cấp tiến như tại Pennsylvania và những tiểu bang có nô lệ tại miền Nam đều có những hệ thống chính trị khác nhau. Và những định chế chính trị địa phương của chúng ta ngày nay thể hiện sự khác biệt này. Cây dân chủ mọc lên khác nhau theo từng xứ, và ở mỗi nước, cây dân chủ trưởng thành khác nhau. Người dân Thụy sĩ coi trọng quyền của cộng đồng hơn quyền của cá nhân. Anh quốc không có sự phân quyền rõ rệt, trong khi người Mỹ lại cho rằng không thể tách rời sự phân quyền ra khỏi chính quyền. Hiến pháp mới của Ethiopia lại phải đề cập tới truyền thống bộ tộc. Ba-lan là một nước theo Công giáo và không thể xóa mờ ảnh hưởng của Công giáo ra khỏi các định chế chính trị mới xây dựng, trong khi đó Ái-nhĩ-lan lại không có sự phân cách giữa giáo hội và nhà nước. Nước Đức theo thể chế liên bang, còn Pháp lại là nước theo thể chế chính quyền trung ương. Những sự khác biệt giữa các nền dân chủ đã được thành lập cho ta thấy sẽ còn rất nhiều những sự khác biệt trong những nền dân chủ mới đang được thành lập. 

Các nền dân chủ mới cần tìm ra cho mình các định chế thích hợp và, tôi tin rằng, sẽ thành công khi tìm từ các nguồn cảm hứng ngay trong lịch sử và văn hóa của chính mình. Tỷ dụ định chế cộng đồng làng xã ở Nga, hay tổ chức hữu nghị của Romania, hay ngay cả Ủy ban Lao động của thời Xô-viết cũng là một cơ cấu đáng lưu ý, miễn hồ cơ cấu này không bị những người Bolshevic hay Cộng sản lũng đoạn. Từ bỏ chủ nghĩa cộng sản không nhất thiết phải quăng hết vào thùng rác các chiến lược kinh tế khác như hợp tác xã hay nhân viên được chia cổ phần của công ty. Vào thời cổ, người ta thường nói rằng: "Đừng tin người Hy lạp, nhất là khi họ mang theo quà tặng." Các nền dân chủ mới cũng vậy, quý vị cũng nên nghi ngờ những nền dân chủ đã thành hình nhất là khi họ mang theo những lời khuyên làm quà tặng. Kể cả những điều do tôi cố vấn. Cuộc thử nghiệm dân chủ độc đáo của nước Mỹ chỉ có thể được mô phỏng hoặc vay mượn khi mỗi nước cũng thấy được mô hình dân chủ của chính mình cũng độc đáo và cũng mang tính chất thử nghiệm. Điều này trở nên rõ rệt hơn khi chúng ta bàn đến vấn đề sự thể hiện của dân chủ qua các định chế chính trị. 

Đến đây tôi xin nói về huyền thoại thứ hai, tức là huyền thoại cho rằng dân chủ chỉ gồm một số các định chế chính trị, như những chiếc xe cũ có thể xuất khẩu được từ nước này sang nước nọ: Chỉ cần thay vài bộ phận mới, chỉnh chỗ này một tý, sửa chỗ kia một tý cho hợp với khí hậu, là ta có thể lái đi bất cứ nơi đâu. Nhưng dân chủ không phài là bản họa đồ của xe hơi. Cây dân chủ không thể bị áp đặt từ trên xuống, mà phải mọc từ dưới lên. Xin nhớ: Hiến Pháp không tạo nên dân chủ, mà chính dân chủ tạo nên hiến pháp. Đạo luật về dân quyền không tạo ra quyền mà chỉ điển chế hóa các dân quyền đã được định nghĩa, đã do người dân giành được qua đấu tranh. Nước Mỹ có một trăm năm mươi năm kinh nghiệm về xã hội dân sự và văn hóa công dân địa phương trước khi những kinh nghiệm này được ghi vào trong hiến pháp và đạo luật dân quyền. Nước Anh cho đến nay vẫn còn chưa viết thành văn bản hiến pháp quy định các quyền tự do mà dân Anh đã được hưởng từ nhiều thế kỷ. Đạo luật dân quyền chẳng qua chỉ là một miếng giấy! Như Madison[1] đã từng nói, "Một thứ rào cản bằng giấy" không thể nào bảo vệ được cho tự do thực sự. Không có công dân thì sẽ không có tự do, và nếu không có giáo dục và văn hóa công dân, thì sẽ không có công dân--đó là lý do tại sao công việc của quý vị trong tư cách những nhà giáo dục, những nhà hoạt động xã hội, những nhà hoạt động cộng đồng thiện nguyện, phi-chính phủ lại trở nên vô cùng quan trọng. Dân chủ, như John Dewey đã nói, không phải là một mô hình chính quyền, mà là một cách sống, là một tập hợp của những thái độ cư xử đã thành tập quán, của sự suy tư vừa độc lập vừa hợp tác, của cả những mâu thuẫn và đồng thuận về quan điểm. Nước Liên Xô cũ có một đạo luật về dân quyền tuyệt hảo đấy chứ, tôi rất ngạc nhiên khi một sinh viên đọc cho tôi nghe đạo luật này. Nó còn tốt hơn cả đạo luật về dân quyền của Mỹ! 

Nhưng dĩ nhiên, nó chỉ là một mảnh giấy vô dụng, bởi vì không có công dân [yểm trợ], nó hoàn toàn vô nghĩa. 

Nước Nga ngày nay và các thành viên khác của Liên Xô cũ đã có những định chế dân chủ được thiết lập, nhưng sự khó khăn đang xảy ra tại những nước này, như quý vị đều biết, là tạo được cho những định chế này một căn bản về xã hội dân sự, về tôn giáo dân sự, về lòng khoan dung và tương trợ trong giao tế. 

Và để xây dựng những điều này cần có thời giờ. Sự kiên nhẫn là đức tính vĩ đại nhất của dân chủ, nhưng ta lại luôn luôn thiếu đức tính này. Hỡi những quý vị đang ở trong những nước mới giành được dân chủ hay đang chuyển tiếp sang dân chủ, quý vị mong muốn làm được trong 6 tháng hay 6 năm những điều mà chúng tôi, những nước đã có dân chủ ổn định, đã làm trong 60 hoặc 600 năm mà vẫn chưa xong. Và những vấn nạn của quý vị, dĩ nhiên, không phải là những vấn nạn dễ dàng giải quyết, vì sự quan tâm của quần chúng đối với các vấn đề xã hội -trong cả những nước dân chủ cũ và mới-đang bị những thế lực khác thu hút. Những nhà giáo dục thực sự của thanh thiếu niên ở Mỹ, Âu châu, Phi châu, và Á châu không phải ở trong học đường, các giáo đường Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, hay Do Thái giáo, hay trong gia đình, mà là ở vô tuyến truyền hình và phim ảnh. Liệu một giờ giáo dục công dân, mỗi tuần một hay hai lần, có thể cạnh tranh với MTV được không? Liệu một cuộc vận động tranh cử có thu hút được sự chú tâm của cử tri bằng một giờ phim "bộ" không? Liệu chúng ta có thể dạy về hòa bình trong khi phim ảnh cổ xúy bạo lực không? Liệu một nhóm NGO hay ngay cả hai mươi lăm ngàn tổ chức NGO có so sánh được với McDonalds hay Microsoft, hay công ty Walt Disney không? Diễn giả Cooke, tối hôm qua, đã nhắc chúng ta rằng, dù tốt hay xấu thì phim ảnh cũng là nhà giáo trong thời đại của chúng ta. Rủi thay, đó lại là nhà giáo dở. Tôi cũng để ý thấy phần lớn những phim mà diễn giả Cooke lựa chọn, toàn là những phim đã hai mươi, ba mươi, hay bốn mươi tuổi. Gần đây ta không còn thấy những phim ảnh loại này nữa. Những bài học của Oliver Stone, Kevin Costner và Arnold Schwarzeneger không phải là, và không thể là những bài học công dân. Mục đích của những bài học này rất đơn giản: kiếm được nhiều tiền lời so với số tiền đã đầu tư. Những bài học này không phải để gieo truyền dân chủ mà chỉ để bán cho được nhiều vé. 

Và đó chính là sự khác biệt. 

Sự khác biệt này dẫn đến điều thứ ba, một huyền thoại mà theo tôi khó giải thích nhất. Trước hết, dân chủ không đồng nghĩa với thị trường tự do. "Cái" tự do để mua một lon Coke hay một cuốn video phim Lion King không phải là thứ tự do để xác định xem là ta sẽ sống với nhau như thế nào và ở dưới thể chế nào. Coke, McDonalds và MTV, xin quý vị đừng quên, đều có mặt ở Singapore, Trung Hoa, và Trung Đông, và ở những nơi không có dân chủ, cũng như có mặt ở Nga, Cộng hòa Tiệp, Đức, và Mỹ. Mặc dù tôi không có ý phản bác lập luận đồng hóa dân chủ với thị trường, nhưng tôi sẽ phải làm điều đó. Lịch sử đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản không tạo ra dân chủ. Chính dân chủ mới tạo ra chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản cần đến dân chủ. Điều đó đúng, nhưng không nhất thiết chủ nghĩa tư bản biết cách tạo ra và duy trì dân chủ. 

Huyền thoại thị trường, theo tôi, là một huyền thoại hiểm độc nhất, bởi vì có quá nhiều người tin vào nó. Bởi vì cái cùm của thị trường quá êm ái, và bởi vì ảnh hưởng của nó quá vô hình. Quá nhiều người tin rằng chỉ cần thay đổi chủ nghĩa cộng sản cùng với nền kinh tế chỉ huy của nó bằng chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường là đủ để củng cố dân chủ. Nhưng tôi e rằng người ta đã lầm lẫn tai hại giữa một bên là thị trường được điều tiết uyển chuyển-phương tiện hữu hiệu nhất để gia tăng sản xuất và tích lũy tài sản, với một bên là thị trường hoàn toàn tự do để người ta sản xuất và phân phối mọi thứ, từ hàng hóa đến các giá trị tinh thần, từ sự phát triển tư bản đến công bằng xã hội, từ lợi nhuận đến bảo vệ môi trường, và từ tài sản cá nhân đến tài sản chung của đất nước. 

Lập luận này khiến cho một số người yên chí rằng cứ giao các chức năng công cộng như giáo dục, văn hóa, an sinh xã hội, môi trường, và công ăn việc làm cho lãnh vực tư nhân của thị trường là xong cả. Nhưng thị trường không phải được thiết lập ra để làm công việc của các định chế chính trị dân chủ. Thị trường tạo ra một môi trường thảo luận để cho chúng ta, những người tiêu thụ, cất lên tiếng nói bằng tiền bạc với những nhà sản xuất hàng hóa; chứ không phải là một diễn đàn công cộng để chúng ta, những công dân, thảo luận với nhau như một tập thể về những hệ quả xã hội phát xuất từ những chọn lựa riêng tư trong thị trường. Thị trường gia tăng các mục tiêu cá nhân hơn là mục tiêu xã hội và cho phép ta, từng người một, nói rằng: Tôi muốn có một đôi giày Nike, hay một cái máy VCR, hay mua tiền Yen hoặc bán đồng đô-la. Nhưng thị trường không cho phép ta nói một tiếng nói chung rằng khu vực nội-vi thành phố[2] cần có một trung tâm thể thao mới, hay là có quá nhiều bạo lực trên truyền hình và phim ảnh, hay chúng ta cần kiểm soát Ngân hàng Thế giới. 

Thị trường không có chỗ cho "tư duy chung" hay "hành động chung," mà đặt hy vọng vào sức mạnh do nhiều lựa chọn cá nhân kết hợp lại, sẽ một cách nào đó, mang lại lợi ích chung. Người tiêu thụ sử dụng ngôn ngữ "tôi," trong khi công dân dùng ngôn ngữ chung "chúng ta." Thị trường mang tính chất giao kèo giữa cá nhân hơn là tập thể khiến cho tự ái cá nhân được thỏa mãn, nhưng không thỏa mãn được khát vọng tập thể. Thị trường mang lại cho ta những sản phẩm bền chắc và những mơ ước phù du, nhưng không đem lại cho ta được một căn cước chung của những thành viên trong một cộng đồng. Và điều này tạo cơ hội cho sự thành hình những mô hình tập thể phi-dân chủ như ở các bộ tộc dã man. 

Là những công dân, chúng ta đối phó như thế nào đối với những sự sai trái dù không cố ý do thị trường quốc gia cũng như toàn cầu gây nên? Liệu ta có thể tạo nên được cái "chúng ta" liên-quốc gia từ những "cái tôi" tham lam của người tiêu dùng không? Thị trường cung cấp cho ta sản phẩm, nhưng không cung cấp cho ta đời sống mà ta muốn; nó tạo phồn vinh cho một số người, nhưng cũng gây khốn nạn cho những người khác, và làm mất hết lòng tự trọng ngay cả đối với những kẻ giàu có. Năm trăm đại công ty đa- quốc gia đứng hàng đầu thế giới có ảnh hưởng hơn không những hai mươi lăm ngàn NGO, mà còn hơn cả gần 200 quốc gia trên thế giới, và càng ngày những công ty này, chứ không phải các quốc gia, càng có nhiều quyết định ảnh hưởng đến tương lai của toàn nhân loại. Những công ty này cần có những tổ chức dân chủ của công dân để tồn tại và hoạt động, nhưng họ không biết làm thế nào để sản xuất ra những tổ chức này. 

Đó chính là nghịch lý của thị trường. Nó không thể tồn tại trong một thế giới [đầy dẫy những cạnh tranh] mà chẳng chóng thì chày nó cũng tạo ra, nếu nó không được điều tiết bởi các lực lượng dân chủ và công dân, mà chẳng chóng thì chày những lực lượng này cũng bị nó làm cho suy yếu. Những hệ quả thảm khốc xảy ra từ việc áp dụng các mô hình chính trị theo khuôn mẫu lý thuyết kinh tế vĩ mô đã quá hiển nhiên tại những nước từ Nga tới châu Mỹ La tinh và Phi châu, nơi O'Donnell, một khoa học gia về chính trị đã nói: "Khi không gian tư phát triển, thì không gian công sẽ sụp đổ." Và ông kết luận một cách đơn giản và khẳng quyết rằng tư nhân hóa không phải là dân chủ hóa. Như vậy, không những ta cần phải tiến xa hơn cái mô hình dân chủ của thị trường, mà thị trường cũng cần phải có các lực dân chủ để điều chỉnh nó thì nó mới tồn tại được. Thị trường, tự nó sẽ không tạo ra dân chủ. Để bảo đảm công ăn việc làm, y tế công cộng, an sinh xã hội, giáo dục, văn hóa đa dạng và cạnh tranh thực sự, thị trường rồi sẽ bị sét rỉ, bào mòn dần đi, không phải vì ác ý, nhưng vì người ta thờ ơ và quan tâm đến những điều khác. Chủ nghĩa tư bản cần tất cả những điều này, nhưng tự nó không sản xuất ra được. 

Và ở đây có một điều nguy hiểm, nhất là tại những xã hội cựu cộng sản. Song song với sức quyến rũ của thị trường và tư nhân hóa đang xảy ra tại những nước này, nỗi sợ về sự độc tài chuyên chính của chính quyền [trong quá khứ] dẫn đến nỗi sợ về tất cả những sự can thiệp của chính quyền và sợ luôn cả chính quyền dân chủ. Tôi đã thấy người dân tại các nước Đông Âu và Xô-viết rất ngại ngùng khi nói đến cộng đồng hay sự đoàn kết của công dân. Tôi cũng hiểu rằng chương trình công dân giáo dục có thể làm cho họ nhớ lại chuyện bị nhồi sọ hay một hình thức tuyên truyền mới của nhà nước. Nhưng nếu họ nghĩ rằng cứ để những điều cần thiết vừa nêu cho thị trường và để cho thị trường làm những việc mà chính quyền dân chủ phải làm, thì đó lại là một thứ huyền thoại đáng ghê sợ. 

Thế thì chúng ta phải làm gì nếu dân chủ không phải là vay mượn hay được tạo mẫu bằng một vài cải cách chính trị hay tư nhân hóa? Có phải ta cần có những anh hùng để mang lại cho ta tự do hay không? Đến đây là huyền thoại cuối cùng tôi muốn trình bày với quý vị. Tôi nghĩ, và tôi tin là rất nhiều quý vị cũng chia sẻ niềm tin này như tôi, là phẩm chất của một nền dân chủ không do phẩm chất của nhà lãnh đạo tạo nên mà do chính phẩm chất của công dân. Chỉ có những chế độ Phát-xít, cộng sản và độc tài mới cần có các lãnh tụ vĩ đại để tồn tại. 

Các chế độ này chẳng có gì hơn là các nhà lãnh đạo của họ. Họ chỉ có thế thôi. Dân chủ cần có những công dân hữu hiệu, những người dân nam, nữ bình thường làm những việc phi thường một cách liên tục và đều đặn. Trong vở kịch Galileo của Bertolt Brecht, có một màn trác tuyệt, khi một nhân vật nói với một nhân vật khác: "Thương thay cho một nước không có anh hùng." Và nhân vật kia trả lời: "Không, thương thay cho một nước cần có những anh hùng." Dân chủ là một hình thức chính quyền không cần có anh hùng, và một quốc gia có nền dân chủ thành công không cần có anh hùng. Năm 1890, trong một cuộc họp của đảng Nhân dân[3] sau khi đảng này bị thất cử vì kế hoạch kinh tế của họ không thu hút được sự ủng hộ của đa số trong xã hội, một đảng viên đã nói với Eugene Debs, lãnh tụ của đảng, như sau: "Thưa lãnh tụ, người phải lãnh đạo chúng tôi và đưa chúng tôi ra khỏi tình trạng tối tăm này." Eugene Debs đã trả lời: "Tôi sẽ không làm điều này. Tôi không thể làm được. Và nếu có làm được, tôi cũng không làm. Vì nếu tôi có thể đưa các bạn thoát ra cảnh tối tăm này, thì chính tôi cũng có thể đưa các bạn vào trở lại." Tại vô số các nền dân chủ mới, tôi thấy bóng ma của nhân dân nam nữ được các anh hùng dẫn ra khỏi bóng tối của chủ nghĩa cộng sản, rồi sau đó thất vọng, lại bị dẫn vào trở lại trong sự tối tăm của chủ nghĩa quốc gia bởi chính những anh hùng đó. Chúng ta cần những xã hội được miễn nhiễm đối với chủ nghĩa anh hùng loại đó, những xã hội mà công dân chính là người lãnh đạo của chính họ, và làm những việc cần làm một cách bình thường mỗi ngày. 

Công việc xây dựng dân chủ, nói cách khác, là công việc của chính chúng ta, những việc khó khăn, đời thường, và không bao giờ chấm dứt của giáo dục công dân; công việc của những tổ chức phi-chính phủ đang cố gắng xây dựng nên một xã hội dân sự liên-quốc gia. 

Và tôi sẽ bắt đầu bằng cách đặt tên lại cho những tổ chức phi-chính phủ. Tổ chức phi-chính phủ, cái tên nghe ghê rợn xiết bao. Không thể nào có điều gì tốt phát xuất từ những thực thể được định nghĩa bằng phủ định. Chắc chắn là những tổ chức này phải hơn hẳn những cái gọi là "phi-chính phủ" chứ. Đó là những tổ chức công.[4] Đó là những tổ chức phi-thương mại, phi-tổ hợp, và hoàn toàn tự nguyện. Những tổ chức này phi-tư nhân, hiểu theo nghĩa đó là của riêng của cá nhân, và phi-nhà nước nhưng không mất đi quan tâm chung về công bằng và phúc lợi công cộng. Những tổ chức này là sức mạnh vĩ đại của chúng ta, tôi tin như vậy. Nhưng những tổ chức này không nên được gọi là "phi-chính phủ" mà phải gọi là những tổ chức "của công dân" (pro-civic). Hãy gọi đó là những "tổ chức công dân" hay "hiệp hội dân sự," những tổ chức đứng giữa một bên là chính quyền đã trương phồng quá mức và một bên là các công ty tư nhân cũng trương phình quá mức. Những tổ chức dân sự này xác định một lãnh vực quan yếu, nơi mà tự do được nuôi dưỡng và phát triển. 

Lãnh vực này là của chúng ta. Nó thuộc về chúng ta. Không gian dân sự là không gian của chúng ta. Nhưng đối với phần đông, ngày nay, không gian này chỉ hiện hữu trong sự tưởng tượng. Trong thực tế, ta có những khu thương xá, rạp hát, và cơ quan hành chánh, nhưng có rất ít không gian dân sự như cái không gian chúng ta vừa tạo ra tại đây trong mấy ngày qua. Tôi không biết chắc mô hình tương lai của xã hội dân sự sẽ như thế nào, dù đề tài của buổi hội thảo này là "Tương lai của xã hội dân sự." Tôi khá là bi quan, như quý vị đã thấy, một phần vì những huyền thoại tôi vừa trình bày đã được phát tán quá rộng, quá mạnh và quá độc hại. Tôi chỉ biết rằng nếu không có một xã hội dân sự khỏe mạnh, thì sẽ không có những công dân, mà chỉ có những người tiêu dùng hay thần dân của những nhà nước bạo ngược. Và nếu không có công dân, thì cũng sẽ không có dân chủ. Có một tin mừng là chúng ta còn có một sự lựa chọn. Các nhà giáo dục, các nhà tổ chức cộng đồng, các tổ chức NGO hiện diện trong phòng này, và tất cả các bạn ở mọi nơi, chúng ta có thể thay đổi tình hình. Nhưng công việc này thì khó khăn, chướng ngại vật thì lại nhiều vô kể, và những huyền thoại vẫn còn đang lan truyền khắp chốn. Khoảng hai trăm, hay hai trăm năm chục năm trước, trước cả khi xảy ra Cách mạng Pháp rất lâu, Jean Jacques Rousseau đã nói: "Tự do là một loại thực phẩm dễ ăn, nhưng khó tiêu." Nếu ta không cẩn thận, ở New York và Washington, cũng như ở Prague, Moscow, London, Paris, và ở Ethiopia hay Singapore, thì có thể chúng ta trong thế kỷ tới sẽ tạo ra những xã hội không những không có tự do, mà còn vĩnh viễn mang chứng khó tiêu. 

Cám ơn quý vị đã theo dõi. 

© Học Viện Công Dân 

"Benjamin Barber deflates the four myths of democracy." Journal: Civnet's Journal For Civil Society. Vol. 1, No. 1 (May 1997)

[1] James Madison, một trong những "quốc phụ" của Mỹ. Ông là tác giả chính của mô hình chính quyền liên bang và hiến pháp của Mỹ tại Quốc hội Lập hiến năm 1787 tại Pennsylvania, và là tác giả của Đạo luật Dân quyền (Bill of Rights). Ông cũng là tổng thống đời thứ tư của Mỹ. 

[2]Các khu vực nội-vi thành phố (inner city) tại các thành phố lớn ở Mỹ thường là những khu nhà lụp xụp, nghèo nàn và nhiều tội ác. 

[3] Đảng Nhân dân được thành lập năm 1892 tại Mỹ, phát xuất từ phong trào do nông dân khởi xướng, chống lại tiến trình công nghiệp hóa đang diễn ra. Đảng này ra tranh cử tổng thống nhiều lần, nhưng không thành công. 

[4] Khái niệm "công" (public) còn khá mới với độc giả VN. Khi nói đến "của công," ta thường nghĩ ngay đến những gì của nhà nước, như trường công, nhà thương công. Tại Mỹ và Tây Âu, xã hội dân sự được quan niệm có 3 lãnh vực: tư nhân, chính quyền, và lãnh vực công. Lãnh vực công là lãnh vực của chung tất cả mọi người, không thuộc tư nhân cũng như chính quyền. Thí dụ như những đài phát thanh hay phát hình công (public radio, television)  tại Mỹ có ngân sách hoạt động hoàn toàn do tư nhân đóng góp và hoạt động theo tôn chỉ và mục đích do một Ban quản trị hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối về đường lối của bất cứ ai, kể cả chính quyền. Dĩ nhiên, những tổ chức công này phải tuân theo luật về tổ chức và tài chánh của nhà nước, nhưng chỉ như vậy mà thôi.


Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013

Năm trụ cột để hướng tới tương lai

Tư duy duy lý, văn hóa dân chủ, kinh tế thị trường, xã hội dân sự và quan trọng hơn hết, Nhà nước pháp quyền là năm trụ cột được đặt ra như là định hướng cho tương lai. Năm trụ cột này là tiền đế cho một xã hội sáng tạo, làm nên một đẳng cấp của một dân tộc…

Mục tiêu trong tương lai của Việt Nam, như vẫn được xác định là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phản ánh một lý tưởng tương đối phổ quát, liên quan đến những giá trị căn bản lâu dài của xã hội và con người nói chung. Những mục tiêu này có thể áp dụng cho nhiều nước khác nhau, với chính thể, tôn giáo và trình độ phát triển khác nhau. Với một nước Việt Nam đạt được những mục tiêu phát triển như thế, hẳn chúng ta sẽ có được tầm quan trọng như chúng ta đáng phải có trên trường quốc tế. Thế nhưng, câu hỏi rất quan trọng và cũng rất thực tế, đó là, để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta cần đạt được qua những điều kiện trung gian nào?

Để trả lời câu hỏi này, người ta buộc phải suy nghĩ nhiều hơn về những điều kiện cụ thể của Việt Nam, về yếu tố lịch sử, thể chế hiện thời, mô hình kinh tế và cấu trúc xã hội. Đồng thời, chi tiết hơn nữa là những chính sách phát triển tương ứng trong từng lĩnh vực, từ giáo dục đến kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.

Trong bối cảnh thực tế của Việt Nam hiện nay, tôi cho rằng chúng ta cần vun đắp được năm trụ cột để có một tương lai phát triển bền vững hướng đến mục tiêu đã đề ra.

Thứ nhất, cần xây dựng được con người Việt Nam có tư duy duy lý. Mặc dù con người về căn bản là tư duy theo logic, nhưng không phải dân tộc nào cũng đạt được trình độ tư duy duy lý. Trong lịch sử lâu dài của các dân tộc, có lẽ phương Tây chỉ tách ra như một nhóm nhỏ có tư duy duy lý từ thời đại Khai sáng. Nhiều người cho rằng thành tựu vĩ đại của sự duy lý phương Tây là khoa học máy móc hiện đại, là nhận thức về thế giới bằng khoa học rõ ràng khách quan. Nhưng tôi cho rằng thành tựu quan trọng hơn nhiều là thiết kế và tạo dựng được một xã hội, trong đó có những thiết chế cho phép khống chế được mối quan hệ duy cảm giữa người với người. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho một xã hội to lớn và phức tạp hoạt động trôi chảy. Người Việt Nam vẫn nổi tiếng là một dân tộc duy cảm, trọng tình hơn lý. Điều này hẳn đã giúp người Việt có sức mạnh quật cường khi bị đẩy đến chân tường. Nhưng trong một thế giới ngày càng đa dạng, quan hệ kinh tế – chính trị ngày càng phức tạp, với quy mô dân số to lớn, cần nhiều hơn lối tư duy duy lý để trật tự xã hội được duy trì và quyền lợi của dân tộc được bảo đảm. Một ví dụ là tinh thần tôn trọng giao kèo, thực hiện hợp đồng hay tuân thủ các quy định chung. Để con người Việt Nam duy lý hơn, chúng ta cần nền giáo dục thực tế và hiện đại hơn, cũng như việc điều chỉnh hệ thống chính sách về giáo dục, văn hoá, xã hội, hay tín ngưỡng của chúng ta ngày hôm nay.

Trụ cột thứ hai là nền văn hoá dân chủ. Nền dân chủ là niềm hãnh diện của các dân tộc văn minh, không phải vì nó được thể hiện như một tiêu chuẩn về mặt chính trị, mà vì nó cho phép thông tin được truyền tải và xử lý với quy mô lớn, nhờ thế khai thông nhận thức của các cá nhân, cộng đồng và giúp xã hội ra những quyết định đúng đắn hơn, bớt bất công và giảm tổn thương đến những nhóm thiểu số. Tuy nhiên, trước khi tiến tới thể chế dân chủ lành mạnh, một dân tộc cần thực sự được thấm nhuần trong một nền văn hoá dân chủ. Văn hoá dân chủ có thể tồn tại trước khi có một thể chế dân chủ, nếu một dân tộc có ý thức xây dựng nó. Mối quan hệ dân chủ cho phép hình thành con người độc lập về quan điểm, tư tưởng, nhân cách, và lối sống, đồng thời chia sẻ, tôn trọng sự độc lập tương ứng như thế của người khác. Lối sống có văn hoá dân chủ cần được xây dựng và bồi đắp từ trong quan hệ gia đình cho tới công sở, từ quan hệ giữa những cá nhân riêng lẻ cho tới những nhóm lợi ích… Về bản chất, cốt lõi của văn hoá dân chủ là khả năng dung thứ và đón nhận. Trong mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá dân chủ và thể chế dân chủ, tôi tin rằng văn hoá dân chủ có vai trò làm nền tảng, vì một nền văn hoá dân chủ phát triển có thể dễ dàng sinh ra một nền chính trị dân chủ chân chính, trong khi đa phần những nền chính trị dân chủ được dựng lên từ một xã hội còn xa lạ với văn hoá dân chủ, đều có khuynh hướng biến thái thành những thể chế phi dân chủ một cách tinh vi.

Trụ cột thứ ba, giờ đây đã không còn xa lạ với Việt Nam, là nền kinh tế thị trường. Bản thân thị trường là một cơ chế tổ chức sản xuất cao cấp và ưu việt nhất mà con người từng biết tới, nên tự nó có khả năng đánh bại các hình thức tổ chức xã hội khác muốn đương đầu với nó. Tuy nhiên, để đẩy nhanh quá trình khẳng định sự toàn thắng của thị trường, cần nhiều nỗ lực che chắn cho thị trường khỏi bị tổn thương vì những hành động chính sách hay hệ tư tưởng cũ. Một ví dụ ở nước ta là dù đã thừa hưởng những thành tựu vượt bậc do kinh tế thị trường mang lại, trong nhiều bộ phận xã hội, các hình thái khác nhau của tư tưởng tập thể chủ nghĩa vẫn còn đào sâu bám rễ. Từ nỗ lực duy trì độc quyền của những tập đoàn nhà nước trong nhiều lĩnh vực dân sinh, đến thói quen đổ lỗi dễ dãi cho nhiều hiện tượng xã hội như thể là hậu quả của việc “chạy theo thị trường”, cho tới các chính sách can thiệp kinh tế như trần lãi suất hay phổ cập mô hình “hàng bình ổn giá”. Thị trường không chỉ là một cỗ máy hữu hiệu để sản sinh ra của cải cho đất nước, mà nó còn là giảng đường vĩ đại truyền bá đức hạnh của sự cạnh tranh, thứ đức hạnh chỉ giúp dân tộc thêm mạnh mẽ. Trong sự nghiệp phấn đấu lâu dài xây dựng một thị trường thống nhất và phát triển, chúng ta cần hướng thẳng vào mục tiêu vun đắp cho khu vực kinh tế tư nhân mạnh mẽ và tự do, lấy đó làm nền tảng cho động lực phát triển và hội nhập kinh tế. Đây là một quá trình lâu dài, đòi hỏi nỗ lực cải cách kiên nhẫn trên nền tảng lịch sử để lại với khu vực kinh tế nhà nước to lớn còn đang hiện hữu, và tư duy cũ gắn liền với nó rằng kinh tế nhà nước phải có vai trò chủ đạo.

Trụ cột thứ tư cho xã hội Việt Nam văn minh, là sự phát triển của khu vực xã hội công dân. Đây là nơi mà các tổ chức, hiệp hội có tiếng nói độc lập với khu vực nhà nước và thị trường, phát huy ảnh hưởng nhờ bộc lộ những tri thức, nhu cầu bản địa hay ngầm ẩn trong lòng xã hội. Khu vực này đại diện cho những khía cạnh hay cấp độ quyền lợi mà thị trường và nhà nước không giải quyết trực tiếp được, hoặc nếu có thì hiệu quả không cao. Đặc biệt, việc phát triển một mạng lưới các tổ chức cộng đồng quy mô nhỏ, hiệp hội của những tổ chức – cá nhân có cùng lợi ích, hành động không vì lợi nhuận nhằm bảo vệ những quyền lợi thiết thực của các thành viên trên những khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống theo cách nhân văn hơn. Ở Việt Nam, truyền thống xã hội công dân còn sơ khai và mong manh, nếu so với khu vực nhà nước và thị trường. Việc xây dựng khu vực này thực sự cần tầm nhìn chia sẻ, sự thấu hiểu của giới lãnh đạo và người làm chính sách. Khác với thị trường, khu vực xã hội công dân thực sự cần có cơ chế phù hợp để trưởng thành, đặc biệt một cơ chế khai thông nguồn tài trợ từ dân chúng và doanh nghiệp. Gần gũi với các tổ chức dân sự là các tổ chức nghiên cứu khoa học và giáo dục tư nhân. Bên cạnh đó, để tiếng nói, nguyện vọng và tri thức của khu vực này lan toả, cần sự gắn bó của giới truyền thông và báo chí.

Trụ cột cuối cùng, và quan trọng bậc nhất, là một nhà nước pháp quyền. Có lẽ đây là một trong những mục tiêu đã được đặt ra từ rất sớm và liên tục được duy trì. Đã có nhiều thành tựu trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Thế nhưng, một nhà nước pháp quyền thực sự không phải chỉ là một nhà nước xây dựng được những luật pháp tốt, mà bản thân nó phải đặt được toàn bộ xã hội, trong đó gồm chính bản thân những cơ quan nhà nước cao nhất, nằm dưới pháp luật. Thường thì điều này không giải quyết được trong thực tế và ngay cả trong lý thuyết, nếu bản thân nhà nước không bao gồm những thành phần vừa độc lập vừa có quyền lực giám sát, chi phối lẫn nhau. Phải thừa nhận rằng người Việt Nam và người Á Đông không có một nhãn quan truyền thống rõ ràng về một xã hội được sắp xếp như vậy. Ví dụ như truyền thống Lễ trị của Khổng giáo ngay từ đầu đã hàm ý có một nhóm những người quản lý xã hội ở tầng cao nhất không cần bị điều chỉnh bởi pháp luật, mà tự họ làm gương cho xã hội noi theo. Nếu có điều chỉnh, chỉ cần điều chỉnh thông qua những quy tắc đạo đức hay sự phê bình để sửa sai (điều chỉnh bằng lễ). Chỉ có thứ dân mới cần tuân thủ luật lệ do những tầng lớp tinh hoa đó đề ra. Hiện tượng này sau hơn 2.000 năm đã có nhiều thay đổi, nhưng nhìn sâu vào bản chất cấu trúc xã hội của Trung Quốc và Việt Nam, chúng ta vẫn thấy dấu vết của quan niệm này, đặc biệt trong mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân, với tầng lớp lãnh đạo trong Đảng và phần còn lại của xã hội. Để kiến tạo một nhà nước pháp quyền, do đó, cần một sự sáng suốt và can đảm, để vun đắp một truyền thống pháp trị toàn diện trên cơ sở thiết kế một cấu trúc xã hội thực thụ phù hợp.

Theo tôi, năm trụ cột nêu trên, nếu được phát triển vững chắc và cân đối, sẽ làm chỗ dựa cho một nền tảng mà trên đó dân tộc Việt Nam phát triển trong trạng thái hài hoà với thế giới và khu vực, phát huy nguồn sức mạnh nội tại một cách đều đặn và thăng bằng, tinh thần dân tộc và nhân cách con người Việt Nam được cởi mở. Nói một cách khác, đó là năm trụ cột giúp Việt Nam hướng tới tương lai.
 

TS. Nguyễn Đức Thành (GĐ trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) trường đại học kinh tế, đại học quốc gia HN)

Nguyễn Gia Kiểng: Nhìn lại chủ nghĩa Mác - Lê

Tháng 2 này Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) kỷ niệm 82 năm thành lập, đây là dịp để nhìn lại một cách tổng quát và dứt khoát chủ nghĩa Mác-Lênin, một chủ nghĩa mà trong suốt quá trình thành lập, đấu tranh và cầm quyền ĐCSVN đã lấy làm tư tưởng nền tảng và đã có hậu quả to lớn đối với nước ta. Đây là một việc làm cần thiết vì quần chúng Việt Nam vẫn còn thiếu một cái nhìn ngắn gọn về một chủ nghĩa đã và đang tác động lớn lên cuộc sống và tương lai của họ. Mặt khác viết về chủ nghĩa Mác-Lênin trong một bài báo là điều có thể làm được trong lúc này bởi vì cuộc tranh luận về chủ nghĩa này đã chấm dứt và đã có kết luận; viết về nó không khác lật lại một trang sử. Một lý do khác là, trái với nhận định lạc quan của một số người, Việt Nam chưa thực sự bước vào giai đoạn hậu cộng sản, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, hay đúng hơn gánh nặng của nó trên đất nước ta, vẫn còn rất lớn.

Marx và chủ nghĩa Marx


Karl Marx sinh năm 1818 tại Trier (Đức) trong một gia đình giáo sĩ Do Thái từ nhiều đời nhưng thân phụ ông đã bỏ đạo Do Thái để theo đạo Tin Lành. Nguồn gốc và thời đại đã có ảnh hưởng lớn trên ông. Từ dòng dõi giáo sĩ Do Thái Marx thừa hưởng tâm lý tiên tri, quả quyết và giáo điều thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của ông. Chủ trương xây dựng một thiên đường ngay trong cuộc đời này và trên mặt đất này, bằng bạo lực nếu cần, cũng không khác niềm tin của đạo Do Thái trong kinh Torah (Cựu Ước). Marx cũng trưởng thành cùng với sự hình thành của nước Đức. Khi Marx sinh ra trên lãnh thổ nước Đức hiện nay có hơn hai trăm vương quốc tự trị, nhiều khi xung đột với nhau. Nước Đức đã thống nhất và trở thành cường quốc mạnh nhất Châu Âu trong vòng một nửa thế kỷ. Lúc đó Châu Âu vẫn còn bàng hoàng vì cuộc cách mạng Pháp 1789 và những cuộc chiến khốc liệt do Napoléon gây ra. Pháp, cường quốc số 1 Châu Âu trong thế kỷ trước, đã tan hoang và kiệt quệ sau Cách Mạng 1789 và những cuộc chiến của Napoléon để trở thành vùng đất của những bạo loạn, với những cao điểm là Cách Mạng 1830, Cách Mạng 1848 và Công Xã Paris 1871. Song song với những đảo lộn chính trị ồ ạt và đẫm máu đó, cuộc cách mạng kỹ nghệ, thành quả của những tiến bộ khoa học dồn dập từ thế kỷ trước, vẫn tiếp tục tràn tới làm thay đổi đột ngột cách suy nghĩ, nếp sống và tổ chức xã hội. Chưa hết, thế kỷ 19 cũng là thế kỷ đầy bão táp về mặt tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng chính trị. Các ý kiến không sâu sắc như trong thế kỷ 18 được - coi là thế kỷ ánh sáng với sự bùng phát của khoa học và triết học - nhưng các cuộc thảo luận sôi nổi hơn nhiều. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa kinh tế tự do, chủ nghĩa phúc lợi, chủ nghĩa xã hội, tư hữu, bóc lột, cách mạng v.v. là những đề tài tranh cãi gay cấn trong mọi cuộc gặp gỡ của trí thức. Càng gay cấn vì tuy khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, trên những chọn lựa nhưng hầu như mọi trí thức lúc đó đều theo chủ nghĩa nhất nguyên, nghĩa là cho rằng chân lý chỉ có một, và dĩ nhiên ai cũng tin là mình có chân lý. Tóm lại thế kỷ 19 trong đó Marx sinh sống, là một thế kỷ cuồng loạn về mọi mặt. Một giai đoạn nguy hiểm. Quá nhiều đảo lộn cực mạnh xảy ra trong một thời gian quá ngắn. Và Marx ở ngay giữa cơn bão này bởi vì từ thế kỷ 18 Đức trở thành trung tâm của hai phong trào tư tưởng mạnh xuất phát từ Pháp: phong trào thuần lý và phong trào lãng mạn. Phong trào thuần lý, chủ yếu do ảnh hưởng của các phát minh khoa học, tin rằng chỉ có những gì thuần lý mới có giá trị. Phong trào lãng mạn chủ trương phải cởi bỏ tất cả mọi ràng buộc để tìm cảm giác cực mạnh. Hai phong trào này giống nhau ở chỗ chúng đều không dành cho các giá trị đạo đức một tầm quan trọng nào. Không khí cuồng loạn đó không thích hợp cho những suy nghĩ chín chắn và thận trọng. Không thể bỏ qua bối cảnh sôi động này nếu muốn hiểu Marx.

Trái với một nhận định đã thời thượng trong một giai đoạn Marx không phải là một triết gia đúng nghĩa, dù là một nhà tuyên truyền và bút chiến thiên tài. Marx học triết và được cả một trường đaị học - mà ông không theo học - tặng bằng tiến sĩ triết khi mới ngoài hai mươi tuổi, nhưng không vì thế mà ông là một triết gia. Các triết gia không đồng ý về một định nghĩa chính xác của triết nhưng họ đều coi triết là một cố gắng tìm sự hiểu biết xâu xa và chính xác ở mức độ tối đa có thể đạt tới. Bertrand Russell ví triết như một vùng trái độn giữa khoa học và thần học; nó không thể trái ngược với khoa học để có sự chính xác, nhưng nó cũng phải dám phiêu lưu vào những gì mà khoa học không thể hoặc chưa thể giải thích. Chính vì sự phiêu lưu này mà một triết gia, một mặt, phải nắm vững những hiểu biết khoa học đã đạt được và, mặt khác, phải rất thận trọng trong lý luận.

Trong những bộ môn của triết, tri thức học là phần quan trọng nhất, nó có mục đích chất vấn những gì mà chúng ta biết hoặc tin để xem chúng ta có thể tin tới mức độ nào. Những xác quyết hồ đồ - như Marx luôn luôn làm - là điều tối kỵ đối với triết. Không phải ai học triết cũng là triết gia. Bằng cấp, kể cả bằng tiến sĩ, chỉ chứng nhận một căn bản để từ đó học hỏi thêm; điều quan trọng là những gì mình học được sau đó. Trong trường hợp của Marx bản tính hiếu động cũng như bối cảnh xô bồ của thời đại không thúc đẩy ông học hỏi thêm. Vả lại dù học triết nhưng Marx không thích triết. Ông viết trong cuốn Luận Án về Feuerbach, cuốn sách có thể coi là tác phẩm về triết duy nhất của ông: "các triết lý chỉ cố hiểu thế giới trong khi vấn đề là phải thay đổi nó". Câu này chứng tỏ Marx không những không thích triết mà còn phản triết. Tại sao phải thay đổi thế giới? Thay đổi cái gì và để đạt tới kết quả nào? Và làm sao có thể thay đổi được một cái gì nếu không hiểu nó? Sau cuốn sách nhỏ này, viết năm 1845 nhưng chỉ phổ biến hạn chế, nhiều nhân chứng cho biết Marx đã bỏ hẳn môn triết để dành trọn thời giờ và cố gắng cho tuyên truyền và hành động; ông chỉ quan tâm trở lại tới triết rất lâu sau đó khi đọc lại Hegel để soạn thảo cuốn Tư Bản Luận.

Marx đã viết rất nhiều hầu như trên tất cả mọi chủ đề trừ khoa học thuần túy nhưng không bao giờ tập trung vào chủ đề nào cả. Ông viết nhiều nhất trong thập niên 1840, khi chưa đầy 30 tuổi. Sau đó từ năm 1849, ông sang Anh và sống rất cơ cực. Ông đã phải viết hàng ngàn bài báo cho tờ báo Mỹ New York Tribune vì "lý do thực phẩm" theo chính lời ông. Dầu vậy Marx đã rất túng thiếu, ba trong sáu đứa con của ông đã chết vì thiếu ăn; Marx và phần còn lại của gia đình đã chỉ sống sót nhờ sự giúp đỡ của người bạn trung thành Engels. Chỉ từ 1869 trở đi, khi Engels được thừa hưởng gia tài vì thân phụ qua đời và có thể trợ cấp đều đặn cho ông 350 đồng bảng Anh mỗi năm, Marx mới tạm thoải mái. Tình trạng đau thương này không cho phép Marx học hỏi thêm và cũng không cho phép ông suy nghĩ và viết một cách bình thường. Hơn thế Marx còn phải rất chật vật để khảo cứu về kinh tế, một bộ môn mà ông hoàn toàn không biết gì và cũng không có căn bản để học hỏi một cách nghiêm chỉnh, trong khi soạn thảo cuốn Tư Bản Luận, tác phẩm công phu nhất của ông mà theo chính lời ông để viết ra ông đã phải "hy sinh cuộc sống, hạnh phúc và gia đình". Ngoài ra do bản tính hiếu thắng Marx cũng mất rất nhiều thì giờ để viết những lá thư tranh cãi vô bổ với những người phê phán hoặc không đồng ý với ông. Một số những thư từ này về sau cũng được sưu tập lại và xuất bản. Cũng nên đặt câu hỏi tại sao Marx lại có thể cô đơn và khổ cực đến thế mặc dù đã rất nổi tiếng? Rất có thể là do bản tính kiêu căng ông không có bạn, nhưng cũng có thể là ít người thực sự quí mến ông.

Các tác phẩm của Marx thường là những cuốn sách ngắn, trừ ngoại lệ là cuốn Tư Bản Luận. Ông viết rất nhiều bài báo. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả những gì Marx viết và nhắc lại đều mang tính bút chiến và xác quyết nhưng rất ít lý luận. Có lẽ do nguồn gốc gia đình giáo sĩ Do Thái của Marx mà chúng đều có giọng điệu phán quyết và tiên tri. Những tác phẩm được liệt kê nhiều nhất là Luận Án Về Feuerbach (1845), Tuyên Ngôn Cộng Sản (1847), Đấu Tranh Giai Cấp Tại Pháp (1850), Ngày 18 Brumaire (1850), Phê Bình Kinh Tế Chính Trị (1859), Nội Chiến tại Pháp (1871), Phê Bình Cương Lĩnh Gotha (1875) và dĩ nhiên Tư Bản Luận (chỉ quyển I được in trong lúc Marx còn sống năm 1867). Ngoài ra Marx cũng tham gia vào hai tác phẩm của Engels, Ý Thức Hệ Đức (1846) và Chống Dürhing (1878). Như trên đã nói trừ cuốn Tư Bản Luận tất cả những tác phẩm của Marx đều là những cuốn sách ngắn rất ít giá trị lý luận và khảo cứu, có mục đích tranh luận và hô hào. Marx chủ yếu viết các bài báo. Những ý kiến của Marx được lặp lại nhiều lần một cách tản mác trong các tác phẩm chứ không được tập trung và đào sâu trong trong một cuốn sách nào. Tất cả những ý kiến của Marx có thể tìm thấy trong cuốn Tư Bản Luận.

Marx đã viết những gì?

Những tư tưởng chính của Marx có thể gom lại trong bốn chủ đề:

1/ Một phần được coi là triết lý gồm lý luận biện chứng mà Marx lấy lại của Hegel nhưng ứng dụng vào chủ nghĩa duy vật thành Duy Vật Biện Chứng (dialectic materialism) và sau đó ứng dụng vào lịch sử thành Duy Vật Sử Quan (materialistic conception of history).

2/ Một lý thuyết về kinh tế chính trị trong đó cốt lõi là lý thuyết giá trị và thặng dư giá trị được trình bày trong Tư Bản Luận.

3/ Một lý thuyết về nhà nước và cách mạng được lặp lại nhiều lần đặc biệt là trong Tuyên Ngôn Cộng Sản và Tư Bản Luận nhưng không bao giờ được đào sâu.

4/ Quan trong hơn là quan điểm của Marx về đạo đức được phát biểu nhiều lần một cách rất quả quyết dù không biện luận.

Vào lúc này, khi mọi tranh luận nghiêm chỉnh về Marx đã chấm dứt ta có thể nói ngắn gọn hai điều. Một là những gì Marx đã nói đều không có giá trị lý luận bởi vì Marx chỉ xác quyết chứ không chứng minh gì cả. Hai là tất cả đã được các nhà lý luận nghiêm chỉnh, và sau đó thực tế, chứng minh là sai và độc hại. Tuy vậy cũng không phải là vô ích nếu ta nhìn lại một cách ngắn gọn một lần chót nền tảng tư tưởng của Marx và của phong trào cộng sản thế giới.

Một nghịch lý đầu tiên cần được đặc biệt chú ý là thứ tự thời gian của hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Marx, Tuyên Ngôn Cộng Sản và Tư Bản Luận. Tuyên Ngôn Cộng Sản là tín điều của chủ nghĩa cộng sản; nó khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ tiêu vong nhưng không nói tại sao. Tư Bản Luận có mục đích chứng minh niềm tin này. Tuy vậy Tuyên Ngôn Cộng Sản lại có trước Tư Bản Luận gần hai mươi năm. Như vậy là kết luận có trước lý luận. Đây là một cung cách mà không một người tỉnh táo nào có thể tự cho phép, chưa nói một nhà tư tưởng. Kết luận khi chưa lý luận chỉ có thể là kết luận theo cảm tính hoặc kết luận một cách gian trá và có mọi triển vọng là sai; lý luận với mục đích biện hộ cho một kết luận đã có sẵn chỉ có thể là ngụy biện. Chỉ riêng một điểm này thôi cũng đủ khiến chủ nghĩa Marx đáng bị bác bỏ.

Chính Marx đã là nạn nhân đầu tiên của nghịch lý này. Tuyên Ngôn Cộng Sản khẳng định chủ nghĩa tư bản sẽ bị đào thải như một tất yếu (nghĩa là một điều chắc chắn sẽ đến), và Marx cam kết sẽ chứng minh một cách khoa học. Mọi người chờ đợi và Marx đã phải vật vã trong hai mươi năm để viết Tư Bản Luận cố chứng minh một điều không thể chứng minh được vì không đúng. Khi cuốn Tư Bản Luận được phát hành sau một thời gian chờ đợi dài nó đã là một thất vọng lớn. Nó quanh co, dài dòng, nhàm chán và không chứng minh được gì cả. Đọc nó là một cực hình, nó là cuốn sách của một người viết về một vấn đề mà mình không biết gì. Đã chỉ có quyển I được in ra bằng tiếng Đức khi Marx còn sống, năm 1867. Bản tiếng Anh phải đợi đến 19 năm sau, năm 1886, nghĩa là ba năm sau khi Marx qua đời. Các quyển II và III chỉ được in ra năm 1885 và 1894. Người ta có thể hình dung sự thất bại bi đát của cuốn sách. Trên thực tế nó đánh một dấu chấm hết trên sự nghiệp của Marx như một lý thuyết gia.

Marx đã lấy lại lý luận về giá trị mà David Ricardo đưa ra hồi đầu thế kỷ 19 nhưng thêm vào đó những suy luận mông lung. Kinh tế đối với Marx chỉ là sản xuất, và sản xuất chỉ là sản xuất hàng hóa; hình ảnh xí nghiệp của Marx chỉ là xí nghiệp của một chủ nhân quyết định hoàn toàn theo ý muốn, Marx không hề biết đến các công ty cổ phần, thị trường, tiền tệ, tín dụng, luật lao động, luật thương mại v.v. dù những khái niệm này đã khá phổ biến vào thời đại của ông. Ông lý luận một cách quanh co, pha trộn kinh tế với xã hội học, tâm lý học, lịch sử, triết học, rồi kết luận gượng gạo rằng sẽ có tích lũy và tập trung tư bản, giai cấp lao động sẽ bị bần cùng hóa và sẽ nổi dậy đánh đổ chế độ tư bản. Điều rất mỉa mai là cuốn sách đã ra đời sau khi thực tế đã rõ ràng là trái ngược với những gì Marx tiên đoán. Số lượng các xí nghiệp tăng lên nhiều thay vì nhỏ lại, giai cấp lao động sống thoải mái hơn nhiều thay vì bị bần cùng hóa.

Qui luật biện chứng của Hegel tự nó đã sai. Theo Hegel mọi sự trong vũ trụ biến chuyển theo một qui luật được gọi là "biện chứng" qui định bởi một Lý Trí Tuyệt Đối huyền bí không khác các thượng đế của các tôn giáo, nhưng thuần lý. Qui luật biện chứng như sau: bất cứ thực thể nào, dù là sự vật hay ý kiến, mà ta lấy làm điểm khởi hành của lý luận hay quan sát (và gọi là tiền đề) cũng có một sự phản bác (gọi là phản đề), sự mâu thuẫn giữa đôi bên cuối cùng dẫn tới kết quả là một tổng hợp thuần lý hơn thay thế cả tiền đề lẫn phản đề. Tổng hợp sau đó lại là khởi điểm cho cho một biện chứng khác, nghĩa là một tiền đề mới, và tiến trình biện chứng cứ thế mà tiếp tục, mỗi bước là một tiến bộ nghĩa là dẫn tới một tình trạng hợp lý hơn. Vì thế theo Hegel tất cả những gì hiện hữu đều hợp lý và ngược lại tất cả những gì hợp lý đều sẽ thể hiện. Áp dụng vào lịch sử Hegel cho rằng lịch sử là sự xung đột giữa các quốc gia, mỗi quốc gia - tiền đề - đều có một quốc gia đối nghịch - phản đề -, mâu thuẫn giữa hai quốc gia dẫn tới kết quả là sự thống nhất thành một quốc gia mới. Quốc gia mới này, bao gồm những ưu điểm của cả hai. Đến lượt nó lại gặp mâu thuẫn v.v. Hegel trình bày hệ thống tư tưởng của mình một cách phức tạp đến nỗi nhiều người không thể hiểu và không dám kết luận là nó sai.

Nhưng nó có mọi lý do để sai. Trước hết Lý Trí Tuyệt Đối chỉ là một giả thuyết không khác thượng đế của các tôn giáo và cùng lắm chỉ có thể kiểm chứng chứ không thể chứng minh, nhưng thực tế lại không kiểm chứng những gì Hegel nói. Cho đến nay tất cả các phát minh lớn làm thay đổi lịch sử nhân loại không diễn ra vì các nhà bác học đã lý luận theo biện chứng của Hegel, các cuộc xung đột giữa các quốc gia trong tuyệt đại đa số cũng không dẫn tới sự thống nhất trong một quốc gia mới văn minh hơn và hợp lý hơn. Lý thuyết biện chứng của Hegel cũng chỉ là một lý luận cổ điển coi trái đất là trung tâm và phần quan trọng nhất của vũ trụ trong khi khoa học đã chứng minh ngay trong sinh thời của Hegel rằng nó chỉ là một phần vô cùng nhỏ trong một vũ trụ vô cùng lớn. Vả lại lý luận của Hegel đàng nào cũng không thể chấp nhận được vì Hegel không hề định nghĩa những tiêu chuẩn phải có để một cái gì đó được coi là phản đề hay tổng hợp, như vậy qui luật biện chứng có thể được vận dụng một cách rất tùy tiện.

Marx đã chấp nhận biện chứng của Hegel (và do đó đảm nhiệm mọi sai lầm của Hegel) vì nó được trình bày như một qui luật tất yếu, điều mà ông đang cần để chứng minh tính tất yếu của sự đào thải của xã hội tư bản, nhường chỗ cho xã hội cộng sản. Tuy vậy Marx vận dụng biện chứng của Hegel một cách khác, thành Duy Vật Biện Chứng rồi Duy Vật Sử Quan. Duy Vật Biện chứng là biện chứng của Hegel nhưng có nguyên nhân không phải từ một Trí Tuệ Tuyệt Đối mà từ chính vật chất. Khái niệm duy vật (materialism) xuất hiện trong câu hỏi căn bản của môn tri thức học "cái gì có thực để làm khởi điểm cho sự chắc chắn của sự hiểu biết của chúng ta?" Đồng thời nó cũng hiện diện trong cuộc tranh cãi về siêu hình học xem hồn hay xác quan trọng hơn. Có hai cách trả lời khác nhau. Trường phái duy tâm (idealism) cho rằng chỉ có ý kiến là có thực trong khi trường phái duy vật cho rằng chỉ có vật chất là có thực. Người ta đã có thể chất vấn Hegel rằng Lý Trí Tuyệt Đối tại sao và do đâu mà có, nhưng người ta lại càng khó chấp nhận khẳng định không chứng minh của Marx, theo đó tất cả trong vũ trụ này đều do vật chất qui định. Marx có thể nghĩ là ý kiến của ông độc đáo nhưng về bản chất nó không khác niềm tin của những người thổ dân ở trung tâm nước Úc thờ tảng đá Uluru như một thần linh. Marx còn liều lĩnh hơn hẳn Hegel. Hegel chỉ dùng biện chứng để giải thích quá khứ (và biện minh cho sự thống nhất nước Đức) trong khi Marx còn dùng biện chứng để tiên liệu tương lai một cách chắc nịch. Về lịch sử, khác với Hegel nhưng cũng tùy tiện như Hegel, Marx coi động cơ của lịch sử là sự xung đột giữa các giai cấp, mặc dù Marx chưa bao giờ định nghĩa rõ ràng thế nào là một giai cấp. Theo Marx chính những xung đột giai cấp này đã khiến xã hội loài người tiến hóa qua các giai đoạn cộng sản nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản, và sắp tới cộng sản. Marx còn thêm thắt những xác quyết khác – cũng không chứng minh như thường lệ - , như sự hiểu biết về một vật thể là một hành động có tác dụng làm thay đổi vật thể đó, để tự phân biệt với Hegel. Rõ ràng là Marx cũng không tha thiết gì với biện chứng của Hegel mà chỉ chấp nhận nó vì hai đặc tính phù hợp với cuộc cách mạng vô sản mà ông hô hào: một là nó là một lý thuyết tiền định (determinist) và do đó có thể sử dụng để chứng minh sự tất thắng của cuộc cách mạng này, hai là nó thuần lý và do đó cho phép biện luận một cách có vẻ khoa học và chính xác. Trên thực tế biện chứng của Marx còn cho phép lý luận một cách tùy tiện hơn cả biện chứng của Hegel vì nó không những giải thích quá khứ, một điều ta có thể ít nhiều quan sát, mà còn tiên liệu cả tương lai. Một thí dụ : bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản Liên Xô lý luận biện chứng như sau: 1/kinh tế phải được lãnh đạo tập trung để có hiệu quả (tiền đề); 2/nhưng khái niệm công nhân làm chủ xí nghiệp đòi hỏi tản quyền (phản đề); 3/giải pháp là nhà nước Xô Viết (tổng hợp). Cách lý luận "biện chứng" này cho phép những người không cần có một trình độ lý luận và kiến thức nào nói bất cứ gì sau một thời gian huấn luyện ngắn về biện chứng. Nó đã là nguyên nhân của niềm tin nền tảng của các chế độ cộng sản rằng những người vô học cũng có thể lý luận và giữ những vai trò lãnh đạo.

Quan điểm về nhà nước và cách mạng của Marx có thể tóm tắt như sau: nhà nước và luật pháp chỉ là dụng cụ đàn áp của giai cấp cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay (nghĩa là giữa thế kỷ 19) giai cấp cầm quyền là giai tư sản cho nên chính quyền và luật pháp chỉ là những dụng cụ của giai cấp tư sản để thống trị và bóc lột giai cấp lao động vô sản. Giai cấp vô sản chỉ có một chọn lựa là vùng dậy đánh đổ giai cấp tư sản bằng mọi phương tiện, kể cả và nhất là bằng bạo lực. Marx không giải thích tại sao phải dùng bạo lực để đạt một mục tiêu đàng nào cũng đến nếu sự thay thế xã hội tư bản bằng một xã hội cộng sản là điều tất yếu theo duy vật lịch sử. Theo Marx, vì chỉ có vai trò dụng cụ đàn áp của giai cấp thống trị nên nhà nước không còn lý do tồn tại trong xã hội cộng sản không giai cấp sắp đến, và do đó sẽ tàn lụi đi. Tuy vậy để tiến từ xã hội tư bản sang xã hội cộng sản sẽ cần một giai đoạn chuyên chính vô sản trong đó nhà nước vẫn còn được duy trì như là dụng cụ của giai cấp vô sản để tiêu diệt hẳn chế độ tư bản và xây dựng xã hội cộng sản. Đối với Marx giai cấp vô sản chủ yếu là giai cấp công nhân; cuộc cách mạng vô sản chủ yếu là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân cho nên nó chỉ có thể thành công khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đầy đủ để tạo ra một giai cấp công nhân đông đảo.

Quan điểm coi nhà nước và luật pháp như là những dụng cụ đàn áp và bóc lột của giai cấp thống trị là một quan điểm đen tối và rất chủ quan của riêng Marx bởi vì ngay trong thời đại của Marx và trước đó phần lớn các nhà tư tưởng nghĩ khác hẳn. Họ coi chính quyền là phương tiện để đảm bảo an ninh và công lý – nghĩa là chống bóc lột - và đem lại hạnh phúc cho người dân. Họ cũng quan niệm luật pháp là sự thể hiện trong xã hội những giá trị đạo đức và nhân bản.

Thực tế đã phủ nhận hoàn toàn lập trường của Marx. Cuộc cách mạng cộng sản đã không thành công trong các nước tư bản phát triển như Marx tiên liệu, trái lại chế độ tư bản càng phát triển thì nhu cầu làm cách mạng để lật đổ nó càng giảm. Các đảng cộng sản đã chỉ giành được chính quyền tại các nước nông nghiệp lạc hậu, như Nga và Trung Quốc; các chế độ cộng sản được thành lập cũng không phải là một bước tiến về xã hội cộng sản mà đều biến chất và tàn lụi đi. Chỉ có một điều đúng với quan niệm về nhà nước của Marx là trong các chế độ đó chính quyền và luật pháp đã quả nhiên là những dụng cụ đàn áp, nhưng đó là vì họ theo quan điểm của Marx chứ không phải vì một tất yếu lịch sử nào cả.

Điều độc hại nhất trong tư tưởng chính trị của Marx là sự phủ nhận hoàn toàn các giá trị đạo đức và tình cảm. Marx, và sau đó sau đó Lênin, chỉ coi những giá trị như sự lương thiện, sự thủy chung, tình bạn, tình yêu, sự đam mê, lòng bác ái, lòng biết ơn v.v. như là những sản phẩm của quan hệ sản xuất và có mục đích phục vụ giai cấp thống trị. Cũng nên nhận định rằng những người cộng sản coi chủ nghĩa Mác-Lênin là khoa học bởi vì chủ nghĩa này không quan tâm tới đạo đức và tình cảm mà nó coi duy tâm và trừu tượng, do đó vô nghĩa. Đối với Marx không làm gì có cái gọi là bản chất con người. Xét cho cùng đây là một quan điểm rất bi quan. Cuộc đời còn giá trị gì khi con người cũng chỉ như đất đá? Người ta có thể chấp nhận quan điểm này nếu muốn nhưng nó chẳng có gì là đặc sắc và cao siêu.

Khó có thể tìm thấy một tác phẩm nào ca tụng chủ nghĩa tư bản một cách nồng nhiệt như Tuyên Ngôn Cộng Sản. Theo Marx chỉ trong một thời gian ngắn chủ nghĩa tư bản đã đem lại những tiến bộ huyền diệu, đã tạo ra thế liên thuộc giữa các quốc gia, đem ánh sáng văn minh đến với những dân tộc mọi rợ, đã tạo các thành phố và giải phóng một phần đáng kể loài người khỏi "cuộc sống ngu xuẩn tại nông thôn" v.v. Tuy vậy, cũng ngay trong Tuyên Ngôn Cộng Sản Marx chủ trương phải tiêu diệt chế độ tư bản và giai cấp tư sản bằng bạo lực. Giai cấp tư sản phải bị tiêu diệt bằng bạo lực không phải vì nó xấu hay ác mà vì một tất yếu lịch sử. Cũng thế, giai cấp vô sản phải thắng không phải vì nó tốt mà vì thắng lợi của nó là một tất yếu lịch sử. Nên nhớ là tuy Marx nói giai cấp tư sản bóc lột giai cấp vô sản nhưng ông không hề coi sự bóc lột này là một tội, trái lại ông coi nó là một lẽ tự nhiên, cũng tự nhiên như việc giai cấp vô sản phải tiêu diệt giai cấp tư sản. Marx không phân biệt thiện và ác, tốt và xấu. Đạo đức hoàn toàn vắng mặt trong tư tưởng của Marx.

Chính Marx khai tử chủ nghĩa Marx

Một điều cần được lưu ý là chủ nghĩa Marx chưa bao giờ được một nhà tư tưởng lớn nào bênh vực. Đã chỉ có những người làm công tác tuyên vận trong các đảng cộng sản đề cao nó. Họ viết ra hàng triệu trang giấy nhưng không viết được gì đáng để ý bởi vì đó chỉ là những cố gắng để cố bào chữa cho cái không thể bào chữa. Những triết gia có tầm vóc hoặc không đề cập tới Marx hoặc chỉ đề cập tới để bác bỏ.

Chính Marx cũng không tin ở những gì mình hô hào. Năm 1872, sau khi Công Xã Paris (một cuộc nổi dậy võ trang của những người cộng sản Pháp mà Marx và Đệ Nhất Quốc Tế nhiệt tình cổ võ) bị dẹp tan vì không lôi kéo được quần chúng, Marx tuyên bố tại Amsterdam nhân dịp đại hội Đệ Nhất Quốc Tế: "Ở những nước như Mỹ và Anh người công nhân có thể tranh đấu để đạt mục tiêu bằng phương thức ôn hòa". Nhưng nếu cách mạng bạo lực không cần thiết ở Anh và Mỹ thì nó cũng không cần thiết ở bất cứ nước nào vì Anh và Mỹ chính là hai quốc gia mà chủ nghĩa tư bản được thể hiện một cách triệt để nhất. Câu nói này tương đương với lời tuyên bố khai tử chủ nghĩa Marx vì cốt lõi của nó là kêu gọi giai cấp công nhân vùng lên cướp chính quyền bằng bạo lực để thực hiện chuyên chính vô sản. Tại đại hội này Marx vận động để dời trụ sở Đệ Nhất Quốc Tế sang Philadelphia, Mỹ. Năm 1875 đến lượt Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức, xương sống của phong trào cộng sản quốc tế vào lúc đó, họp đại hội tại Gotha chính thức chọn lựa đường lối đấu tranh hợp pháp. Biến cố này tương đương với sự cáo chung của phong trào cộng sản mà Marx hô hào vì nó là một phong trào chủ trương cách mạng bạo động. Marx đã rất thất vọng, ông viết ra cuốn "Phê Bình Cương Lĩnh Gotha" đả kích đại hội này nhưng lại không phát hành. Vì không tìm được nhà xuất bản hay vì Marx tự thấy mình không thuyết phục vì tại sao công nhân có thể đấu tranh ôn hòa tại Mỹ và Anh như chính ông đã nói mà lại không thể đấu tranh ôn hòa tại Đức nơi chế độ tư bản còn ít triệt để hơn? Năm 1876 Đệ Nhất Quốc Tế tuyên bố tự giải tán. Marx tán thành quyết định này và từ đó không tham gia một hoạt động nào nữa cho đến khi chết năm 1883, thọ 65 tuổi. Lúc đó Marx đã hoàn toàn chìm vào quên lãng. Trước khi chết ông để lại một câu nói dí dỏm: "Điều chắc chắn là tôi không phải là một người mác xít!".

Chủ nghĩa Marx kể như đã chết tại Châu Âu. Và chết một cách buồn thảm. Như trên đã nói cuốn Tư Bản Luân, tác phẩm công phu nhất của Marx đã chỉ gây thất vọng. Không ai tán thành, hầu như không ai muốn đọc. Marx đã muốn đề tựa cuốn sách này cho Charles Darwin, một nhà bác học đương thời với ông, cha đẻ của lý thuyết tiến hóa, nhưng Darwin từ chối. J.M.Keynes, một trong những nhà kinh tế lớn nhất thế giới trong thế kỷ 20 đánh giá nó như sau :"Tư Bản Luận là một cuốn sách lỗi thời, không những sai về mặt khoa học mà còn vô tích sự và vô dụng trong thế giới ngày nay". Đó là năm 1932, giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang gặp khủng hoảng dữ dội. Năm 1878 vào lúc mà uy tín và ảnh hưởng của ông hầu như không còn gì, Engels đã viết cuốn Chống Durhing với mục đích trình bày một cách mạch lạc toàn bộ tư tưởng của Marx và phục hồi ảnh hưởng cho Marx (Durhing là một giáo sư đại học Berlin phản bác Marx trên nhiều điểm). Cuốn sách được Marx tán thành và đóng góp. Nó được đăng từng kỳ trên tạp chí Vorwärts của Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức. Sau một thời gian đảng này quyết định ngừng đăng với lời giải thích: "cuốn sách hoàn toàn không có lợi gì cho đa số đảng viên, trái lại còn gây một sự nhàm chán đến cực độ".

Chủ nghĩa Mác-Lênin
Nhờ Lênin mà chủ nghĩa Marx được phục hồi thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Lênin là một chuyên viên khủng bố, lớn lên trong một truyền thống khủng bố quốc gia cũng như gia đình. Tư tưởng chính trị cách mạng của Nga kể từ thập niên 1860 coi ám sát và thủ tiêu là phương pháp bình thường để giải quyết các khác biệt. Anh ruột Lênin bị hành quyết về tội khủng bố. Lênin đã nhìn thấy ở chủ nghĩa Marx một vũ khí lý tưởng để không những chỉ phá hoại mà còn cướp được chính quyền, và ông đã thành công. Do nguồn gốc khủng bố Lênin tin rằng muốn giành chính quyền không thể dựa trên hậu thuẫn quần chúng mà phải dựa trên một đội ngũ cán bộ nhỏ nhưng chuyên nghiệp và quyết tâm sẵn sàng sử dụng bạo lực. Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917 đã được mọi sử gia đánh giá là một cuộc đảo chính cướp chính quyền của một nhóm nhỏ. Chủ nghĩa Mác-Lênin có thể định nghĩa là chủ nghĩa Marx vận dụng theo cách của Lênin, nghĩa là lấy lại toàn bộ chủ nghĩa Marx nhưng đẩy tới mức triệt để một số yếu tố: tôn sùng bạo lực, coi thường luật pháp, phủ nhận mọi giá trị đạo đức. Lênin viết rất nhiều nhưng chỉ viết để hô hào, tranh luận và mạt sát. Đóng góp của ông không đáng kể về mặt lý luận nhưng quan trọng về những hậu quả.

Một câu mà Lênin nhắc lại nhiều lần, đặc biệt là trong hai cuốn Nhà Nước và Cách mạng và Cách Mạng Vô Sản và Tên Phản Bội Kautsky có thể tóm tắt tư tưởng chính trị của Lênin: "chính quyền cách mạng là chính quyền do giai cấp vô sản giành được và giữ lấy, chính quyền này không hề bị ràng buộc bởi bất cứ một luật pháp nào".

Cuốn Lênin Toàn Tập (Moscow, 1955, trang 311) in lại một diễn văn của Lênin: "Chính quyền Xô Viết đã hành động như mọi cuộc cách mạng vô sản phải hành động. Nó đã đập tan pháp lý tư sản. Chừng nào chúng ta chưa khủng bố - nghĩa là một viên đạn vào đầu ngay tại chỗ - chúng ta sẽ chẳng đạt được kết quả nào cả". Khi Steinberg, bộ trưởng tư pháp (lúc đó gọi là ủy viên nhân dân tư pháp) hỏi ông "Như thế thì cần gì bộ tư pháp nữa, cứ gọi thẳng là bộ tàn sát cho tiện!" Lênin trả lời: "Đúng lắm, tiếc là chúng ta không thể dùng danh xưng đó".

Trong diễn văn trước đại hội Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Nga năm 1920 Lênin giáo huấn thanh niên như sau: "Có một đạo đức cộng sản không? Dĩ nhiên là có! Bọn tư sản thường buộc tội chúng ta là phủ nhận mọi giá trị đạo đức (…) Chúng ta phủ nhận đạo đức theo nghĩa nào? Chúng ta phủ nhận mọi đạo đức không xuất phát từ con người và giai cấp. Đó chỉ là đạo đức bịp bợm phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản. Chúng ta khẳng định đạo đức của chúng ta hoàn toàn nhắm phục vụ đấu tranh giai cấp. Đạo đức của chúng ta hoàn toàn đặt nền tảng trên cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản". Một câu nói của Lênin được nhắc lại nhiều lần là "đạo đức là những gì hợp với quyền lợi của cách mạng". Chẳng có gì để thảo luận về một quan niệm nhà nước, luật pháp và đạo đức như thế.

Theo đúng bài bản của Marx, Lênin coi nhà nước là cần thiết cho giai đoạn chuyên chính vô sản, một giai đoạn chuyển tiếp lên xã hội cộng sản, một khi xã hội cộng sản đã đạt tới thì vai trò của nhà nước sẽ mờ nhạt đi. Nhà nước trong giai đoạn chuyển tiếp đó do đảng cộng sản, đội tiền phong và người đại diện chân chính của giai cấp vô sản, lãnh đạo một cách hoàn toàn và tuyệt đối. Lênin gọi đó là chế độ dân chủ vô sản và tuyên bố nó ưu việt gấp triệu lần dân chủ tư sản. Nhưng giai đoạn chuyển tiếp đó sẽ kéo dài bao lâu? Đại hội 22, năm 1961, của Đảng Cộng Sản Liên Xô, sau 47 năm cầm quyền, dự tính rằng sẽ đạt tới xã hội cộng sản vào năm 1980. Nhưng rồi năm 1980 qua đi mà không có gì thay đổi cả. Từ đó vấn đề đặt ra không phải là giảm mà trái lại là tăng cường vai trò của nhà nước và tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản trên nhà nước. Cho đến khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ năm 1991. Tại Trung Quốc chỉ một thời gian ngắn sau khi đảng cộng sản giành được chính quyền câu hỏi giai đoạn chuyển tiếp kéo dài bao lâu không đặt ra nữa. Khi Mao Trach Đông chết người ta chỉ thấy trong thư viện của ông những cuốn sách cổ của Trung Quốc và những cuốn sách giải trí chứ không hề có cuốn sách nào của Marx và Lênin. Tại Việt Nam ông Hồ Chí Minh từng nói rằng ông không có tư tưởng nào cả mà chỉ theo tư tưởng của Marx, Lênin, Stalin và Mao. Tất cả các đảng cộng sản không hề có một đóng góp lý thuyết nào cả mà chỉ khẳng định một cách máy móc sự trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, trừ đảng cộng sản Ý với Gramsci, nhưng Gramsci phản bác chủ nghĩa Mác-Lênin nhiều hơn là tán thành. Lý do dễ hiểu: người ta không thể cải tiến một cái gì về bản chất đã sai. Một sự kiện chứng tỏ chủ nghĩa Mác-Lênin không thuyết phục: trong suốt lịch sử của phong trào cộng sản chưa hề có một đảng cộng sản nào thắng một cuộc bầu cử lương thiện nào; về điểm này chủ nghĩa Mác-Lênin còn thua cả các chủ nghĩa Phát Xít và Nazi.

Sự sai trái và độc hại của chủ nghĩa Mác-Lênin không khó nhìn thấy và nhiều nhà bình luận đã thấy ngay từ đầu và đã vạch ra một cách rất rõ ràng. Tuy vậy cho đến thập niên 1970 nó vẫn lôi kéo được một số đông người, kể cả một số trí thức xuất sắc. Lý do là vì vấn đề mà nó nêu ra cũng là vấn đề mà lương tâm con người đặt ra từ rất lâu mà vẫn chưa có giải đáp, đó là bất công xã hội và chênh lệch giàu nghèo. Kể từ khi bắt đầu văn minh thế giới luôn luôn phải sống trong một mâu thuẫn nhức nhối giữa những tư tưởng quảng đại coi mọi người là anh em và một tổ chức xã hội phân biệt chủ và tớ. Và thời nào cũng có những người ao ước xóa bỏ mâu thuẫn nhức nhối đó. Trong nhiều trường hợp chính lòng quảng đại đã khiến người ta tiếp tay cho tội ác. Chủ nghĩa Marx là một giải pháp sai và độc hại nhưng vấn đề nó đặt ra có thực. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là sự vận dụng tư tưởng của Marx cho mục tiêu cướp và giữ chính quyền bằng bạo lực và khủng bố.

Một tai họa cho nhân loại
Theo một khảo cứu công phu và nghiêm túc của một nhóm học giả Pháp chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm thiệt mạng ít nhất 100 triệu người trên thế giới, ngay cả nếu chỉ kể những nạn nhân do các chế độ cộng sản trực tiếp và cố ý sát hại. Ngày 26-01-2006 Hội Đồng Châu Âu đã ra nghị quyết 1481 coi các chế độ cộng sản là tội ác đối với nhân loại. Các nước mắc vào chế độ cộng sản đều nghèo khổ và lạc hậu hơn hẳn những nước không cộng sản với những điều kiện địa lý và lịch sử tương tự. Sự so sánh đã rất rõ rệt trong trường hợp các nước bị phân chia với một phần dưới chế độ cộng sản và một phần dưới một chế độ không cộng sản, như Đông và Tây Đức, Bắc và Nam Cao Ly, Trung Hoa Lục Địa và Đài Loan, Bắc và Nam Việt Nam trước 1975.

Do sự phủ nhận các giá trị tình cảm và đạo đức chủ nghĩa Mác-Lênin làm hoại loạn con người và khuyến khích lối sống gian trá, ác độc, ích kỷ và vô trách nhiệm. Tất cả các chế độ cộng sản đều là những chế độ cực kỳ tham nhũng bởi vì trong thâm tín của nó chủ nghĩa Mác-Lênin coi chức năng của nhà nước là thống trị và bóc lột. Đó cũng đều là những thảm kịch cho môi trường, quan hệ xã hội và văn học nghệ thuật. Đã chỉ có rất ít những tác phẩm có giá trị dưới các chế độ cộng sản và chúng đều là sáng tác của những người phản kháng.

Khi đảng cộng sản Nga cướp được chính quyền tại Nga năm 1917 chủ nghĩa Marx đã chết từ lâu tại Âu Châu. Ta có thể coi ngày chết chính thức của nó là đại hội Gotha 1875. Với bản chất khủng bố, khi sang Châu Âu Lênin đã rất phấn khởi khi tìm được một chủ nghĩa có dáng dấp của một triết lý mà lại hoàn toàn phủ nhận mọi ràng buộc pháp lý và đạo đức. Do trình độ văn hóa sơ sài ông không được gần gũi với những trí thức lớn để biết rằng chủ nghĩa Marx đã bị bác bỏ. Nếu Lênin có văn hóa hơn rất có thể chủ nghĩa Marx đã không được phục hồi thành chủ nghĩa Mác-Lênin và lịch sử nước Nga và thế giới đã khác.

Thảm kịch Việt Nam

Thảm kịch đối với Việt Nam còn lớn hơn vì chủ nghĩa Mác-Lênin đã toàn thắng năm 1975, nghĩa là đúng 100 năm sau khi nó đã bị đào thải tại Châu Âu và cũng rất lâu sau khi nó đã gây ra những tội ác ghê gớm tại Liên Xô và Trung Quốc. Chúng ta chậm trễ một cách bi đát về tư tưởng chính trị. Sự chậm trễ này cho tới nay vẫn chưa được ý thức đầy đủ.

Nhiều người lạc quan cho rằng chủ nghĩa cộng sản không còn tại Việt Nam và hiện nay chúng ta đã ở trong giai đoạn hậu cộng sản. Nhận định này sai. Đã có thay đổi về mặt kinh tế nhưng kinh tế chính là mặt mà lý thuyết Marx chưa bao giờ được áp dụng. Vả lại thay đổi cũng không quan trọng như nhiều người nghĩ. Đảng và nhà nước cộng sản vẫn kiểm soát 2/3 hoạt động kinh tế. Trên các mặt khác, có tầm quan trọng lớn hơn hẳn, như quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản trên nhà nước, quan điểm cho rằng nhà nước và luật pháp chỉ là dụng cụ thống trị và bóc lột, sự phủ nhận hoàn toàn các giá trị đạo đức, và lý luận "biện chứng" tùy tiện cho phép rút ra bất cứ kết luận nào từ bất cứ sự kiện nào v.v. chế độ vẫn chưa hề thay đổi. Sự nới lỏng, nếu có, chỉ là vì chính quyền không đủ khả năng kiểm soát chứ không phải vì không muốn kiểm soát. Và vì trong tình trạng không thể kiểm soát tất cả nó nhắm trước hết những người phản kháng nên nó thả lỏng, nhiều khi sử dụng, các tệ nạn xã hội và các băng đảng xã hội đen.

Lịch sử có lẽ sẽ không khe khắt với ông Hồ Chí Minh, người đã du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam. Ông đã lầm như rất nhiều người Việt Nam vào lúc đó. Nhưng lịch sử chắc chắn sẽ khe khắt hơn nhiều với những người sau ông đã thấy nó sai nhưng vì tham vọng quyền lực vẫn áp đặt lên dân tộc.

Và lịch sử sẽ còn gay gắt hơn đối với những trí thức ở thế kỷ 21 vẫn không dám phản kháng trước một chính quyền trắng trợn tuyên bố tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lênin và còn áp đặt nó như là môn triết duy nhất được giảng dạy trong các trường học. Rất gay gắt. Bởi vì ngoài vấn đề trách nhiệm, các thế hệ mai sau sẽ còn bị dằn vặt với những câu hỏi nhức nhối về căn cước. Như họ từ đâu đến, và cha anh họ là hạng người gì.

Nguyễn Gia Kiểng
(Tháng 02/2012)

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Friedrich A. von Hayek: Đường về nô lệ

Lời người dịch: Tác phẩm Đường về nô lệ (The Road to Serfdom) xuất bản ở Anh vào tháng 3 năm 1944 và sáu tháng sau, tức là ngày 18 tháng 9 năm 1945, thì được ấn hành ở Mĩ. Phiên bản xuất hiện trên tạp chí The Reader’s Digest, được giới thiệu dưới đây, ra đời vào tháng 4 năm 1945 dưới tiêu đề “Một trong những cuốn sách quan trọng nhất trong thế hệ chúng ta” đã góp phần đưa Hayek trở thành nhân vật danh tiếng và công trình của ông trở thành cuốn sách bán chạy nhất ở Mĩ từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1945. Người dịch hoàn toàn đồng ý với Lawrence Frank khi ông viết trên tạp chí Saturday Review of Literature vào tháng 5 năm 1945 rằng bản rút gọn “có phần sắc sảo hơn” cả chính văn, và xin được giới thiệu với độc giả talawas.

Xin được nói đôi lời về tên gọi của cuốn sách. Bản chính của tác phẩm này đã được tiến sĩ Nguyễn Quang A dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề: Con đường dẫn tới chế độ nông nô. Dịch “serfdom” thành “nông nô” là hoàn toàn chính xác về mặt ngữ nghĩa, nhưng nền kinh tế kế hoạch hoá, mà Hayek phản bác trong cuốn sách này, nếu được đưa vào thực tiễn, sẽ không chỉ biến một bộ phận nhân dân, cụ thể là những người lao động chân tay thành nô lệ. Chúng ta đã có dịp chứng kiến 600 ông/bà tổng biên tập của 600 tờ báo và hàng ngàn nhà báo bị/tự bịp mồm, bịt mắt, bịt tai trước cảnh nhếch nhác của bà con “dân oan” giữa thành phố Hồ Chí Minh hoa lệ; thế rồi đùng một cái, sau gần một tháng trời “không thấy, không nghe” gì hết, họ bỗng đồng thanh hô lên rằng “đồng bào đã tự nguyện và vui vẻ lên xe ra về vào lúc nửa đêm!”. Đúng là một đám nô bộc rồi, nhưng không phải là “nông nô”, mà là “văn nô”. Chúng ta cũng đã từng được nghe nói tới Chủ-tịch-nước-nô, đấy là ông Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, người đã bị hành hạ và chết không khác gì một con vật, thậm chí còn nhục nhã hơn cả một con vật. Chúng ta cũng đã từng được nghe nói tới Tổng-bí-thư-đảng-nô, đấy là các ông N. Khrushchev và Triệu Tử Dương, những người đã bị các “đồng chí” của mình giam lỏng tại gia (có khác gì nhốt chó, nhốt ngựa) cho đến chết. Tóm lại, khi kế hoạch hoá nền kinh tế được tiến hành trên thực tế thì tất cả mọi người, trừ những kẻ vô liêm sỉ mà Hayek gọi là “những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất”, đều trở thành nô lệ cả. Vả lại chính Hayek cũng đã từng nói: “Ý tưởng đó đến từ Tocqueville, người từng nói về con đường dẫn đến sự nô lệ (servitude); tôi thích chọn từ này, nhưng nó lại mang âm hưởng không hay. Vì thế tôi đổi ‘servitude’ sang ‘serfdom’ chỉ đơn thuần vì lí do ngữ âm”.

Tôi cũng xin được không đồng ý với tiến sĩ Nguyễn Quang A khi ông dịch “to”, trong trường hợp này, thành “tới” bởi vì chế độ nô lệ cũng như chế độ nông nô đã bị bãi bỏ từ lâu. Đấy là các chế độ đã thuộc về quá khứ, con đường của lịch sử không hướng tới phía đó. Việc những chế độ như thế tái xuất hiện trong thế kỉ XX là do có những kẻ, dù khởi kì thuỷ có thể là những người tử tế, đã cố tình quay ngược bánh xe lịch sử, cố tình giữ mãi một phần nhân loại trong tình trạng nô lệ, trong tình trạng đói nghèo và thoái hoá về mặt đạo đức.

Dĩ nhiên, muổn hiểu đầy đủ tư tưởng của Hayek thì phải đọc chính văn, tức là phải đọc tác phẩm: Con đường dẫn tới chế độ nông nô do tiến sĩ Nguyễn Quang A chuyển ngữ, đã nói tới bên trên. Chỉ có điều, theo thiển ý, phải là người có niềm đam mê và lòng yêu chân lí vô bờ bến thì mới đủ sức vượt qua những khó khăn, trở ngại trên từng trang giấy, thậm chí trên từng câu chữ của dịch phẩm này. Nhưng bù lại, ta sẽ không phải “phát minh” một lần nữa các khiếm khuyết của chế độ toàn trị, một tên gọi khác của các chế độ cộng sản, xã hội chủ nghĩa, Quốc xã và phát xít, là những chế độ đã từng làm mưa làm gió trong suốt thế kỉ XX.

Nhân đây cũng xin được giới thiệu tác phẩm: Friedric Hayek - Cuộc đời và sự nghiệp do Lê Anh Hùng dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính và giới thiệu, nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2007. Tất cả các số liệu và trích dẫn của bài viết này đều lấy từ tác phẩm vừa nêu. Tin rằng việc xuất bản các tác phẩm của Hayek và viết về Hayek sẽ góp phần vào việc “giải chấp”, góp phần dẹp bỏ những cản ngại trên Đường tới Tự do mà hôm nay chúng ta đang chập chững bước những bước đầu tiên.

Phạm Minh Ngọc 
_________________________________________________________________

“Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn”.
Benjamin Franklin

Đường về nô lệ
(Bản rút gọn in trên tạp chí The Reader’s Digest tháng 4 năm 1945)

 
Tác giả đã sống nửa cuộc đời tại nước Áo quê hương mình và có mối liên hệ gần gũi với hệ tư tưởng Đức, nửa sau cuộc đời ông sống ở Anh và Mĩ. Trong những năm tháng sau này, càng ngày ông càng tin tưởng rằng những lực lượng đã từng góp phần phá huỷ nền tự do ở Đức cũng đang hoạt động ở đây.

Rất nhiều vụ bạo hành mà bọn Quốc xã đã thực hiện càng củng cố niềm tin rằng hệ thống toàn trị không bao giờ có thể được thiết lập ở đây. Nhưng xin hãy nhớ lại 15 năm trước, cứ mười người Đức thì có chín người, chưa kể đa số các nhà quan sát ngoại quốc, cho rằng đấy chỉ có thể là chuyện hoang đường.

Có rất nhiều thứ mà lúc đó được coi là “đặc trưng Đức” thì nay đã trở thành quen thuộc cả ở Mĩ cũng như ở Anh và có nhiều chỉ dấu chứng tỏ rằng sự phát triển sẽ theo cùng một hướng: sự sùng bái nhà nước, việc coi các “xu hướng tất yếu” là định mệnh, lòng đam mê “tổ chức” mọi thứ (chúng ta gọi là “lập kế hoạch”) ngày càng gia tăng.

Đặc trưng của hiểm hoạ, nếu có thể nói như thế, là người ta nhận thức về nó còn kém hơn cả ở Đức trước đây. Bi kịch ở chỗ là người ta vẫn chưa nhìn thấy rằng tại Đức, đa số những người tử tế, những người theo đường lối xã hội chủ nghĩa, đã dọn đường cho những lực lượng vốn ủng hộ những điều mà họ ghê tởm. Ít người nhận thức được rằng sự ngóc đầu dậy của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Quốc xã không phải là phản ứng chống lại các xu hướng xã hội chủ nghĩa trong quá khứ mà là kết quả tất yếu của chính các xu hướng đó. Đặc biệt là nhiều lãnh tụ của các phong trào này, kể từ Mussolini trở xuống (kể cả Laval và Quisling), đã khởi đầu như những người xã hội chủ nghĩa để cuối cùng trở thành những tên phát xít hay Quốc xã.

Hiện nay, trong các nước dân chủ có rất nhiều người thực sự căm ghét tất cả các biểu hiện của chủ nghĩa Quốc xã, nhưng lại đang theo đuổi những lí tưởng mà nếu được thực thi thì sẽ dẫn thẳng đến nền độc tài không thể chấp nhận được. Rất nhiều người mà quan niệm của họ có thể gây ảnh hưởng đến tiến trình phát triển, ở mức độ nào đó lại là những người xã hội chủ nghĩa. Họ tin rằng đời sống kinh tế phải được “dẫn dắt một cách tự giác”, họ tin rằng chúng ta phải thay hệ thống cạnh tranh bằng “kế hoạch hoá nền kinh tế”. Phải chăng đây là bi kịch còn lớn hơn nữa? Tức là trong khi cố gắng xây dựng tương lai của chúng ta theo những lí tưởng cao cả thì trên thực tế chúng ta đã vô tình tạo ra kết quả trái ngược hẳn với những gì chúng ta từng theo đuổi?

Kế hoạch hoá và quyền lực

Để đạt được mục tiêu, những người lập kế hoạch phải tạo ra quyền lực - thứ quyền lực do con người áp đặt lên con người – với sức mạnh chưa từng được biết đến trước đây. Thành công của họ phụ thuộc vào mức độ quyền lực mà họ giành được. Thể chế dân chủ góp phần ngăn chặn việc đàn áp tự do mà chế độ quản lí kinh tế tập trung đòi hỏi. Vì thế mà xảy ra đụng độ giữa kế hoạch hoá và dân chủ.

Nhiều người xã hội chủ nghĩa có ảo tưởng đáng buồn rằng với việc tước quyền lực mà các cá nhân sở hữu trong trong hệ thống cá nhân chủ nghĩa và chuyển quyền lực này vào tay xã hội là họ đang thực hiện việc xoá bỏ quyền lực. Điều họ không nhìn thấy chính là việc tập trung quyền lực để nó có thể phục vụ cho một kế hoạch duy nhất thì quyền lực không những không được chuyển hoá mà còn trở thành quyền lực tuyệt đối. Tập trung quyền lực, cái quyền lực trước đó vẫn nằm trong tay nhiều người độc lập với nhau, vào tay một người duy nhất thì quyền lực chẳng những đã tăng lên đến mức chưa từng có trước đây mà còn có ảnh hưởng sâu rộng gần như trở thành khác hẳn về chất.

Thật sai lầm khi cho rằng quyền lực của cơ quan lập kế hoạch trung ương cũng “không hơn gì quyền lực tập thể của ban giám đốc xí nghiệp tư nhân”. Trong xã hội cạnh tranh, không người nào có thể nắm được dù chỉ một phần quyền lực mà một bộ kế hoạch xã hội chủ nghĩa có thể sở hữu. Phi tập trung hoá quyền lực chính là làm giảm uy quyền và hệ thống cạnh tranh là hệ thống duy nhất được thiết kế với mục đích giảm thiểu quyền lực của con người áp đặt lên con người. Ai có thể nghi ngờ rằng quyền lực của một triệu phú, thí dụ như ông chủ của tôi, đối với tôi là nhỏ hơn rất nhiều so với quyền lực của một viên chức hạng bét, nhưng là kẻ nắm trong tay quyền lực cưỡng chế của nhà nước, kẻ có quyền quyết định tôi phải sống và làm việc như thế nào?

Nói gì thì nói, một người công nhân không có tay nghề được trả lương thấp nhất trong đất nước này cũng có nhiều quyền tự do trong việc định hướng cuộc đời của anh ta hơn một ông chủ có nhiều người làm thuê ở Đức hay các kĩ sư và cán bộ quản lí được trả lương cao hơn nhiều ở Nga. Nếu anh ta muốn thay đổi công việc hay chuyển chỗ ở, nếu anh ta muốn thể hiện một quan điểm nào đó hay muốn nghỉ ngơi theo cách nào đó, anh ta sẽ không gặp bất kì một sự cản trở độc đoán nào. Không có mối đe doạ nào đối với sự an toàn tính mạng, không có ai buộc anh ta phải thực hiện nhiệm vụ hay phải sống trong môi trường mà cấp trên đã phân cho anh ta.

Thế hệ của chúng ta đã quên rằng chế độ tư hữu là sự bảo đảm quan trọng nhất của tự do. Đấy là vì tư liệu sản xuất nằm trong tay nhiều người hoạt động độc lập với nhau cho nên chúng ta mới có thể tự quyết định cách hành xử của mình. Khi tất cả các phương tiện sản xuất chỉ nằm trong tay một người duy nhất, dù về danh nghĩa có là toàn thể “xã hội” hay là một nhà độc tài, thì người đó sẽ có quyền lực tuyệt đối đối với chúng ta. Khi nằm trong tay các cá nhân riêng rẽ, quyền lực kinh tế có thể trở thành phương tiện áp bức, nhưng không bao giờ có thể kiểm soát được toàn bộ cuộc sống của con người. Nhưng khi quyền lực kinh tế đã được tập trung lại như một công cụ của quyền lực chính trị thì nó sẽ tạo ra một sự phụ thuộc chẳng khác gì chế độ nô lệ. Người ta nói đúng rằng trong một quốc gia mà nhà nước là người sử dụng lao động duy nhất thì đối lập đồng nghĩa với chết từ từ vì đói.

Nguồn gốc của hiểm nguy

Chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với chủ nghĩa xã hội và tất cả các hình thức toàn trị khác, bắt nguồn từ sự tôn trọng của Thiên chúa giáo đối với cá nhân con người và niềm tin rằng tốt nhất là để cho người ta được tự do phát triển tài năng và thiên hướng cá nhân của mình. Triết lí này, đã phát triển một cách đầy đủ dưới thời Phục hưng, lớn lên và truyền bá trong khu vực mà ta gọi là nền văn minh phương Tây. Xu hướng phát triển chủ đạo của xã hội là giải phóng cá nhân khỏi những ràng buộc mà chế độ phong kiến đã tròng lên anh ta.

Sự phát triển kì diệu của khoa học có lẽ là kết quả vĩ đại nhất của sự khai phóng năng lượng cá nhân. Chỉ sau khi sự tự do trong lĩnh vực kĩ nghệ mở đường cho việc tự do sử dụng kiến thức mới, chỉ sau khi mọi thứ đều có thể được thử nghiệm - nếu tìm được người ủng hộ và chịu mạo hiểm – khoa học đã tiến những bước vĩ đại góp phần làm thay đổi bộ mặt thế giới trong suốt 150 năm qua. Kết quả của sự phát triển đã vượt quá tất cả mọi kì vọng. Khi tài năng được giải phóng khỏi mọi cản ngại, con người có thể nhanh chóng đáp ứng được mọi ước muốn. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX người lao động ở phương Tây đã đạt được những tiện nghi vật chất, mức độ an toàn và độc lập cá nhân mà một 100 năm trước tưởng chừng như khó có thể xảy ra.

Thành công này tạo ra trong một số người nhận thức mới về cái quyền lực vẫn ngự trị bên trên số phận của họ, tạo ra niềm tin về khả năng vô giới hạn trong việc cải thiện điều kiện sống của chính họ. Những thành tựu đã đạt được được coi là tài sản chắc chắn, không thể huỷ hoại, nghĩa là vĩnh viễn; tốc độ phát triển bắt đầu bị coi là quá chậm. Hơn thế nữa, các nguyên tắc từng làm cho quá trình phát triển trở nên khả dĩ bắt đầu bị coi là cản ngại cho sự gia tăng tốc độ của tiến trình và phải được loại bỏ càng nhanh càng tốt. Có thể nói rằng chính thành tựu của chủ nghĩa phóng khoáng đã trở thành nguyên nhân suy sụp của chính nó.

Không một người có suy nghĩ nào lại nghi ngờ các nguyên tắc kinh tế thế kỉ XIX - thực ra mới chỉ là bắt đầu - đấy là có rất nhiều sự lựa chọn trên con đường chúng ta đang đi. Nhưng theo quan điểm thịnh hành hiện nay thì câu hỏi không phải là trong xã hội tự do các lực lượng tự phát phải được sử dụng như thế nào cho có hiệu quả nhất. Trên thực tế chúng ta đã tiến hành loại bỏ các lực lượng đó và thay chúng bằng việc lãnh đạo tập thể và “tự giác”.

Điều đặc biệt là việc từ bỏ chủ nghĩa phóng khoáng, dù được gọi là chủ nghĩa xã hội dưới hình thức cấp tiến hay đơn giản là “tổ chức” hay “kế hoạch hoá”, đã được thực hiện ở Đức. Trong hai mươi lăm năm cuối thế kỉ XIX và hai mươi lăm năm đầu thế kỉ XX nước Đức đã tiến rất xa cả về lí thuyết lẫn thực hành chủ nghĩa xã hội, thậm chí hiện nay các cuộc thảo luận ở Nga chủ yếu là để bàn xem người Đức đang đứng ở chỗ nào. Người Đức, ngay từ trước khi xuất hiện chủ nghĩa Quốc xã, đã tấn công chủ nghĩa phóng khoáng và nền dân chủ, tấn công chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cá nhân.

Một thời gian dài trước khi chủ nghĩa Quốc xã xuất hiện, những người xã hội chủ nghĩa ở Đức và Ý đã sử dụng các kĩ thuật mà sau này Quốc xã và phát xít cũng sử dụng, nhưng hiệu quả hơn. Ý tưởng về một đảng chính trị nắm trọn toàn bộ hoạt động của con người, từ khi sinh ra cho đến lúc chết, một đảng tuyên bố hướng dẫn quan điểm của đảng viên về mọi vấn đề đã được những người xã hội chủ nghĩa đem ra áp dụng đầu tiên. Không phải là bọn phát xít mà chính những người xã hội chủ nghĩa đã tập hợp trẻ em còn bé tí vào các tổ chức chính trị nhằm lèo lái tư duy của chúng. Không phải là bọn phát xít mà chính là những người xã hội chủ nghĩa là những người đầu tiên nghĩ đến việc tổ chức các hoạt động thể thao và giải trí, các trận đấu bóng và cắm trại trong các câu lạc bộ của đảng để các thành viên không bị các quan điểm xa lạ làm cho lung lạc. Những người xã hội chủ nghĩa là những người đầu tiên đòi hỏi các đảng viên phải sử dụng các hình thức chào hỏi riêng để phân biệt họ với những người khác. Chính họ, với các tổ chức gọi là “chi bộ” và các cơ chế nhằm thường xuyên kiểm soát đời sống riêng tư của con người, đã tạo ra khuôn mẫu của các đảng toàn trị.

Ở Đức, chủ nghĩa phóng khoáng đã chết trước khi Hitler nắm được chính quyền. Chính chủ nghĩa xã hội đã giết nó.

Đối với những người từng quan sát sự chuyển hoá từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít trong một phần tư thế kỉ qua, mối liên hệ giữa hai hệ thống là rất rõ ràng, nhưng trong các nước dân chủ đa số vẫn tin rằng chủ nghĩa xã hội và tự do là những thứ có thể dung hoà được. Họ không nhận thức được rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ là một một khái niệm không tưởng vĩ đại nhất của mấy thế hệ gần đây, nó không chỉ bất khả thi mà cuộc đấu tranh vì lí tưởng của nó còn tạo ra một kết quả khác hẳn: huỷ hoại ngay chính tự do. Người ta đã nói đúng rằng: “Chính con người đã biến nhà nước thành địa ngục trần gian khi cố gắng biến nó thành thiên đàng trên cõi thế”

"Chủ nghĩa xã hội bảo thủ” là khẩu hiệu mà nhiều người cầm bút đã từng cổ động và bằng cách đó họ đã góp phần chuẩn bị môi trường cho chủ nghĩa Quốc xã. “Chủ nghĩa xã hội bảo thủ” cũng đang là xu hướng chủ đạo của chúng ta hiện nay.

Kế hoạch hoá phóng khoáng

“Kế hoạch hoá” được nhiều người ủng hộ, chủ yếu là vì chúng ta muốn giải quyết các vấn đề của xã hội với những kế hoạch càng tỉ mỉ càng tốt. Cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ kế hoạch hoá và những người theo trường phái phóng khoáng không phải là về vấn đề có nên sử dụng tư duy hệ thống vào việc lập kế hoạch công việc của chúng ta hay không mà là làm thế nào để được kết quả tốt nhất. Vấn đề là chúng ta có cần tạo ra những điều kiện trong đó kiến thức và sáng kiến cá nhân có những cơ hội tốt nhất để họ có thể lập kế hoạch một cách thành công nhất hay chúng ta phải hướng dẫn và tổ chức tất cả các hoạt động kinh tế theo một “bản thiết kế”, nghĩa là “hướng dẫn một cách tự giác các nguồn lực của xã hội để thực hiện quan điểm của người lập kế hoạch về việc ai được nhận cái gì”.

Điều quan trọng là không được lẫn lộn giữa quan niệm của những người phản đối “kế hoạch hoá” nói trên với thái độ “vô vi” (laissez fair) giáo điều. Phái phóng khoáng không ủng hộ quan điểm bỏ mặc cho mọi sự muốn ra sao thì ra; họ ủng hộ việc sử dụng một cách tốt nhất các lực lượng cạnh tranh, coi đấy là biện pháp phối hợp các nỗ lực của con người. Nó xuất phát từ niềm tin rằng hệ thống cạnh tranh hiệu quả chính là kim chỉ nam tốt nhất cho các cố gắng của từng cá nhân. Nó nhấn mạnh rằng để hệ thống cạnh tranh hoạt động hiệu quả thì phải có một khung pháp lí thật rõ ràng và các điều luật, cả trong quá khứ cũng như hiện tại, đều có những khiếm khuyết nghiêm trọng.

Mặc dù vậy, chủ nghĩa phóng khoáng phản đối việc thay thế hệ thống cạnh tranh bằng những biện pháp quản lí các hoạt động kinh tế thô sơ hơn. Chủ nghĩa phóng khoáng coi cạnh tranh là ưu việt hơn không chỉ vì trong hầu hết các trường hợp đấy chính là biện pháp hữu hiệu nhất mà còn vì đây là phương pháp không đòi hỏi sự can thiệp có tính cưỡng bức hoặc độc đoán của chính quyền. Nó bác bỏ “sự kiểm soát một cách tự giác của xã hội” và dành cho các nhân cơ hội lựa chọn, liệu triển vọng của một công việc cụ thể có bù đắp được những thiệt hại mà nó gây ra hay không.

Cạnh tranh không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn sự can thiệp của nhà nước. Thí dụ, qui định số giờ làm việc trong ngày, đặt ra các yêu cầu về vệ sinh, cung cấp hệ thống dịch vụ xã hội rộng khắp là hoàn toàn phù hợp với hệ thống cạnh tranh. Dĩ nhiên là có những lĩnh vực không thể áp dụng hệ thống cạnh tranh. Thí dụ, hậu quả tiêu cực của việc phá rừng hay khói nhà máy không chỉ tác động lên người chủ sở hữu các tài sản đó. Nhưng việc chúng ta phải nhờ đến sự can thiệp trực tiếp của chính quyền ở những lĩnh vực không thể tạo được điều kiện cho cạnh tranh hoạt động hiệu quả không có nghĩa là chúng ta phải ngăn chặn cạnh tranh ở những nơi có thể làm cho nó hoạt động. Tạo ra các điều kiện để cạnh tranh hiệu quả nhất, ngăn chặn gian lận và lừa đảo, phá bỏ độc quyền – là nhiệm vụ không thể thoái thác của nhà nước.

Điều này không có nghĩa là có thể tìm được một cái “trung đạo” giữa cạnh tranh và quản lí tập trung, mặc dù đây có vẻ là điều hợp lí nhất và hấp dẫn nhất đối với những người có hiểu biết. Chỉ cần suy nghĩ một chút là thấy ngay sự sai lầm của quan niệm như thế. Mặc dù cạnh tranh có thể chấp nhận một mức độ can thiệp nhất định, không thể kết hợp cạnh tranh với kế hoạch hoá bởi nếu làm như thế cạnh tranh sẽ không còn là kim chỉ nam cho quá trình sản xuất nữa. Sử dụng một cách nửa vời, cả cạnh tranh lẫn hệ thống quản lí tập trung sẽ trở thành công cụ tồi và kém hiệu quả; trộn lẫn vào nhau sẽ làm cho cả hai cùng mất khả năng hoạt động.

Chúng ta có thể kết hợp giữa kế hoạch hoá và cạnh tranh để lập kế hoạch cho việc cạnh tranh chứ không phải lập kế hoạch để chống cạnh tranh. Kế hoạch hoá mà chúng ta phê phán chính là kế hoạch hoá để chống cạnh tranh.

Sự ngộ nhận vĩ đại

Không nghi ngờ gì rằng phần lớn những người sống trong các nước dân chủ nhưng lại đòi hỏi phải quản lí tập trung tất cả các hoạt động kinh tế vì họ vẫn tin rằng chủ nghĩa xã hội và tự do cá nhân có thể dung hoà được với nhau. Nhưng nhiều nhà tư tưởng đã công nhận từ lâu rằng chủ nghĩa xã hội là mối đe doạ nguy hiểm nhất đối với tự do.

Hiện nay ít người nhớ rằng khởi kì thuỷ chủ nghĩa xã hội đã là một phong trào toàn trị. Nó là phản ứng chống lại chủ nghĩa phóng khoáng của Cách mạng Pháp. Các nhà văn Pháp, những người xây dựng nền móng cho chủ nghĩa xã hội, không hề nghi ngờ gì rằng phải có một chính phủ độc tài cứng rắn thì tư tưởng của họ mới có thể trở thành hiện thực được. Saint-Simon, người ủng hộ kế hoạch hoá đầu tiên trong thời hiện đại, đã tiên đoán rằng những người không tuân phục các bộ phận lập kế hoạch mà ông ta đề nghị sẽ bị “đối xử như súc vật”.

De Tocqueville, nhà chính trị học vĩ đại, hơn bất kì ai khác đã nhận thức được rằng dân chủ sẽ phải chiến đấu một mất một còn với chủ nghĩa xã hội: “Dân chủ mở rộng không gian tự do của từng con người”, ông nói. “Dân chủ trao cho mỗi người tất cả các giá trị khả dĩ”, ông nói như thế vào năm 1848, “trong khi chủ nghĩa xã hội biến mỗi người thành một kẻ thừa hành, thành một con số tròn trĩnh. Dân chủ và chủ nghĩa xã hội chỉ có một cái chung, đấy là từ: công bằng. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt: trong khi dân chủ tìm kiếm sự công bằng trong tự do thì chủ nghĩa xã hội tìm kiếm công bằng trong tù ngục và lao động khổ sai”.

Để người ta bớt nghi ngờ và với mục đích biến lòng khao khát tự do – động lực chính trị mạnh mẽ nhất – thành con ngựa kéo xe cho mình, những người xã hội chủ nghĩa lớn tiếng hứa hẹn “một nền tự do mới”. Họ bảo rằng chủ nghĩa xã hội sẽ đem đến cho con người “tự do kinh tế”, thiếu nó thì “tự do chính trị” sẽ chẳng có ý nghĩa gì.


Để cho lập luận của mình nghe có vẻ xuôi tai người ta đã khéo léo thay đổi cả ý nghĩa của từ “tự do”. Từ này vốn có nghĩa là tự do khỏi những hành động cưỡng bách, tự do khỏi quyền lực độc đoán của những người khác. Ngày nay nó đã được cải biến để có nghĩa là giải phóng khỏi nhu cầu, giải phóng khỏi sự ép buộc của hoàn cảnh, những sự ép buộc nhất định sẽ hạn chế khả năng lựa chọn của mỗi chúng ta. Tự do, với ý nghĩa như thế, thật ra chỉ là tên gọi khác của quyền lực hoặc tài sản. Yêu cầu một nền tự do mới thực ra chỉ là tên gọi khác của yêu cầu cũ, tức là yêu cầu phân phối lại tài sản mà thôi.

Lời khẳng định rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn hệ thống cạnh tranh đang bị và ngày càng bị nhiều nhà nghiên cứu bác bỏ. Niềm hi vọng sai lầm này chính là động lực mạnh nhất thúc đẩy chúng ta đi theo con đường kế hoạch hoá.

Ngay cả khi những lời hứa hẹn của những người xã hội chủ nghĩa hiện đại về một nền tự do rộng rãi hơn có thực tế và chân thành đến đâu đi nữa thì trong những năm gần đây những người quan sát càng ngày càng tỏ ra ngạc nhiên khi trực diện với những hậu quả không thể dự đoán trước được của chủ nghĩa xã hội, ngạc nhiên khi thấy “chủ nghĩa cộng sản” và “chủ nghĩa phát xít” giống nhau đến bất ngờ trong nhiều lĩnh vực. Như nhà văn Peter Drucker đã viết vào năm 1939: “Không còn ai tin rằng chủ nghĩa Marx sẽ đem lại tự do và công bằng nữa, đấy chính là lí do thúc đẩy nước Nga bước lên con đường dẫn tới xã hội toàn trị phi tự do và bất công mà nước Đức đã theo. Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít không phải là những thực thể giống nhau. Chủ nghĩa phát xít là giai đoạn tiếp theo, sau khi chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ rằng đấy chỉ là một ảo tưởng, và nó đã chứng tỏ rằng đấy là một ảo tưởng, cả ở Nga cũng như ở Đức trước khi Hitler cướp được chính quyền”.

Trình độ tri thức của các đảng viên thường trong phong trào cộng sản và phát xít ở Đức trước năm 1933 cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. Nhiều người, nhất là những cán bộ tuyên truyền của cả hai đảng, đều biết việc những người cộng sản trẻ tuổi dễ dàng chạy sang đảng Quốc xã hoặc ngược lại. Cộng sản và Quốc xã thường xuyên xung đột với nhau hơn là xung đột với các đảng phái khác, đơn giản là vì họ cạnh tranh với nhau trong việc thu phục những người có cùng não trạng và căm thù nhau vì đảng này coi đảng kia là những kẻ dị giáo. Thực tế chứng tỏ rằng họ là những kẻ đồng hội đồng thuyền. Kẻ thù thực sự của cả hai đảng là người theo chủ nghĩa phóng khoáng kiểu cũ. Trong khi Quốc xã coi cộng sản, cộng sản coi Quốc xã và cả hai đều coi những người xã hội chủ nghĩa là đội hậu bị tiềm năng của mình thì họ lại nhận thức rõ rằng sẽ không bao giờ có chuyện thoả hiệp giữa họ và những người thực sự tin tưởng vào quyền tự do cá nhân.

Lời hứa về Con đường dẫn đến Tự do trên thực tế lại là Con đường quay về chế độ Nô lệ. Không khó dự đoán những hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra một khi chế độ dân chủ theo đuổi đường lối kế hoạch hoá. Mục đích của kế hoạch hoá được mô tả bằng một thuật ngữ mù mờ là “hạnh phúc của tất cả mọi người”. Sẽ không có sự thoả thuận nào về mục đích sẽ phải đạt, và hiệu quả của việc người ta đồng ý là cần phải có kế hoạch hoá tập trung mà không có thoả thuận về mục đích thì có khác gì một nhóm người thoả thuận đi với nhau mà chưa thoả thuận là họ muốn đi đâu: kết quả là có thể tất cả đều phải làm một chuyến đi mà đa số hoàn toàn không muốn chút nào.

Trong các nước dân chủ, cơ quan lập pháp không thể hoạt động như là các tổ chức lập kế hoạch. Họ không thể đạt được thoả thuận về tất cả mọi vấn đề, tức là không thể đạt được thoả thuận về việc quản lí toàn bộ nguồn lực quốc gia, vì có rất nhiều đường lối hành động có thể chấp nhận được. Nếu quốc hội có thể đạt được thoả thuận nào đó, bằng cách tiến hành từng bước một và thoả hiệp mọi vấn đề, thì cuối cùng thoả thuận đó cũng chẳng làm ai thoả mãn.

Lập kế hoạch kinh tế kiểu đó thì cũng khó chẳng khác gì, thí dụ, lập kế hoạch cho chiến dịch quân sự bằng các thủ tục dân chủ. Giống như khi lập chiến lược tác chiến, nhất định phải giao cho các chuyên gia. Ngay cả khi nền dân chủ có thể lập được kế hoạch trong từng lĩnh vực kinh tế thì nó vẫn phải giải quyết vấn đề kết hợp những kế hoạch riêng rẽ ấy thành một kế hoạch tổng thể. Lúc đó nhu cầu phải có một ban hay một người duy nhất với toàn quyền hành động lại càng mạnh mẽ hơn. Nhu cầu phải có một nhà độc tài về kinh tế là giai đoạn đặc thù của phong trào hướng đến kế hoạch hoá.

Lúc đó cơ quan lập pháp chỉ còn mỗi nhiệm vụ là lựa chọn ra những người sẽ có quyền lực tuyệt đối trên thực tế. Cả hệ thống sẽ tiến đến hình thức độc tài, trong đó người đứng đầu chính phủ được bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu, nhưng hắn có toàn quyền buộc cuộc bầu cử phải đi theo hướng mà hắn muốn.

Kế hoạch hoá nhất định sẽ dẫn đến chế độ độc tài vì độc tài là công cụ cưỡng bức hiệu quả nhất, nhất là nếu kế hoạch hoá tập trung được thực hiện trên qui mô lớn. Không có gì chứng tỏ, như nhiều người vẫn tin như thế, rằng một khi quyền lực được trao bằng các thủ tục dân chủ thì nó không thể là quyền lực độc đoán; nguồn gốc của quyền lực không ngăn được nó khỏi độc đoán; nếu không muốn sống dưới chế độ độc tài thì quyền lực phải bị giới hạn. “Chuyên chính vô sản”, ngay cả nếu nó có dân chủ về hình thức, một khi đã thực hiện việc quản lí tập trung nền kinh tế no sẽ tiêu diệt hoàn toàn quyền tự do cá nhân như bất kì chế độ độc tài nào khác đã từng làm trong quá khứ.

Tự do cá nhân không thể dung hoà với một mục đích tối thượng duy nhất mà cả xã hội phải vĩnh viễn phục tùng. Chỉ xin nói đến kinh nghiệm mà chúng ta đã trải qua trong thời chiến, khi mà hầu như tất cả đều phải phục tùng nhu cầu trực tiếp và khẩn thiết là bằng mọi giá phải bảo vệ cho được nền tự do của chúng ta. Những câu chữ sang trọng về những việc phải làm vì mục đích hoà bình như chúng ta từng làm vì mục đích chiến tranh là những câu chữ hoàn toàn sai, vì tạm thời hi sinh tự do để tự do trở thành vững mạnh hơn trong tương lai là hợp lí, còn thường xuyên phải hi sinh tự do vì nhu cầu của nền kinh tế kế hoạch hoá là việc hoàn toàn khác.

Những người từng quan sát sự chuyển hoá từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít trong một phần tư thế kỉ qua đều dễ dàng nhận thấy mối liên hệ giữa hai hệ thống này. Thực hiện cương lĩnh của chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với việc tiêu diệt tự do. Chủ nghĩa xã hội dân chủ, một sự ngộ nhận vĩ đại của mấy thế hệ gần đây, đơn giản là bất khả thi.

Tại sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất?

Không nghi ngờ gì rằng hệ thống “phát xít” ở Anh hay ở Mĩ sẽ khác rất xa mô hình của Ý hay Đức; không nghi ngờ gì rằng nếu việc chuyển hoá được thực hiện một cách phi bạo lực thì chúng ta có thể hi vọng có được những nhà lãnh đạo tử tế hơn. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là hệ thống phát xít của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hay sẽ dễ chịu hơn nguyên mẫu của chúng. Có nhiều lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống toàn trị nói trên là những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra.

Khi một chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế thì ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn: chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ kế hoạch, còn nhà lãnh đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị, những kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế độ toàn trị và nền văn minh cá nhân chủ nghĩa phương Tây.

Lãnh tụ toàn trị phải tập hợp xung quanh ông ta những kẻ tự nguyện phục tùng cái kỉ luật mà họ sẽ dùng vũ lực áp đặt cho toàn bộ nhân dân. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà đa số những người xã hội chủ nghĩa phản đối, đấy chính là bài học của nhiều nhà cải cách xã hội trong quá khứ. Các đảng xã hội cổ điển hoạt động trong khuôn khổ của các lí tưởng dân chủ; họ không có tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi các nhiệm vụ mà họ đã chọn. Điều đặc biệt là cả ở Đức lẫn ở Ý, chủ nghĩa phát xít đã thành công sau khi các đảng xã hội từ chối nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo chính phủ. Họ không muốn áp dụng những biện pháp vì đã nhận ra khả năng phát triển của chúng. Họ vẫn hi vọng vào phép màu rằng đa số sẽ đồng ý về một kế hoạch tổ chức toàn bộ xã hội. Những người khác thì đã học được bài học rằng trong xã hội được kế hoạch hoá vấn đề không còn là đa số sẽ đồng ý cái gì mà là vấn đề nhóm lớn nhất là nhóm nào, chỉ cần các thành viên của nó đồng ý là đủ để hình thành đường lối thống nhất cho tất cả mọi công việc.

Có ba lí do vì sao cái nhóm có đông thành viên, với những quan điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất mà thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội.

Thứ nhất, trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu và quan điểm càng phân hoá. Nếu chúng ta muốn tìm một sự thống nhất cao về quan điểm thì chúng ta phải hạ thấp tiêu chuẩn đạo đức và tri thức của chúng ta xuống ngang hàng với những bản năng nguyên thuỷ. Điều đó không có nghĩa là đa số dân chúng có tiêu chuẩn đạo đức thấp; điều đó chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với những chuẩn mực giá trị giống nhau là những người có tiêu chuẩn đạo đức thấp.

Thứ hai, vì nhóm đó chưa đủ lớn để làm nghiêng cán cân sang phía lãnh tụ, ông ta sẽ phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách kết nạp thật nhiều người vào cùng tín điều với ông ta. Ông ta phải tìm được sự ủng hộ của những kẻ dễ bảo và cả tin, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp nhận các hệ thống giá trị sẵn có miễn là được rót vào tai họ một cách liên tục. Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một cách dở dang, những kẻ dễ dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào lại là thành phần đông nhất của các đảng toàn trị.

Thứ ba, để có thể đưa những người ủng hộ thành một tập thể cố kết, người lãnh đạo phải lợi dụng những nhược điểm của con người. Có vẻ như người ta dễ dàng đồng thuận về những vấn đề có tính tiêu cực như chí căm thù giặc, lòng ghen tức với những kẻ khá giả, hơn là về những nhiệm vụ có tính tích cực.

Sự tương phản giữa “chúng ta” và “chúng nó” luôn bị những kẻ săn tìm lòng trung thành của quần chúng lợi dụng. Kẻ thù có thể là bên trong như “Do Thái” ở Đức hay “Kulak” ở Nga, hay kẻ thù bên ngoài. Trong mọi trường hợp kĩ thuật này bao giờ cũng giành được ưu thế ở chỗ nó làm cho lãnh tụ có nhiều tự do hành động hơn bất kì chương trình mang tính tích cực nào khác.

Trong tổ chức hay đảng toàn trị, muốn thăng tiến thì phải dám làm những việc bất nhân. Trong đạo đức học cá nhân chủ nghĩa, nguyên tắc mục đích biện minh cho phương tiện được coi là sự phủ nhận mọi tiêu chuẩn đạo đức thì trong đạo đức học của chủ nghĩa tập thể lại trở thành nguyên tắc tối thượng. Một người theo chủ nghĩa tập thể kiên định phải sẵn sàng làm tất cả mọi việc nếu đó là việc “có ích cho tất cả mọi người” vì đối với anh ta đấy là tiêu chuẩn hành động duy nhất.

Một khi chấp nhận rằng cá nhân chỉ là phương tiện phục vụ cho một thực thể cao quí hơn, gọi là xã hội hay quốc gia cũng được, thì phần lớn các đặc trưng của chủ nghĩa toàn trị mà chúng ta kinh tởm tất yếu sẽ xuất hiện. Từ quan điểm của chủ nghĩa tập thể thì sự bất dung và đàn áp tàn bạo, dối trá và theo dõi, coi thường cuộc sống và hạnh phúc cá nhân là những việc thuộc về bản chất và không thể tránh được. Những hành động làm chúng ta ghê tởm như bắn giết con tin, giết người già hay người ốm được coi là những việc thích hợp; di dân cưỡng bức và bắt lưu đầy hàng trăm ngàn người trở thành biện pháp chính trị được hầu như tất cả mọi nguời, trừ các nạn nhân, ủng hộ.

Muốn trở thành người có ích cho sự vận hành của nhà nước toàn trị, để đạt được mục đích, con người phải sẵn sàng bước qua mọi nguyên tắc đạo đức mà anh ta từng biết. Trong bộ máy toàn trị những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ luôn giành được cơ hội tốt. Gestapo hay các ban quản lí các trại tập trung, Bộ tuyên truyền hay SA hoặc SS (hoặc những cơ quan tương ứng của Nga) không phải là chỗ thể hiện tình cảm của con người. Nhưng đấy chính là con đường tiến thân trong ban lãnh đạo của nhà nước toàn trị.

Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mĩ, giáo sư Frank H. Knight, đã nhận xét rất đúng rằng chính quyền của nhà nước theo chế độ tập thể “dù muốn hay không cũng phải làm những việc đó: xác suất những người nắm chính quyền là các cá nhân không thích giữ và thể hiện quyền lực cũng ngang bằng với xác suất một người cực kì dịu dàng muốn làm công việc của cai đội trong trại nô lệ”.

Một vấn đề nữa cần phải làm rõ: Chủ nghĩa tập thể nghĩa là sự cáo chung của chân lí. Muốn cho hệ thống toàn trị hoạt động hữu hiệu thì việc mọi người đều buộc phải làm vì mục đích do những kẻ nắm quyền lựa chọn vẫn chưa đủ; điều quan trọng là người ta phải coi đấy là mục đích của chính mình. Chỉ có thể thực hiện được điều đó bằng tuyên truyền và kiểm soát toàn bộ các nguồn thông tin.

Cách tốt nhất để người dân chấp nhận các giá trị mà họ phải phục vụ là thuyết phục họ rằng đấy là các giá trị họ vẫn luôn luôn tin tưởng, chỉ có điều trước đây họ đã hiểu chưa thật đúng mà thôi. Và biện pháp tốt nhất là gán cho các ngôn từ cũ những ý nghĩa hoàn toàn mới. Điều đó đã trở thành đặc điểm chủ yếu của bầu không khí trí tuệ của chế độ toàn trị, làm cho những người quan sát hời hợt phải lúng túng: ngôn ngữ bị xuyên tạc, ý nghĩa của từ ngữ bị biến dạng.

Bị xuyên tạc nhiều nhất chính là từ “tự do”, một từ được các nhà nước toàn trị, cũng như mọi quốc gia khác, sử dụng thường xuyên. Trên thực tế, có thể nói rằng bất cứ khi nào tự do, theo nghĩa chúng ta hiểu, bị xâm hại thì bao giờ người ta cũng hứa hẹn cho nhân dân một nền tự do mới. Có những người ủng hộ kế hoạch hoá còn hứa cho nền “tự do tập thể”, nhưng đây cũng là khái niệm đáng ngờ như bất cứ khái niệm nào phát ra từ miệng các chính khách toàn trị mà thôi. “Tự do tập thể” không phải là tự do của từng thành viên trong xã hội mà là quyền tự do của người lập kế hoạch, được phép làm với xã hội tất cả những gì hắn muốn. Đây là tự do trong tay kẻ có quyền lực tuyệt đối

Tuyệt đại đa số rất dễ bị tước đoạt khả năng suy nghĩ độc lập. Nhưng thiểu số những người còn giữ được khả năng phê bình cũng phải bị bịt miệng. Việc phê bình công khai hay thậm chí ngay cả những biểu hiện của sự nghi ngờ cũng bị ngăn chặn vì chúng có thể làm suy giảm sự ủng hộ chế độ. Như Sidney và Beatrice Webb viết về thái độ trong các doanh nghiệp Nga: “Khi công việc đang được tiến hành, bất kì biểu hiện công khai nào về sự ngờ vực về khả năng thành công của kế hoạch đều bị coi là sự bất trung, thậm chí phản bội vì nó có thể ảnh hưởng đến ý chí và nỗ lực của những người khác”.

Việc kiểm soát còn được thực hiện cả trong những lĩnh vực có vẻ như chẳng liên quan gì đến chính trị. Thí dụ như thuyết tương đối bị coi là “Cuộc tấn công của bọn Do Thái vào cơ sở của vật lí học Thiên chúa giáo và Bắc Âu” và vì nó “mâu thuẫn với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa Marx”. Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ mục tiêu tự giác của xã hội. Không thể có những hoạt động tự phát, thiếu lãnh đạo vì nó có thể tạo ra kết quả không thể dự đoán và không được kế hoạch trù liệu.

Nguyên tắc này còn bao trùm lên cả các trò chơi cũng như giải trí. Tôi xin mời bạn đọc đoán xem những người chơi cờ chính thức kêu gọi: "Chúng ta phải chấm dứt một lần và vĩnh viễn thái độ trung lập của môn cờ vua. Chúng ta phải lên án một lần và vĩnh viễn công thức ‘cờ chỉ là cờ’” này ở đâu.

Điều đáng lo ngại nhất là, thái độ khinh thường tự do trí thức không phải là việc chỉ xảy ra sau khi chế độ toàn trị được thành lập mà nó hiện diện trong những người tin vào chủ nghĩa tập thể trên khắp thế giới. Sự đàn áp tàn bạo nhất cũng vẫn được bỏ qua nếu nó được thực hiện nhân danh chủ nghĩa xã hội. Người ta công khai cổ vũ cho thái độ bất dung đối với những tư tưởng khác biệt. Bi kịch của tư tưởng tập thể là ở chỗ nó bắt đầu bằng việc coi lí trí là tối thượng nhưng lại kết thúc bằng việc tiêu diệt lí trí.

Một khía cạnh nữa của sự thay đổi các giá trị đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra cũng đáng phải suy nghĩ. Những đức tính tốt mà người Anglo-Saxon có quyền tự hào và nhờ chúng mà họ được coi là những người ưu tú lại đang càng ngày càng mất giá ở Anh và Mĩ. Đấy là những tính tốt như tính độc lập và tự lực cánh sinh, sáng kiến và trách nhiệm cá nhân, tin tưởng vào các hoạt động thiện nguyện, không can thiệp vào công việc của người khác và tinh thần khoan dung đối với sự khác biệt, tinh thần nghi ngờ lành mạnh đối với quyền lực và chính quyền.

Hầu như tất cả các truyền thống và thiết chế hun đúc nên bản sắc dân tộc và toàn bộ môi trường đạo đức của nước Anh và nước Mĩ đang bị chủ nghĩa tập thể và xu hướng tập quyền hàng ngày hàng giờ phá huỷ.

Kế hoạch hoá và pháp trị
Việc tuân thủ một trong những nguyên tắc cổ xưa vĩ đại nhất gọi là Pháp trị là điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa một đất nước tự do với một đất nước nằm dưới quyền chính phủ độc đoán. Bỏ qua các chi tiết kĩ thuật, điều này có nghĩa là mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ các nguyên tắc đã được ấn định và tuyên bố từ trước – các nguyên tắc này cho phép người ta dự đoán được một cách chắc chắn cách thức chính phủ sử dụng lực lượng cưỡng bức trong những hoàn cảnh cho trước và lập kế hoạch cho các công việc của cá nhân trên cơ sở những hiểu biết như thế. Như vậy là, trong khuôn khổ của luật chơi đã biết, cá nhân - được tự do theo đuổi các mục tiêu của mình - chắc chắn rằng chính phủ sẽ không sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện nhằm cản trở các nỗ lực của anh ta.

Kế hoạch hoá kinh tế xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ làm hoàn toàn ngược lại. Cơ quan lập kế hoạch không thể tự buộc mình vào những qui tắc chung, tức là những qui tắc có thể ngăn chặn sự độc đoán.

Khi chính phủ phải quyết định cần nuôi bao nhiêu lợn hay cần cho bao nhiêu xe bus chạy, mỏ than nào cần được khai thác, hoặc đôi giầy giá bao nhiêu, tất cả quyết định đó đều không có giá trị trong thời gian dài. Chắc chắn chúng phải phụ thuộc vào hoàn cảnh của từng giai đoạn, và trong khi ra quyết định người ta phải cân nhắc quyền lợi của các cá nhân và các nhóm khác nhau.

Cuối cùng, một người nào đó sẽ phải quyết định lợi ích của ai là quan trọng hơn và quan điểm của người đó sẽ phải trở thành một phần của luật pháp. Do đó mà ai cũng thấy rằng nhà nước càng “lập nhiều kế hoạch” thì lại càng gây khó khăn cho các cá nhân.

Sự khác nhau giữa hai loại luật là rất quan trọng. Khác nhau như việc cung cấp những tấm biển chỉ đường và chỉ cho người ta phải đi theo đường nào.

Hơn nữa, chính phủ hoạt động theo kế hoạch từ trung ương thì không thể là một chính phủ khách quan. Lúc đó nhà nước sẽ không còn là một phần của bộ máy công lợi có chức năng giúp cho các cá nhân phát triển các khả năng của mình một cách đầy đủ nhất, mà sẽ trở thành một thể chế cố tình gây ra bất công trong việc thoả mãn nhu cầu của nhân dân, cho phép một người được làm cái mà người khác bị cấm. Một số người sẽ được giầu có đến mức nào, một số người khác thì được phép có những gì, nhất định sẽ trở thành luật.

Pháp trị là chính phủ không tạo ra đặc quyền pháp lí cho một nhóm người cụ thể nào đó, pháp trị cũng là bảo đảm sự công bằng trước pháp luật, tức là khác hẳn với chính phủ độc đoán. Điều đặc biệt là những người xã hội chủ nghĩa (và cả Quốc xã) luôn luôn phản đối nền tư pháp “chỉ” mang tính hình thức, họ cũng phản đối việc luật không ghi rõ một số người sẽ được sung túc đến mức nào, họ còn đòi “xã hội hoá luật pháp” và tấn công sự độc lập của các quan toà.

Trong xã hội kế hoạch hoá, luật pháp phải hợp thức hoá các hành động độc đoán. Nếu luật pháp khẳng định rằng một cơ quan hay nhà chức trách nào đó có thể làm bất kì cái gì họ muốn thì cơ quan ấy hoặc nhà chức trách ấy làm bất kì cái gì cũng đều là hợp pháp cả, nhưng đấy không phải là pháp trị. Khi đã trao cho chính phủ quyền lực vô giới hạn thì ngay nguyên tắc độc đoán nhất cũng có thể được luật hoá; và bằng cách đó nền dân chủ có thể biến thành chế độ độc tài hoàn hảo nhất có thể tưởng tượng được.

Chỉ trong giai đoạn phóng khoáng, pháp trị mới được người ta tự giác thúc đẩy và đấy cũng là thành quả vĩ đại nhất của giai đoạn này. Đấy là hiện thân về mặt pháp lí của tự do. Như Immanuel Kant từng nói: “Theo luật chứ không theo người, đấy chính là tự do”.

Kế hoạch hoá là “tất yếu”?

Rõ ràng là hiện nay ít người ủng hộ kế hoạch hoá còn có thể vênh vang nói rằng kế hoạch hoá tập trung là điều đáng mơ ước nữa. Hiện nay đa phần những người đó đều khẳng định rằng chúng ta buộc phải làm như thế vì hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.

Người ta thường lập luận rằng sự phức tạp của nền văn minh hiện đại đã tạo ra những vấn đề mới mà chúng ta chỉ có thể hi vọng giải quyết bằng kế hoạch hoá tập trung mà thôi. Nói như thế là hoàn toàn không hiểu sự vận hành của cạnh tranh. Chính sự phức tạp của hoàn cảnh hiện thời lại làm cho cạnh tranh trở thành biện pháp điều phối công việc phù hợp nhất.

Nếu các điều kiện đơn giản đến mức một cá nhân hay cơ quan nào đó có thể theo dõi được tất cả các sự kiện thì kiểm soát một cách hiệu quả hay kế hoạch hoá không phải là việc khó. Nhưng nếu phải tính đến nhiều tác nhân và là các tác nhân phức tạp thì không một trung tâm nào có thể theo dõi được. Các điều kiện cung cầu của các loại hàng hoá khác nhau thay đổi thường xuyên, không một trung tâm nào có thể nhận thức hết hoặc có thể giải quyết ngay được.

Nhờ cạnh tranh – ngoài ra không trật tự kinh tế nào có thể làm được - hệ thống giá cả sẽ tự động ghi lại tất cả các dữ liệu tương ứng. Doanh nhân, bằng cách quan sát sự vận động của giá cả, giống như người kĩ sư quan sát sự vận hành của các bánh răng, có thể điều chính hoạt động của anh ta cho phù hợp với hoạt động của các doanh nhân khác.

So với phương pháp giải quyết các vấn đề kinh tế một cách phi tập trung cộng với việc điều phối tự động thông qua giá cả thì phương pháp quản lí tập trung tỏ ra vụng về, thô thiển và có tầm hoạt động giới hạn đến khó tin. Không hề phóng đại khi nói rằng nếu chúng ta phải dựa vào kế hoạch hoá tập trung để phát triển thì hệ thống công nghiệp không thể nào đạt được mức độ phức tạp và uyển chuyển như hiện nay. Nền văn minh hiện đại có thể xuất hiện chính là vì nó không được xây dựng một cách có ý thức. Việc phân công lao động phức tạp đến mức không thể nào lập kế hoạch được. Kinh tế càng phức tạp thì việc quản lí tập trung càng không cần thiết, chúng ta càng phải sử dụng kĩ thuật cạnh tranh chứ không được lệ thuộc vào việc kiểm soát có ý thức.

Người ta còn lập luận rằng sự thay đổi công nghệ làm cho cạnh tranh trở thành bất khả vì các lĩnh vực không ngừng tăng lên và chúng ta buộc phải lựa chọn giữa việc kiểm soát sản xuất bởi các công ty độc quyền tư nhân hoặc sự quản lí của chính phủ. Sự gia tăng độc quyền có vẻ như là hậu quả của chính sách mà nhiều nước theo đuổi chứ không hẳn là hậu quả tất yếu của phát triển công nghệ. Vấn đề này được Hội đồng Kinh tế Quốc gia Lâm thời nghiên cứu một cách toàn diện (thật khó có thể nghi ngờ rằng đây là một nghiên cứu quá thiên về phía phóng khoáng). Hội đồng đã rút ra kết luận như sau:

“Hiệu quả vượt trội của các xí nghiệp lớn chưa được chứng minh; các lợi thế được cho là có thể huỷ hoại cạnh tranh đã không được tìm thấy trong nhiều lĩnh vực… Kết luận rằng lợi thế của sản xuất qui mô lớn nhất định sẽ dẫn đến tiêu diệt cạnh tranh là không thể chấp nhận được… Hơn nữa, cần phải ghi nhận rằng độc quyền thường là kết quả của những thoả thuận ngầm và được thúc đẩy bởi chính sách của chính phủ. Khi các thoả thuận này bị coi là phi pháp và khi chính sách được xem xét lại một cách toàn diện thì có thể tái lập các điều kiện cần thiết cho cạnh tranh phát triển.”

Bất kì ai từng chứng kiến sự nhiệt tình của các doanh nhân độc quyền trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của nhà nước nhằm làm cho sự kiểm soát của họ hữu hiệu hơn sẽ không còn một chút nghi ngờ nào về “tính tất” yếu của quá trình phát triển như thế. Ở Mĩ chính sách bảo hộ quá mức đã giúp cho nạn độc quyền phát triển. Ở Đức, từ năm 1878 nhà nước đã chủ động thi hành chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của các cartel. Chính ở Đức, nhờ sự giúp đỡ của nhà nước, người ta đã tiến hành một thí nghiệm vĩ đại đầu tiên trong việc “lập kế hoạch một cách khoa học” và “tổ chức một cách tự giác nền công nghiệp” dẫn đến việc hình thành các công ty độc quyền vô cùng to lớn. Thủ tiêu cạnh tranh là chính sách có tính toán ở Đức, được thực hiện nhân danh lí tưởng mà nay chúng ta gọi là kế hoạch hoá.

Chính sách của hai nhóm đầy quyền lực, tức là tư bản có tổ chức và lao động có tổ chức vốn ủng hộ tổ chức độc quyền trong lĩnh vực công nghiệp, chứa đựng một nguy cơ lớn. Gần đây các tổ chức độc quyền phát triển mạnh là do sự hợp tác của tư bản có tổ chức và lao động có tổ chức, nơi một vài nhóm người lao động được ưu tiên ưu đãi chia nhau lợi nhuận độc quyền làm thiệt hai cho cộng đồng và đặc biệt là thiệt hại cho những người lao động trong các ngành công nghiệp thiếu tổ chức. Mặc dù vậy, không có lí do gì để tin rằng xu hướng này là tất yếu.

Xu hướng chuyển sang kế hoạch hoá là kết quả của một hành động có chủ đích. Không có nhu cầu ngoại tại nào buộc chúng ta phải làm như thế.

Kế hoạch hoá có làm chúng ta bớt lo không?


Phần lớn những người ủng hộ kế hoạch hoá, từng xem xét một cách nghiêm túc khía cạnh thực tiễn của nhiệm vụ, không hề nghi ngờ gì rằng nền kinh tế được quản lí (tập trung - ND) nhất định phải vận hành theo phương pháp độc tài, rằng hệ thống phức tạp của các hoạt động liên kết chằng chịt với nhau phải nằm dưới sự chỉ đạo của các chuyên gia, viên tổng tư lệnh phải có quyền lực tuyệt đối, hành động của ông ta không thể bị giới hạn bởi các thủ tục dân chủ. May là họ còn an ủi chúng ta rằng việc quản lí độc tài như thế “chỉ” liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà thôi. Lời bảo đảm đó thường đi kèm với ám chỉ rằng bằng cách từ bỏ tự do trong những lĩnh vực không quan trọng, chúng ta sẽ được tự do theo đuổi những giá trị cao cả hơn. Trên cơ sở đó, những người vốn ghét cay ghét đắng độc tài chính trị lại thường lên tiếng đòi hỏi độc tài trong lĩnh vực kinh tế.

Các lí lẽ được sử dụng nhắm vào những bản năng cao quí nhất của chúng ta. Nếu kế hoạch hoá thực sự làm cho chúng ta không còn phải bận tâm với những lo lắng vụn vặt, làm cho đời sống vật chất của chúng ta trở thành đơn giản nhưng chúng ta lại có một đời sống tinh thần cao thì ai nỡ coi thường lí tưởng như thế?

Đáng tiếc là mục đích kinh tế không bao giờ tách rời khỏi các mục đích khác của đời sống. Cái trong ngôn ngữ bình thường mà ta vẫn gọi một cách sai lầm là “động cơ kinh tế” chỉ có nghĩa là ước muốn giành lấy những cơ hội tiềm tàng, giành lấy những điều kiện cho những mục tiêu khác mà thôi. Chúng ta muốn kiếm tiền là vì tiền cho chúng ta quyền được lựa chọn trong việc thụ hưởng thành quả lao động của mình – tiền ta ta cứ tiêu.

Vì thu nhập có hạn nên chúng ta cảm thấy những hạn chế do sự nghèo khó tương đối đè trên vai mình và nhiều người sinh ra căm thù tiền bạc, coi tiền là biểu tượng của sự hạn chế. Trên thực tế, tiền là công cụ vĩ đại nhất của tự do mà con người từng phát minh. Trong xã hội hiện nay chính tiền đã mở ra cho người nghèo những khả năng lựa chọn to lớn, mà trước đây vài thế kỉ ngay cả người giầu cũng không có.

Để hiểu được giá trị thật sự của đồng tiền phải tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trên thực tế, nếu, như những người xã hội chủ nghĩa đề nghị: dùng “khuyến khích phi kinh tế” thay cho “động cơ kinh tế”. Nếu mọi phần thưởng, thay vì được trao bằng tiền lại được trao bằng danh hiệu, đặc lợi hay quyền lực, nhà ở hay lương thực thực phẩm tốt hơn, quyền được đi du lịch hay đi học thì điều đó có nghĩa là người nhận không có quyền lựa chọn và bất cứ người quyết định thưởng nào cũng có quyền xác định không chỉ số lượng mà cả cách thức hưởng thụ phần thưởng đó.

Cái gọi là tự do kinh tế mà những người ủng hộ kế hoạch hoá hứa hẹn, chỉ có nghĩa là chúng ta không còn phải tự giải quyết các vấn đề kinh tế của mình nữa và những lựa chọn khó khăn đi kèm với nó đã được những người khác làm hộ cho chúng ta. Trong thời đại ngày nay chúng ta gần như phụ thuộc hoàn toàn vào những phương tiện do người khác sản xuất ra cho nên kế hoạch hoá kinh tế sẽ kéo theo sự quản lí gần như toàn bộ đời sống của chúng ta. Khó có lĩnh vực nào, từ những nhu cầu sơ đẳng cho đến quan hệ của chúng ta với bạn bè, người thân, từ việc làm cho đến cách nghỉ ngơi của chúng ta thoát khỏi được “sự kiểm soát có ý thức” của những lập kế hoạch.

Quyền lực của các cơ quan lập kế hoạch đối với đời sống riêng tư của chúng ta sẽ không hề giảm ngay cả khi người tiêu dùng, trên danh nghĩa, được tự do sử dụng thu nhập của mình vì chính quyền vẫn kiểm soát sản xuất.

Quyền tự do lựa chọn trong xã hội cạnh tranh dựa trên sự kiện là nếu một người nào đó không chịu đáp ứng nhu cầu của chúng ta thì chúng ta có thể quay sang người khác. Nhưng đứng trước một nhà sản xuất độc quyền thì chúng ta chỉ còn hi vọng vào lòng tốt của ông ta mà thôi. Và như thế, khi nhà chức trách quản lí toàn bộ nền kinh tế sẽ trở thành một người độc quyền lớn nhất mà ta có thể tưởng tượng được.

Cơ quan này sẽ có toàn quyền quyết định ta được nhận cái gì và với điều kiện nào. Cơ quan này không chỉ quyết định loại hàng hoá và dịch vụ được cung cấp mà còn cả số lượng của chúng nữa; nó có thể quản lí cả việc phân phối giữa các địa phương và nhóm xã hội và nếu muốn, nó có thể thực hiện chính sách phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện nhất. Không phải quan điểm của chúng ta mà quan điểm của một người nào đó về việc ta phải thích hay không thích cái gì sẽ quyết định ta được nhận cái gì.

Nếu là người sản xuất, chúng ta còn bị nhà chức trách nhào nặn và “hướng dẫn” kĩ lưỡng hơn nữa. Đa số chúng ta sử dụng phần thời gian trong cuộc đời để làm việc và công việc của chúng ta thường quyết định nơi cư trú và những người xung quanh ta. Do đó, đối với hạnh phúc của chúng ta, tự do lựa chọn công việc có thể còn quan trọng hơn cả quyền tự do sử dụng thu nhập trong thời gian rảnh rỗi.

Ngay cả trong những thế giới tốt đẹp nhất, quyền tự do này vẫn có giới hạn. Chỉ một ít người có thể tự coi là thực sự có tự do trong việc lựa chọn công việc. Nhưng vấn đề là chúng ta có thể lựa chọn, vấn đề là chúng ta không bị trói chặt vào công việc đã được người khác lựa chọn cho ta và nếu ta không thể chịu đựng được công việc đó nữa, hoặc nếu ta thích công việc khác thì những người có khả năng vẫn có thể, với một cái giá phải trả nào đó, tìm được công việc thích hợp hơn. Không có gì đau khổ hơn là nhận thức được rằng dù cố gắng đến đâu chúng ta cũng không thể thay đổi được điều kiện sống của mình. Làm một bánh răng trong một cỗ máy đã là khổ, nhưng còn khổ hơn bội phần nếu ta không thể bỏ đi, nếu ta bị cột chặt vào một chỗ, cột chặt vào những người lãnh đạo do người khác lựa chọn cho ta.

Trong thế giới ngày nay, còn phải làm nhiều nữa thì mới mong cải thiện được cơ hội lựa chọn của người dân. Nhưng “kế hoạch hoá” chắc chắn sẽ đi theo hướng ngược lại. Kế hoạch phải kiểm soát số người gia nhập vào những ngành nghề khác nhau hay kiểm soát mức lương hoặc kiểm soát cả hai. Việc kiểm soát và hạn chế như thế thường là những biện pháp được thi hành đầu tiên trong hầu như tất cả các trường hợp kế hoạch hoá mà ta đã biết.

Trong xã hội cạnh tranh có thể mua được mọi thứ. Đôi khi với giá cực kì cao. Muốn được cái này thì phải hi sinh cái kia. Nhưng cái mà người ta đưa ra không phải là tự do lựa chọn mà là mệnh lệnh và cấm đoán mà ta nhất định phải tuân theo.

Việc người ta muốn giải thoát khỏi những sự lựa chọn đầy đau đớn mà hoàn cảnh khó khăn đặt lên vai họ là điều dễ hiểu. Nhưng ít người muốn người khác lựa chọn hộ. Họ chỉ muốn không cần phải lựa chọn gì hết mà thôi. Và vì thế mọi người đều sẵn sàng tin rằng lựa chọn không phải là vấn đề tất yếu, chúng ta phải lựa chọn là vì hệ thống kinh tế buộc chúng ta phải làm như thế. Sự thật là, chính các vấn đề kinh tế đã làm cho người dân phẫn nộ.

Nhưng người ta lại thích bị lừa rằng vấn đề kinh tế không tồn tại trên thực tế. Họ còn tiếp tục bị lừa thêm bởi lời khẳng định rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn hệ thống cạnh tranh. Lời khẳng định này đang càng ngày càng bị nhiều nhà nghiên cứu bác bỏ. Hiện nay ngay cả những nhà kinh tế học theo xu hướng xã hội chủ nghĩa cũng chỉ còn hi vọng rằng nền kinh tế kế hoạch hoá sẽ có hiệu quả ngang với hệ thống cạnh tranh mà thôi. Họ tiếp tục bảo vệ kế hoạch hoá vì hệ thống này sẽ bảo đảm việc phân phối sản phẩm một cách công bằng hơn. Nếu chúng ta muốn quyết định một cách có ý thức ai được nhận cái gì thì chúng ta buộc phải lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế, đấy là vấn đề không cần tranh cãi.

Vấn đề chỉ còn là liệu cái giá mà ta phải trả cho việc thực hiện lí tưởng của ai đó về sự công bằng có phải là sự bất bình và áp bức sẽ khủng khiếp hơn cả thời “các lực lượng kinh tế được chơi một cách tự do” - vốn đang bị phê phán dữ dội - hay không mà thôi.

Chính phủ sẽ thực hiện việc phân phối sản phẩm theo nguyên tắc nào? Có một câu hỏi chung cuộc cho biết bao nhiêu vấn đề sẽ xuất hiện hay không?

Chỉ có một nguyên tắc chung, nguyên tắc đơn giản này sẽ đưa ra câu trả lời: sự bình đẳng tuyệt đối cho tất cả mọi người. Nếu đấy là mục đích thì ít nhất nó cũng làm cho ý tưởng mù mờ về phân phối công bằng có một nội dung rõ ràng. Nhưng vấn đề là dân chúng đâu có muốn một sự công bằng cơ học như thế, còn chủ nghĩa xã hội thì không hứa công bằng tuyệt đối mà chỉ hứa “công bằng hơn” mà thôi.

Trên thực tế, công thức này chẳng giải đáp được bất kì câu hỏi nào. Công thức đó chẳng giúp được gì, chúng ta vẫn phải quyết định, trong từng trường hợp cụ thể, mức độ cống hiến của từng người hoặc từng nhóm khác nhau. Điều duy nhất nó có thể nói được: đấy là lấy của người giầu, càng nhiều càng tốt. Nhưng khi phải chia “quả thực” thì vấn đề lại xuất hiện, cứ như thể chưa ai biết công thức “công bằng hơn” nghĩa là thế nào vậy.

Người ta thường nói không có tự do kinh tế thì tự do chính trị cũng chẳng có giá trị gì. Đúng như thế, nhưng theo nghĩa ngược lại với mệnh đề mà những người ủng hộ kế hoạch hoá thường nói. Tự do kinh tế - vốn là tiền đề cho mọi quyền tự do khác - không phải là tự do khỏi những lo lắng về kinh tế mà những người xã hội chủ nghĩa hứa hẹn với chúng ta, nhưng họ lại thường quên nói rằng họ cũng giải phóng chúng ta khỏi quyền lựa chọn nữa. Tự do kinh tế là tự do hoạt động kinh tế, và cùng với quyền lựa là trách nhiệm và rủi ro.

Hai kiểu an toàn


Giống như cái “tự do kinh tế” giả mạo đã nói đến bên trên, sự an toàn về kinh tế cũng thường được coi là điều kiện tối cần để đạt được tự do thực sự. Theo một nghĩa nào đó thì điều đó vừa đúng vừa quan trọng nữa. Những người không tự tin rằng họ có thể tự nuôi sống được mình thường không có tư duy độc lập và không có cá tính mạnh.

Nhưng thực ra an toàn cũng có hai loại. Loại an toàn thứ nhất là tin chắc rằng mọi người đều được nhận những thứ tối cần thiết để tồn tại; loại an toàn thứ hai là sự bảo đảm cho một lối sống, một địa vị tương đối mà một người hoặc một nhóm người được hưởng so với những người khác.

Muốn giữ được tự do nói chung thì không có lí do gì mà một xã hội đã đạt đến mức độ thịnh vượng như xã hội chúng ta lại không bảo đảm cho tất cả mọi người loại an toàn thứ nhất, nghĩa là bảo đảm cho mọi người một lượng thức ăn tối thiểu, nhà ở và quần áo để bảo đảm sức khỏe. Không có lí do gì mà chính phủ lại không giúp tổ chức một hệ thống an sinh xã hội rộng khắp nhằm trợ giúp cho những người gặp hoạn nạn mà ít người có thể vượt qua được. Kế hoạch hoá để bảo vệ loại an toàn thứ hai là có hại cho tự do. Đấy là kế hoạch được thiết kế nhằm bảo đảm cho một số người hoặc nhóm người tránh được thất thu.

Càng ngày càng rõ rằng nếu điều kiện kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó được cải thiện nhưng các thành viên của nó lại được phép đẩy những người khác ra để họ được hưởng toàn bộ lợi thế dưới dạng tiền lương hay lợi nhuận cao hơn thì những người làm việc trong các ngành mà mức cầu suy giảm sẽ chẳng có chỗ mà đi và bất kì sự thay đổi nào cũng đều làm cho số người thất nghiệp gia tăng. Không nghi ngờ gì rằng số người thất nghiệp và sự thiếu tin tưởng vào tương lai trong mấy chục năm lại đây phần lớn là do những biện pháp bảo đảm như thế tạo ra.

Chỉ có những người từng trải qua mới thấy hết được tình cảnh tuyệt vọng của những người, trong cái xã hội đã trở thành xơ cứng như thế, bị đẩy ra bên ngoài những nghề nghiệp đã được bảo hộ. Chưa bao giờ một giai cấp lại bóc lột một giai cấp khác một cách dã man hơn là những người sản xuất đã thành đạt bóc lột những người sản xuất kém may mắn hơn. Đấy chính là kết quả của quá trình “điều tiết” cạnh tranh. Khó có thể tìm được khẩu hiệu gây ra nhiều tai hoạ hơn là lí tưởng về sự “ổn định” giá cả và tiền lương trong một số lĩnh vực nào đó, vì trong khi bảo đảm thu nhập cho một số người thì lại làm cho vị thế của những người khác càng bấp bênh thêm. Ở Anh và Mĩ sự ưu tiên, ưu đãi, đặc biệt là dưới hình thức “điều tiết” cạnh tranh, “ổn định” giá cả và tiền lương trong một số lĩnh vực đã ngày càng trở thành quan trọng. Nhưng bất cứ sự bảo đảm an toàn nào cho một nhóm cũng sẽ làm gia tăng sự mất an toàn của những nhóm khác. Nếu bạn bảo đảm cho một người nào đó một phần cố định của một cái bánh thì phần chia cho những người còn lại sẽ thay đổi còn nhiều hơn cả sự thay đổi của chính kích thước cái bánh. Và như vậy là yếu tố chủ yếu nhất của sự an toàn mà hệ thống cạnh tranh cung cấp, tức là sự đa dạng của cơ hội sẽ càng ngày càng giảm đi.

Những cố gắng nhằm bảo đảm sự an toàn bằng các biện pháp bảo hộ, được nhà nước ủng hộ, cùng với thời gian đã tạo ra trong xã hội những biến dạng nghiêm trọng - những biến dạng đủ loại mà Đức là nước dẫn đầu và những nước khác đã đi theo. Quá trình này còn được lí thuyết xã hội chủ nghĩa thúc đẩy hơn nữa: cố tình miệt thị tất cả các hoạt động có dính dáng với rủi ro kinh tế và lên án về mặt đạo đức đối với những khoản thu nhập xứng đáng để mạo hiểm nhưng chỉ một ít người thành công.

Chúng ta không thể trách các bạn trẻ khi họ thích được an toàn, được ăn lương hơn là mạo hiểm kinh doanh vì ngay từ khi còn bé họ đã được dạy rằng viên chức hưởng lương là nghề cao sang, bất vụ lợi và không ích kỉ như các doanh nhân. Thế hệ trẻ hiện nay đã lớn lên trong một thế giới mà cả trường học lẫn báo chí đều tìm cách thoá mạ tinh thần cạnh tranh thương mại, đều coi việc kiếm lời là vô luân, coi việc sử dụng 100 người lao động là bóc lột nhưng chỉ huy một số người tương đương lại là vinh dự. Những người già hơn có thể cho rằng nói thế là phóng đại, nhưng kinh nghiệm tiếp xúc hàng ngày với sinh viên của tôi cho thấy rằng việc tuyên truyền chống tư bản đã làm cho các giá trị của giới trẻ thay đổi và việc thay đổi giá trị đã diễn ra trước khi có những điều chỉnh trong các thiết chế. Vấn đề là liệu khi điều chỉnh các thiết chế cho phù hợp với những đòi hỏi mới, chúng ta có vô tình phá huỷ các giá trị mà chúng ta vẫn còn đánh giá cao hay không.

Như vậy là chúng ta đang đối mặt với mâu thuẫn căn bản giữa hai kiểu tổ chức xã hội không đội trời chung, thường được mô tả như là thương mại và quân sự. Trong trường hợp thứ nhất, cá nhân được quyền lựa chọn và tự chịu rủi ro; trường hợp thứ hai, cá nhân được giải thoát khỏi cả hai. Trong quân đội, công việc và người công nhân đều do cấp trên chỉ định, đây là hệ thống duy nhất mà cá nhân được bảo đảm hoàn toàn về mặt kinh tế. Nhưng sự bảo đảm này lại gắn liền với những hạn chế về quyền tự do và hệ thống cấp bậc, nghĩa là sự an toàn của trại lính.

Trong xã hội đã quen với tự do, chắc chẳng có mấy người sẵn sàng đánh đổi sự an toàn với cái giá như thế. Nhưng chính sách đang được thực thi hiện nay sẽ nhanh chóng tạo ra những điều kiện mà ước muốn an toàn sẽ mạnh hơn tình yêu đối với tự do.

Nếu chúng ta không có ý định tiêu diệt quyền tự do cá nhân thì cạnh tranh phải được vận hành mà không gặp phải cản ngại nào. Cần làm tất cả để ai cũng được bảo đảm một mức mức sống tối thiểu, nhưng đồng thời xin được nói rằng tất cả những lời kêu gọi về đặc quyền an toàn của những giai cấp nhất định phải bị bãi bỏ, cũng xin loại bỏ ngay những lời biện hộ cho phép những nhóm nhất định ngăn cản những người mới chia sẻ lợi nhuận nhằm bảo đảm cho họ một lối sống đặc thù nào đó.

Dĩ nhiên là một sự đảm bảo thoả đáng dành cho những trường hợp thiếu thốn quá mức phải là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách của chúng ta. Nhưng không có gì khủng khiếp hơn là cái mốt ca ngợi sự an toàn với cái giá phải trả là tự do của các “cây đa, cây đề” trong hàng ngũ trí thức. Điều quan trọng là chúng ta phải học lại để nhận chân sự thật rằng tự do có giá của nó và từng cá nhân phải sẵn sàng chấp nhận những hi sinh to lớn về vật chất để bảo vệ tự do.

Chúng ta phải tái khẳng định lại niềm tin và cũng là cơ sở của tư tưởng tự do trong các nước Anglo-Saxon, đã được Benjamin Franklin thể hiện trong một câu, có thể áp dụng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc, như sau: “Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn”.

Hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn

Muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn chúng ta phải có đủ dũng khí để làm một cuộc khởi đầu mới. Chúng ta phải dọn sạch những cản ngại mà con người đã dựng lên trong thời gian gần đây và phải giải phóng năng lượng sáng tạo trong từng cá nhân. Chúng ta phải tạo điều kiện có lợi cho sự tiến bộ chứ không phải có lợi cho “lập kế hoạch cho sự tiến bộ”. Những kẻ kêu gào “kế hoạch hoá” nhiều hơn nữa không phải là những người dũng cảm, những kẻ tuyên truyền “Trật tự mới” cũng chẳng làm gì khác hơn là bắt chước Hitler, tức là tiếp tục những xu hướng từng diễn ra suốt 40 năm qua. Trên thực tế, những kẻ kêu gọi kế hoạch hoá to mồm nhất lại là những kẻ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất những tư tưởng đã phát động cuộc chiến tranh với biết bao những sự khủng khiếp mà nó gây ra cho chúng ta. Nguyên tắc dẫn đạo trong việc xây dựng một thế giới với những con người tự do phải là: Chính sách bảo đảm tự do cá nhân là chính sách duy nhất đúng. 

Nguồn: Talawas

Facebook Digg Stumbleupon Favorites More