"Văn minh có nghĩa là đạt được cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của con người. Nhưng cái tạo ra những tiện nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người là kiến thức và đạo đức, bản chất của văn minh chính là quá trình phát triển kiến thức và đạo đức con người" - Fukuzawa Yukichi
"Thích điều nhân mà không thích học thành ra người ngu, thích mưu lược mà không thích học thành ra người tặc, thích điều thẳng mà không thích học thành ra người giảo, thích đức dũng mà không thích học thành ra người loạn, thích cương cường mà không thích học thành ra người cuồng!" - Khổng Tử
"Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự bạo ngược bất công là soi sáng đến hết mức có thể tâm trí của quần chúng và đặc biệt là cho họ tri thức và sự thật." - Thomas Jefferson
"Hòa bình không có nghĩa là hết xung đột; sự khác biệt luôn hiện diện trong quan hệ giữa người và người. Hòa bình là giải quyết sự khác biết đó thông qua những phương pháp ôn hòa; bằng đối thoại, giáo dục, sự hiểu biết; và bằng những cách thức khác mang tính nhân bản." - Dalai Lama

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Bài diễn văn của ông trùm da đỏ Seattle

Seatle (1786-1866) là ông trùm các bộ lạc da đỏ Duwamish và Suquamish lúc đó sinh sống bên vùng đông nước Mỹ. Sau khi đã tạo nên Khu vực Washington năm 1853, chính phủ Washington « đề nghị » người da đỏ ký các hiệp định để mua đất của họ. Người da đỏ biết là không thể nào từ chối được. Dưới đây là bài diễn văn hùng hồn và đau đớn của ông Seattle, trùm da đỏ, đọc trước thống đốc Isaac Stevens. Nhiều ý và căn dặn được nhắc đi nhắc lại, đọc lên thấy rất thấm thiết. Bài diễn văn này được coi là một bài học, một gia tài văn học thiêng liêng để đời và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Nguyễn Vạn An phóng dịch từ bản đã dịch sang Pháp Ngữ.

Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất ?

Ý nghĩ đó đối với chúng tôi thật kỳ lạ. Thế nếu chúng tôi không sở hữu cái mát mẻ của không khí và cái lung linh của mặt nước, thì các người làm sao mà mua ?

Mỗi mẩu đất này đều thiêng liêng cho dân tộc chúng tôi.

Mối cái kim óng ánh của lá thông, mỗi bờ cát, mỗi mảnh sa mù trong khu rừng âm u, mỗi bờ suối, mỗi tiêng vo vo của côn trùng đều là thiêng liêng trong ký ức và từng trải của chúng tôi.

Nhựa chảy trong thân cây mang đầy kỷ niệm của người dân da đỏ.

Linh hồn những người da trắng đã quên xứ mình sinh ra khi đi vào giữa các vì sao. Linh hồn những người chết chúng tôi không bao giờ quên trái đất tuyệt vời này, vì trái đất là mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là thành phần của đất và đất là thành phần của chúng tôi. Hoa thơm là em gái chúng tôi, con hươu, con ngựa, con đại bàng là anh em chúng tôi. Các đỉnh núi, các chất ngọt trong đồng ruộng, hơi ấm con ngựa nhỏ, và con người, tất cả đều cùng một gia đình.

Cho nên khi ông Sếp Lớn ở Hoa Thịnh Đốn cho người tới nói ông muốn mua đất của chúng tôi, thì ông đã đòi hỏi rất nhiều ở chúng tôi. Ông Sếp cho nói là ông sẽ dành một nơi để chúng tôi có thể sống thoải mái với nhau. Ông sẽ là cha chúng tôi và chúng tôi sẽ là con cái của ông. Chúng tôi cũng phải xét đề nghị mua đất của ông. Nhưng cái đó quả thật là rất khó. Bởi vì đất này thiêng liêng đối với chúng tôi.

Nước lung linh chảy trong các giòng suối và giòng sông không phải chỉ là nước mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì các ông phải nhớ đất là của thiêng và mỗi phản chiếu đầy mầu sắc của mặt nước trong dưới hồ luôn nhắc nhở những biến cố và kỷ niệm cúa dân tộc chúng tôi. Tiếng nước suối thì thầm là tiếng của người cha của cha tôi.

Các con sông là anh em chúng tôi, đã cho chúng tôi đỡ khát. Các giòng sông mang thuyền chèo và nuôi các con tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì từ đây các ông phải nhớ, và phải dậy cho con các ông, là các giòng sông là anh em chúng tôi và cũng là anh em các ông, và các ông phải thân thương giòng sông như các ông thân thương huynh đệ các ông. Chúng tôi biết người da trắng không hiểu tập quán chúng tôi. Đối với họ, mảnh đất này cũng như mảnh đất kia, họ là người ngoại xứ ban đêm đến lấy của đất cái gì họ cần. Đất không phải là anh em họ, mà là kẻ thù, khi họ lấy được thì họ tiến nữa. Họ bỏ mồ mả của tổ tiên mà không trăn trở gì. Họ lấy đất của con cái mà không trăn trở gì. Mồ mả của tổ tiên và gia tài của con cái họ bị rơi vào quên lãng. Họ coi mẹ, đất đai, anh em, trời đất, như là đồ vật mua bán, cướp phá, bán đi như bán những con cừu, hay những hạt ngọc óng ánh. Lòng tham lam xui họ nghiến ngấu đất đai và chỉ còn để lại một cái sa mạc.

Không có nơi nào an bình trong các tỉnh của người da trắng. Không có chỗ nào để nghe tiếng lá cuộn mình trong mùa xuân, hay tiếng cọ sát của cánh những con bọ. Cũng có thể vì tôi là người man rợ nên tôi không hiểu. Những tiếng động đó hình như chỉ nhức tai họ. Sống làm chi nếu con người không nghe thấy tiếng kêu lẻ loi của con én hay tiếng trò chuyện tào lao của các con ếch trong cái ao ban đêm ?

Chắc tôi là người da đỏ nên tôi không hiểu. Người chúng tôi ưa tiếng gió êm ru trườn trên mặt hồ, ngay cả mùi của gió đã được nước mưa trưa nay rửa sạch, hay đã được lá thông đã cho thêm hương thơm.

Không khí rất trân quí cho người da đỏ, vì mọi sự đều chia nhau một hơi thở.

Súc vật, cây cối, con người. Đều chung với nhau một hơi thở.

Người da trắng hình như không để ý đến không khí họ thở. Như người phải để ra mấy ngày mới tắt thở, họ không biết mùi hôi thối. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải nhớ là không khí rất trân quý cho chúng tôi và nhớ là không khí chia sẻ hồn nó với những sinh vật nó nuôi sống. Cơn gió đã cho ông cha chúng ta hơi thở đầu cũng là cơn gió đã nhận ở ông cha chúng ta hơi thở cuối cùng. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải giữ riêng nó và coi nó là thiêng liêng, là nơi mà cả người da trắng các ông cũng được đến để hưởng làn gió đã được dịu lại với hương hoa của đồng nội. Chúng tôi phải xét đề nghị của ông. Nhưng nếu chúng tôi nhận lời, thì tôi cho các ông một điều kiện: người da trắng phải coi các sinh vật trên mảnh đất này như những anh em !

Tôi là người man rợ, tôi không biết cách sống khác !

Tôi đã thấy xác một ngàn con bò rừng thối rữa trên cánh đồng, bỏ lại khi các người da trắng từ trên các chuyến tầu hỏa đi qua bắn chúng nó chết. Tôi là một người man rợ, tôi không hiểu tại sao con ngựa sắt phun khói của các ông lại quan trọng hơn những con bò rừng mà chúng tôi chỉ giết để sinh sống.

Con người là gì nếu không còn thú vật ? Nếu tất cả thú vật đều mất hết, con người sẽ chết trong một tâm linh lẻ loi. Bởi vì cái gì đến cho thú vật rồi sẽ đến với con người. Mọi sự trên đời đều liên can với nhau.

Các ông phải dạy cho con cháu là đất chúng bước lên được tạo bởi tàn hương của tổ tiên. Dạy cho chúng biết tôn trọng đất, bảo chúng là đất được giầu có bởi đời sống của giòng giõi. Dạy cho con cái các ông những điều mà chúng tôi dạy cho con cái chúng tôi, là đất là người mẹ. Cái gì xẩy đến cho đất sẽ xẩy đến cho con cái của đất. Ai khạc nhổ lên đất là khạc nhổ lên chính mình !

Ít nhất chúng tôi cũng biết điều này: là đất không thuộc về người mà người thuộc về đất. Điều đó chúng tôi biết. Mọi điều đều liên đới với nhau như máu mủ trong một gia đình. Mọi sự đều liên đới với nhau.

Cái gì đến với đất sẽ đến với con cái của đất.

Không phải con người đã xây lên cái khung của cuộc đời. Người chỉ là một sợi dây. Cái gì người làm cho cái khung của cuộc đời là họ làm cho chính mình.

Dù người da trắng được thượng đế của họ đi cùng và nói chuyện như những người bạn, họ cũng không thể vượt qua được số mạng chung. Nói cho cùng, chúng ta và người da trắng có thể cũng là anh em. Để rồi xem sao. Có một điều chúng tôi biết, điều mà người da trắng có thể một ngày kia sẽ khám phá ra, là chúng ta có cùng một thượng đế. Có thể bây giờ các người cho là đã có được thượng đế của các người như các người muốn sở hữu đất đai của chúng tôi. Nhưng các người không làm được điều đó. Vì thượng đế là của mọi người và lòng từ bi dành cho người da trắng và cho người da đỏ đều như nhau. Đất là của quý của trời. Phá hại đất là mang nặng khinh khi với đấng tạo hóa đã sinh ra đất. Rồi người da trắng cũng sẽ bị tiêu diệt, có thể trước các bộ lạc khác. Làm lây trùng cái giường, các người đêm sẽ ngủ trong xú uế của chính mình.

Rồi khi chết các người sẽ huy hoàng với đầy sức mạnh của thượng đế đã đem các người đến vùng đất này, rồi vì một sứ mạng nào đó, đã giúp các người ngự trị vùng đất này và ngự trị dân da đỏ. Cái định mệnh đó là một bí hiểm cho chúng tôi, vì chúng tôi không hiểu khi tất cả những con bò rừng đã bị tàn sát, các con ngựa đã bị chế ngự, những góc bí mật của các khu rừng đã mang đầy hơi của những nhóm người, và các ngọn đồi đầy hoa đã bị tàn lụi bởi những người đến nói bi bô.

Thì dẫy rừng đâu? Đã biến mất. Và con đại bàng đâu? Đã biến mất.

Ngày tận cùng của sự sống, ngày bắt đầu của sự sống còn.

Trùm da đỏ Seattle, 1854.

Phạm Quỳnh: Bàn về quốc học





Bài liên quan

“Or cette notion de d’objectivité, cette habitude de la précision, cést précisément ce qui manque, sembletil, à la connaissance orientale, d'ailleurs substantiellement si riche, spirituellement si profonde. Seraitil impossible d’appliquer la forme de la science occidentale au contenu de la connaissance orientale ?....

René Gillouin (Questions politiques et religieuses)
 
Cái học của Đông phương vẫn có cái bản chất phong phú, cái tinh thần thâm trầm thật, nhưng chính là thiếu một cái quan niệm về khách quan, không quen biết sự đích xác là gì. Nay họ lại không thể đem cái hình thức của khoa học Tây phương mà ứng dụng vào nội dung của học thuật Đông phương được dư?

(Lời của nhà phê bình Pháp René Gillouin) 

Nước Nam ta có một nền quốc học chân chính không?

Câu hỏi đó gần đây đã làm đầu đề cho một cuộc tranh luận rất thú vị. Ông Lê Dư trong báo Đông Tây ở Hà Nội thì quyết rằng có, ông Phan Khôi trong báo Phụ nữ ở Sài Gòn thì quyết rằng không.

Quốc học không phải là một vật có thể giấu giếm đi được hay là cần phải tìm tòi mới ra. Nếu quả có thật thì nó sờ sờ rõ rệt ra đó, ai còn chối được, mà phải đến người nọ nói có, người kia nói không! Sở dĩ phải khởi ra câu hỏi đó, đủ biết rằng nếu nước ta đã từng có một nền quốc học, thì cái quốc học ấy cũng là nhỏ nhen, eo hẹp, không có gì đủ đem khoe với thiên hạ.

Nay chứng xét lịch sử thấy quả như vậy. Nước Nam ta mấy mươi thế kỉ theo học nước Tàu, chỉ mới là một người học trò khá, chưa hề thấy thoát cửa thầy mà lập nên môn hộ riêng. Không những thế, lại cũng thường không lọt ra được ngoài vòng "giáo khoa" mà bước lên tới cõi “học thuật” nữa. Như vậy thì làm sao cho có quốc học được?

Anh hùng ta có, liệt nữ ta có, danh sĩ cao tăng ta cũng có, nhưng trong cõi học nước ta, cổ kim chưa có người nào có tài sáng khởi, phát minh ra những tư tưởng mới, thiết lập ra những học thuyết mới, đủ có cái vẻ độc lập một "nhà" đối với các "nhà" khác như bách gia chư tử bên Tàu ngày xưa. Hay thoảng hoặc cũng có mà mai một đi mất, sử sách không truyền chăng? Nhưng phàm đã gọi là một cái học thì phải có cảm hóa người ta sâu xa, phải có ảnh hưởng trong xã hội., phải gây ra một cái phong trào tư tưởng, không thể tịch mịch ngay đi mà không còn tăm hơi gì nữa. Cho nên dân hay kê cứu trong các sách cổ, tìm kiếm ra được năm ba cái ý kiến lạ hay tư tưởng kì của một vài bậc tiền bối lỗi lạc, như vậy cũng chưa đủ chứng rằng nước ta có quốc học với cái học cố hữu của bên Tàu truyền sang.

Ngay cái học mượn của người đó, ta học cũng chưa đến nơi. Nhà Nho ta, ngoài mấy bộ kinh truyện là sách giáo khoa của phái Khổng, Mạnh, mấy ai đã từng thiệp liệp đến bách gia chư tử. Ai đã từng nghiên cứu đến học thuyết họ Mặc, họ Dương, đến Lão, Trang, đến Phật học? Ngay trong Nho giáo, cũng chỉ biết đến Tống Nho là cùng, còn Minh Nho thì mặc nhiên không hiểu chi hết. Như Vương Dương Minh phản đối cái Nho học hẹp hòi của các thầy nhà Tống mà phát minh ra một cái thuyết mới có ý vị thâm trầm hơn, ở nước ta hầu như không ai biết đến. Ở Nhật Bản thì phái Vương học lại thịnh hành lắm, không những có ảnh hưởng trong học giới, mà lại tiềm nhiễm cả phong tục, có người cho là cái võ sĩ đạo của nước ấy chính sở đắc ở Vương học nhiều. Nhật Bản cũng là học trò của Tàu, cũng mô phỏng văn hóa của Tàu trong mấy mươi đời, nhưng họ biết lựa lọc kén chọn, họ không có phóng chép một cách nô lệ như mình, cho nên tuy về đường tư tưởng học thuật, họ vẫn chịu ảnh hưởng của Tàu nhiều, nhưng họ cũng có một nền quốc học của họ, dầu không được rực rỡ cho lắm, mà vẫn có đặc sắc khác người.

Đến như ta thì khác hẳn. Ta học của Tàu mà chỉ học thuần về một phương diện cử nghiệp, là cái học rất thô thiển, không có giá trị gì về nghĩa lí tinh thần cả, mài miệt về một đường đó trong mấy mươi đời, thành ra cái óc tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng gì mới lạ nữa.
Dẫu thế nào mặc lòng, người phụng sự chủ nghĩa quốc gia, đoái nhìn lại cái học của nước nhà, thấy vắng vẻ tịch mịch, không khỏi rầu lòng mà lấy làm thương tiếc, gặp những lúc trong lòng bối rối, trong trí băn khoăn, mở đống sách cũ của tiền nhân để lại, muốn tìm kiếm một vài tư tưởng hoặc học thuyết gì thiết tha thâm trầm đủ đem ra đối phó với đời, thì chỉ thấy các cụ ngâm hoa vịnh nguyệt, lặp lại mấy câu sáo cũ của người Tàu, ôn lại những bài học cũ từ xưa đến giờ, không khám phá được điều gì mới lạ về vũ trụ nhân sinh cả, thật lấy làm thất vọng vô cùng.

Nói thế không phải là bội bạc với tiền nhân, nhưng sự thật thế nào ta phải công nhận như thế. Ta vẫn có nước, nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm ấy đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò! Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế, vì ta đừng có tưởng rằng cái tâm lí học trò đó, ngày nay ta gột rửa được sạch đi đâu. Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi. Duy có khác là cái nghiệp làm học trò Tàu kinh qua mấy mươi đời, cái kết quả "tiêu cực" của nó đã rành ra đó; còn cái nghiệp làm học trò Tây thì mới trên dưới năm sáu mươi năm mà thôi, còn có thể mong rằng sau này có lẽ thành được cái kết quả "tích cực" chăng. Song cứ xem gương như bây giờ, thì cũng không lấy gì làm vui lòng cho lắm; xét những tay xuất sắc trong làng Tây học phần nhiều cũng chưa thoát được cái tâm lí học trò đó; bọn đàn anh khi xưa thì dặm lại mấy câu sáo của Tàu, bọn đàn anh bây giờ cũng dặm lại mấy câu sáo mới của Tây đó mà thôi, chưa mấy ai rõ rệt có cái tư cách - đừng nói đến tư cách nữa, hẳn có cái hi vọng mà thôi - muốn độc lập trong cõi học vấn tư tưởng cả.

Như vậy thì ra giống ta chung kiếp chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá, không đủ cho ta cái óc tự lập? Hay là bởi những duyên cớ nào khác nữa?

Cái đó cần phải xét cho tường.

Từ xưa đến nay, nước ta quả không có quốc học thật. Bởi tại làm sao?

Từ nay về sau, ta có thể gây được một nền quốc học không? Phải làm thế nào?

Tuy nói quốc học ai cũng hiểu rồi, song cũng nên định nghĩa qua cho khỏi lầm. Quốc học là gồm những phong trào về tư tưởng học thuật trong một nước, có đặc sắc với nước khác, và có kết tinh thành ra những sự nghiệp trước tác, lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy.

Cứ nghĩa tuyệt đối thì không nước nào hẳn có quốc học đặc biệt, nghĩa là tự mình gây dựng ra, không phải nhờ mượn của người, trừ ra những nước tổ văn minh trong thế giới như Tàu, Ấn Độ, Ai Cập, Hi Lạp không kể.

Nhưng cứ nghĩa tương đối thì mỗi dân tộc hấp thụ được cái văn minh học thuật của ngoài, tất có biến hóa theo tinh thần riêng của mình, mà thành hẳn của riêng mình. Bởi thế nước Pháp, nước Anh, nước Đức v.v., tuy về đời trước thời nguồn gốc vẫn là do ở Hi Lạp, La Mã ra, mà về sau thời thường chịu ảnh hưởng lẫn của nhau nhiều, nhưng nước nào cũng có cái văn minh, học thuật của nước ấy, không giống với các nước kia; học thuật riêng đó, tức là quốc học của mỗi nước. Như nước Nhật ở Á Đông ta cũng vậy, thật là "con tinh thần" (fils spirituel) của nước Tàu, đồng văn đồng hóa với Tàu, nhưng vẫn có một lối học riêng của họ, tuy cũng xuất ở Tàu mà ra, mà có cái đặc sắc khác với Tàu, có thể gọi là quốc học của Nhật Bản được.

Đến như ta thì mượn cái học của người mà không hóa được theo tinh thần của mình, không gây được một nền quốc học cho mình, là bởi cớ sao vậy?

Nói rằng vì giống mình kém hèn hẳn, thì có lẽ phụ cái óc thông minh của các cụ đời xưa, và cũng không đúng với sự thật chăng? Nhưng nói rằng vì tình thế khiến nên mà sau tạo thành một cái tâm lí riêng không lợi cho sự học vấn tư tưởng, tự do, thì có lẽ đúng hơn. Tình thế ấy thuộc về địa lí, thuộc về lịch sử, lại cũng thuộc về chính trị nữa.

Thuộc về địa lí là nước ta tiếp cận ngay với nước Tàu, đối với Tàu, dầu sau khi ta độc lập rồi, vẫn coi như một nước phụ dung, một nước phiên thuộc. Ta chỉ là một bộ phận trong cái thế giới Chính mà thôi. Thông tục thường có câu: nước Tàu như cái áo, nước ta như cái dải. Thật thế, nước ta, nhất là xứ Bắc Kì là nơi phát tích của nước ta, chẳng qua là một tỉnh Quảng Đông lạc về phía Nam mà thôi, người dân vốn cũng là một giống trong các giống Bách Việt như Quảng Đông, nhờ đất liền nên sự giao thông lại càng thân mật lắm. Người Tàu lại tiện đường tràn sang nước ta, hoặc bằng cách chiến tranh, hoặc bằng cách hòa bình, cứ luôn luôn, hết đời ấy sang đời khác, không hồi nào là không. Cho nên nước ta, dầu có biệt lập thành nước, nhưng về đường địa lí vẫn là tùy thuộc nước Tàu, khác với Nhật Bản, là một đảo quốc cách biển, người Tàu không trực tiếp sang được nên không bị xâm lấn bao giờ. Có giữ được độc lập về thổ võ, mới giữ được độc lập về tinh thần.

Thuộc về lịch sử thì sự quan hệ của ta với Tàu lại mật thiết hơn nữa. Giống Giao Chỉ ta, từ khi mới thành bộ lạc đã bị người Tàu thống trị rồi. Trong mười thế kỉ, ta sống ở trong vòng khuôn nước Tàu, không khác gì một bộ phận của Tàu vậy. Đến khi lập thành nước, từ thế kỉ thứ 10, thì cái dấu vết của Tàu đã hình như in sâu vào trong trí não ta rồi. Tự bấy giờ tiếng gọi là một nước, được độc lập về đường chính trị, nhưng nào đã hoàn toàn độc lập đâu, chỉ những lo lắng, những khó nhọc, những chật vật đối với nước láng giềng mạnh kia nó chỉ lăm le định tràn sang mà chiếm lấy mình, mà thật nó cũng đã tràn sang biết mấy mươi lần, lần nào mình cũng cực khổ, dùng hết nỗ lực mới đuổi nó đi được. Thành ra cả cuộc lịch sử nước Nam ta là một cuộc chiến đấu vô hồi vô hạn đối với người Tàu, hoặc bằng võ lực hoặc bằng ngoại giao, hằng ngày chỉ nơm nớp sợ lại bị thuộc lần nữa. 

Cái công của tiền nhân ta chống giữ cho non sông đất nước nhà, can đảm vô cùng, kiên nhẫn vô cùng, thật là đánh cảm phục. Nhưng cái tinh lực trong nước đều chuyên chú về một việc cạnh tranh để sinh tồn đó, cạnh tranh với một kẻ cường lân hằng ngày nó đàn áp, để cố sinh tồn cho ra vẻ một nước độc lập, thì còn có thì giờ đâu, còn có dư sức đâu mà nghĩ đến việc khác nữa. Cái quan niệm quốc gia bị nguy hiểm luôn nên thường lo sợ luôn, chiếm mất cả tâm tư trí lực, không còn để thừa chỗ cho những quan niệm khác về văn hóa, về mĩ thuật gì nữa. Nói riêng về học thuật thì đã sẵn cái học của Tàu đó tiềm nhiễm vào sâu từ thuở mới thành dân thành nước, không thể tưởng tượng rằng ngoài sách vở của thánh hiền còn có nghĩa lí gì khác nữa. Sau đời Lí đời Trần là hồi Phật học còn thịnh hành, rồi chỉ độc tôn có một phái Nho học cho là đạo chính truyền, ngoại giả không dám có tư tưởng nào khác, sợ bị mang tiếng là “dị đoan”. Cái lệ "con chiên" theo đạo nước người thường hay "ngoan đạo" hơn là chính người nước phát hành ra đạo ấy. 

Thường nghiệm người Nam mình theo đạo Giatô lại mộ đạo hơn ngươi Tây nhiều. Xưa kia theo đạo Nho có lẽ cũng sùng đạo hơn người Tàu vậy, vả lại học thuật mà đã dính có tính cách tôn giáo thì không thể nào tiến hóa được nữa. Không những nước ta mà ngay nước Tàu cũng vậy, từ khi cái học của Khổng, Mạnh, trước bị Hán Nho, rồi sau Tống Nho, lập thành đạo có tín điều, có giáo lí, có lễ nghi hình thức phân minh, thời không phải là học thuật nữa, mà nghiễm nhiên thành tôn giáo rồi. Người theo đạo đâu có dám nghị luận về lẽ đạo nữa. Nếu còn dám nghị luận điều gì hay là ăn ở khác với lẽ đạo, thì là có tội với danh giáo, ắt phải trục xuất ra ngoài giáo hội rồi. 

Thuộc về chính trị thì cái tình thế cũng khốn nạn như vậy. Nho học lợi cho cái chính thể quân chủ chuyên chế, nên đế vương nước ta lại càng tôn sùng lắm. Đời Lí, đời Trần, cái phong trào Phật học còn thịnh, nên nhân tài trong nước, thường thường vẫn có người xuất ở trong hàng tăng lữ. Tự cuối đời Trần đầu Lê trở về sau, thì bao nhiêu nhân tài là đúc theo cái khuôn khoa cử của Nho giáo cả. Cái chế độ khoa cử thật là một cái quà tai hại nước Tàu đã tặng cho ta. Ở ngay bên Tàu nó đã hại mà sang bên ta cái độc của nó lại gấp mấy lần nữa. Bao nhiêu kẻ anh tuấn trong nước đều phải đúc vào cái khuôn ấy cả, nếu không thì không thể ra thi thố gì với đời được nữa. Nhưng đã đúc vào cái khuôn ấy rồi, thì thần trí eo hẹp lại sao mà còn có tư tưởng, có học vấn, tự do được nữa. Người Nhật Bản họ hơn mình chính là vì họ không mắc cái vạ khoa cử như mình. Họ bắt chước cái gì của Tàu thì bắt chước, chớ đến cái lối khoa cử thì họ không chơi. Đời Tokugawa cũng đã có một hồi thi hành cái chế độ hãm hại nhân tài, nô lệ thần trí đó, nhưng mà sĩ phu trong ta thì đến năm, sáu trăm năm sinh trưởng trong cái chế độ ấy, trách nào cái khí tinh anh trong nước chẳng đến tiêu mòn đi hết cả. Ở Văn Miếu Hà Nội còn mấy dãy bia kỉ niệm bậc nhân tài lỗi lạc, nhưng vì mài miệt về đường khoa cử, nên đều mai một mất cả, tên còn rành rạch trên bia đá đó, mà có sự nghiệp về đường học vấn tư tưởng được những ai? (l) (1) xem Phụ nữ Tân văn, số 104, ngày 15.10.1931, tr.5)

Nói tóm lại thời địa lí, lịch sử, chính trị đều như hiệp sức nhau lại mà gây cho nước ta một cái tình thế rất bất lợi cho sự học vấn tư tưởng. Bao nhiêu những người khá trong nước đều bị cái tình thế ấy nó áp bức trong mấy mươi đời, nên lần lần tập thành một cái tâm lí riêng, là cái tâm lí ỉ lại vào người, chớ không dám tự lập một mình; trong việc học vấn thì cái tâm lí ấy tức như trên kia gọi là cái tâm lí làm học trò suốt đời vậy. Nước ta ở ngay cạnh nách nước Tàu, từ hồi ấu trĩ cho đến lúc trưởng thành đều núp bóng nước Tàu mà sinh trưởng cả, khác nào như một cái cây nho mọc bên cây lớn, bị nó "cớm" không thể nào nẩy nở ra được. 

Nhưng trước kia mọc ở dưới bóng cây "đa" phương Đông đã bị "cớm" mà không lên cao được, chỉ sợ nay mọc dưới bóng cây “sên” phương Tây, cũng lại bị “cớm” mà cằn cọc hẳn lại, thì thôi, còn mong mỏi gì nữa!

Song nay ta đã tỉnh ngộ rồi, thì ta nên kíp tìm phương bổ cứu.

Mới đây tôi có viết một bài luận bằng Pháp văn đăng trong báo Tây nói về sự đồng hóa. Bài ấy nguyên văn chữ Pháp có lục đăng vào phần phụ chương kì Nam Phong trước. Tôi nói rằng đồng hóa có nhiều cách: có cách đồng hóa đến không còn cốt cách tinh thần gì của mình nữa, mà biến hẳn theo người; có cách đồng hóa lấy những cái hay của người mà giữ được cốt cách tinh thần của mình, lại bồi bổ vào cho mạnh mẽ thêm lên. Cách đồng hóa trên là cách ta đồng hóa với Tàu ngày xưa đó, kết quả đến ngày nay anh em ta phải than rằng nước ta không có quốc học. Gương đó trước còn đó, ta phải soi đấy mà liệu đường đi sau này. 

Nếu ngày nay ta lại đồng hóa theo Tây như ngày xưa đồng hóa theo Tàu, thì giả sử có thành công nữa cũng phải đến mấy mươi đời, mà rốt cuộc lại cũng chỉ thành một bản phóng mờ của nước Pháp, chứ chẳng có tinh thần cốt cách gì cả, rồi trăm năm về sau này, lại có ông Phan Khôi nào hậu sinh đó, trông thấv cõi học nước nhà vẫn vắng vẻ tịch mịch, không khỏi thở dài mà than rằng: “Quái! Nước ta học Tây đến ba bốn trăm năm mà vẫn chưa có một nền quốc học riêng!” Bấy giờ không phải là trong nước không có lắm tay làm thơ làm văn Tây giỏi, chẳng kém gì người Tây, tức như các cụ ta ngày xưa cũng lắm tay làm thơ văn Tàu chẳng kém gì người Tàu, nhưng cũng chỉ thế thôi, chớ ngay trong làng thơ văn xưa kia chưa cụ nào bằng Lí, Đỗ, Tô, Hàn, thì sau này có lẽ cũng không ai bằng Victor Hugo hay Anatole France được, vì cái nghiệp học mượn viết nhờ có đời có kiếp nào cho bằng hẳn người ta. Thơ văn còn thế, đến học vấn tư tưởng tất lại còn kém hơn nữa.

Vậy thời ngày nay nếu ta phải đồng hóa theo Tây - mà cái đó là tất nhiên vì lẽ chính trị, lẽ kinh tế, lẽ văn hóa bắt buộc ta càng ngày càng phải giao tiếp với người Tây - ta nên đồng hóa có ý thức, có nghĩa lí, nên kén chọn lấy những cái hay của người ta mà bắt chước, nên xem xét mình thiếu những gì mà học tập lấy của người ta để bồi bổ cho mình.

Nói riêng về đường học thuật - mà học thuật là chủ não của văn minh - thì học thuật của Đông phương ít tấn tới, học thuật của Tây phương mau phát đạt, là vì Tây họ có cái quan niệm về khoa học, mà người Đông phương mình thì không có vậy.

Khoa học đây là nghĩa rộng không phải là nói về các khoa chuyên môn, như lí học, hóa học, thiên văn học, địa lí học đâu. Khoa học đây là nói về cái phương pháp: cái tinh thần của sự học của người Thái Tây. khởi xướng ra khoa học là lối học phân ra khoa loại, đặt thành phương pháp, để cầu lấy kết quả đích xác, tìm lấy chân lí sự vật. Khoa học là phép học chỉ châu tuần trong cõi thực tế, không mơ tưởng những sự huyền vi. Khoa học là sự học lấy lí luận làm tiên phong, lấy thực nghiệm làm hậu kính, lấy sự thật nhiển nhiên làm căn cứ, lấy lẽ phải tất nhiên làm mục đích.

Lối học như vậy, thì lối học Đông phương ta thật không có. Đông phương chỉ có đạo đức chớ không có khoa học. Đạo học và khoa học khác nhau thế nào, Lương Khai Siêu trong bài tựa bản tiết yếu sách Minh Nho học án có phân biệt như sau này, tưởng cũng xác đáng lắm: “Đạo học với khoa học, phải nên phân biệt cho rất rõ. Đạo học là cái học thụ dụng, tự mình tìm lấy được, chớ không phải đợi ở ngoài, cổ kim Đông Tây chỉ có một, chớ không có hai. Khoa học là cái học ứng dụng, nhờ các biện luận tích lũy mà thành ra, tùy cái trình độ văn minh trong xã hội mà tiến hóa, cho nên khoa học chuộng mới. Đạo học thời những lời nói cũ tự trăm, ngàn năm về trước, kẻ hiền triết ngày nay vị tất đã nói được hay hơn. Khoa học chuộng rộng, đạo học thời một lời nói nửa câu, có thể đem mà thụ dụng suốt cả đời không hết. Lão Tử nói rằng: "Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn" (làm việc học thì ngày càng nhiều lên, làm việc đạo thì ngày càng ít đi), học ấy là nói khoa học, mà đạo ấy là nói đạo học vậy”.


Lương Khải Siêu nói mấy câu đó, kể cũng là khám phá lắm vậy, Đông phương với Tây phương khác nhau chính là ở cái quan niệm về sự học đó.

Cái học của Đông phương là đạo học, là cái học "thụ dụng", nghĩa là dùng cho mình, là cái học "nhật tổn” nghĩa là càng nhập diệu bao nhiêu thì những cái chi tiết bề ngoài nó càng bớt đi bấy nhiêu, mà chỉ còn lại cái tôn chỉ thâm trầm cao thượng, là cái tôn chỉ học làm nhà đạo đức, làm ông thánh hiền ở đời. Đã “thụ dụng” thì là thuộc về phương diện chủ quan, người nào tâm đắc là người ấy được, không cần mà cũng không thể đem tuyên truyền ban bố ra cho thiên hạ được. Đã là "nhật tổn" thì học càng thâm, càng quy nạp lại mấy điều cốt yếu, tự mình giác ngộ là đủ, không cần phải suy diễn ra cho nó rườm rà bề bộn làm gì.

Nay ta làm án cổ nhân mà buộc cho cái tội không gây nổi một nền quốc học cho nước nhà, ta cũng phải nghĩ lại mà lượng xét cái quan niệm về sự học của các cụ là thuộc về đạo học như vừa giải nghĩa đó. Các cụ đã có cái quan niệm như vậy thì học là chủ để thụ dụng, cốt là trau dồi nhân cách mình thế nào có thể hi thánh hi hiền được, chớ không phải cốt lập ra học thuyết để truyền cho đời vậy. Các cụ dạy học trò cũng là đem cái tâm thuật mà truyền cho học trò, khiến cho người nào có tư cách thì tự mình tâm đắc lấy, mà lại đem thụ dụng cho mình. Vậy muốn phán đoán về các cụ cho công bằng thì phải xét các cụ về cái chỗ thụ dụng đó, nghĩa là xét các cụ làm người thế nào, ra đời thế nào, chớ không phải xét của các cụ hay hay dở, có hay không vậy. Nếu xét cách học để làm người của các cụ, thì ta thật đáng thờ các cụ làm ông cha, chớ không phải vì các cụ mà xấu hổ vậy.

Song đạo học là cái học để làm thánh hiền, ở vào đời nay, có đâu được bằng cái học cho được giàu mạnh. Khoa học là cái học cho được giàu mạnh đó, lấy về công dụng mà xét thì khoa học đích hẳn là thích hợp với đời này hơn là đạo học, các nước Thái Tây được phú cường như bây giờ là nhờ ở khoa học. Ta muốn sinh tồn được ở đời này, ta cũng phải cần có khoa học.

Nhưng đó là đứng về phương diện duy lợi mà nói.

Bàn về học thuật, không nên thiên về sự lợi ích, chỉ nên nói về nghĩa lí mà thôi.

Nói về nghĩa lí thời khoa học cũng có lắm cái hay lắm. Nhưng cái hay đó, người Âu Tây cũng không phải là một sớm một mai mà tìm ra ngay được. Hi Lạp, La Mã đời xưa cũng chưa biết khoa học là cái gì. Cái học cổ của họ cũng chỉ là đạo đức mà thôi, mà trong khoảng đời Trung cổ thời cũng là phiền toái lôi thôi lắm, lại thêm quyền áp chế giáo hội Giatô nữa, có lẽ còn tệ hại độc ác hơn là cái quyền chuyên chế của Nho giáo ở Đông phương ta. Nhưng từ thế kỉ thứ 16, ở Âu châu họ có một cuộc cách mạng về tinh thần, đề xướng lên cái quyền tự do phê phán, đem cả các học thuyết cổ sát hạch lại, rồi lần lần mới nẩy ra cái quan niệm về khoa học đời nay. 

Như vậy thì cái quan niệm về khoa học của Thái Tây mới mầm mống ra tự thế kỉ thứ 16 mà thôi, mà cũng còn hun đúc mãi đến thế kỉ thứ 19 mới thật là xuất hiện ra một cách rực rỡ. Tự đấy thời mỗi ngày một phát đạt, thiên biến vạn hóa đổi mới cả mặt địa cầu, có trong khoảng một thế kỉ mà làm cho thế giới tiến hóa mau bằng mấy ngàn năm về trước.

Nay chúng ta tiếp xúc cái văn minh của Thái Tây mới biết đến cái giá trị cùng cái sức mạnh của khoa học thì ngoảnh lại xét mình, thấy cái óc mình dường như hãy còn như cái óc của người Tây về trước thế kỉ thứ 16 vậy. Vậy nếu ta muốn tiến hóa cho bằng người, thì ta cũng phải làm một cuộc cách mạng về tinh thần, như người Âu Tây về thế kỉ thứ 16, cách mạng một cách hòa bình mà thôi, vì đường lối người ta đã đi qua, mình cứ việc theo, không phải khó nhọc gì.
Mục đích của sự cách mạng đó, không phải là phá cái đạo cổ hữu của mình đi đâu nhưng cốt là gây lấy cái quan niệm khoa học mà bổ thêm vào. Hai đàng tuy khác nhau, nhưng tất nhiên là không phản trái nhau. Cái học thụ dụng với cái học ứng dụng có thể kiêm cả cũng được. Dạy cái học thụ dụng là thuộc về cá nhân, thuộc về chủ quan, là phần riêng của mỗi người, không cần và cũng không thể truyền dạy được; cái học ứng dụng là thuộc về phổ thông, thuộc về khách quan, là của chung của xã hội, có thể dùng làm lợi khí để trao đổi trí thức, để xúc tiến tư tưởng, để bồi đắp lấy một nền quốc học cho sau này được.

Vậy thời việc cần cấp bây giờ là phải đem cái quan niệm khoa học của Âu Tây ra mà phân tích cho tinh tường. Khi đã dò được đến nơi, tìm được manh mối rồi, thì phải tập dùng cái phương pháp của khoa học mà nghiên cứu những nghĩa lí cổ của Đông phương mình, vì cái khoa học sẵn có của Thái Tây, thì đã biên chép cả trong sách Tây rồi, ta cứ việc theo đó mà học, không cần phải bàn làm chi. Nhưng cái học đó là cái học "vô ngã" thuộc về cái kho trí thức chung của cả loài người, dầu có học được hết đi nữa cũng vẫn không bao giờ thành quốc học riêng của mình được. Muốn cho gây được thành một cái quốc học riêng của mình, thì phải dùng phương pháp phê bình khảo cứu của khoa học mà phân tích những học thuyết cùng nghĩa lí cũ của Á Đông, rồi đem ra nghiền ngẫm, suy nghĩ: đối chiếu với những điều chân lí cùng những sự phát minh của khoa học Thái Tây. Kết quả sự phân tích cùng tổng hợp đó, tức là tài liệu gây ra quốc học sau này vậy.

Việc gây dựng ra quốc học, không phải là việc một vài người, cũng không phải là việc một đời người mà làm xong được. Nhưng nếu các học giả trong nước đều có cái chí về việc đó, thì trước hết có thể gây ra được một cái "học phong" để làm hoàn cảnh cho quốc học sau này có chỗ mà sinh nở ra được.

Chí đó, chính là cái chí muốn tự lập về đường tinh thần. Muốn tự lập thì không thể làm mất cái cốt cách tinh thần của mình đi mà đồng hóa theo người cả được. Phải mượn phương pháp của người để tự bồi bổ cho mình. Trên đầu bài này có tiêu đề một câu của nhà phê bình nước Pháp bàn về cách Đông phương và Tây phương có thể bổ trợ cho nhau thế nào. Ý tác giả là Tây phương ngày nay đã đem khoa học đến cực điểm, nên quay về mà hỏi cái bài đạo học ở Đông phương, còn như Đông phương thì bấy lâu triền miên trong cõi đạo học mơ màng ngừng trệ mà không tiến hóa được nữa, thì nên mượn phương pháp của khoa học Tây phương để mà chấn chỉnh lại cái cổ học của mình cho có vẻ hoạt bát hơn. Nhà phê bình tóm tắt cái ý kiến ấy bằng một câu rằng: "Đem hình thức của khoa học Tây phương mà ứng dụng vào nội dung của học thuật Đông phương" (Appliquer la forme de la science occidentale au contenu de la connaissance orientale).

Nay cũng xin lấy câu ấy để kết luận bài này.

(Nam Phong, số 163)

Người Việt và khát khao ra biển lớn




Khi nhà du hành Mỹ Neil Armstrong là người đầu tiên đổ bộ xuống mặt trăng, ông đã nói một câu rất nổi tiếng ngay khi khởi bước đầu tiên : “Đó là một bước đi nhỏ, nhưng là một bước tiến rất lớn của nhân loại”. Các nhà khoa học cũng thường nói đến thời điểm xuất phát rất quan trọng của vạn vật, theo tiếng Tây, người ta gọi là Depart. Các phi công thường nói, lái máy bay, khó nhất là lúc cất cánh, sau đó là lúc hạ cánh, còn đang bay thì không khó lắm. Còn người Việt thường nói “Khắc đi thì khắc đến, không đi thì không đến”. Nhưng muốn đi mà chẳng khởi hành thì chẳng bao giờ đi được, mà đã không đi thì không đến. Đó là quá trình lý giải phần nào cho tình trạng còn rất nhỏ bé, rất lạc hậu của người Việt hiện nay.

Chúng ta thử tham chiếu tiến trình tiến bộ của nhân loại. Có rất nhiều chuyên gia đã nói : Sự phát triển khoa học kỹ thuật trong thế kỷ 20 bằng tất cả các thế kỷ trước cộng lại. Có một hình ảnh so sánh dễ hiểu là: con người ở thế kỷ 16 chẳng hạn, người ta thấy một chiếc xe ngựa, rồi đến lượt cháu chắt của ông ta ở thế kỷ 17 vẫn chỉ nhìn thấy chiếc xe ngựa. Nhưng trong thế kỷ 20, một người mắc chứng ngủ sâu hơn chục năm, khi tỉnh dậy, ông ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy vợ và con đang nói chuyện với người khác đang ở rất xa chỉ bằng một chiếc máy di động nhỏ xíu ở trên tay. Hình ảnh đó đối với ông, phải là một phép lạ, hoặc như chuyện của người ngoài hành tinh.

Vậy mà theo một vài bảng liệt kê đánh giá, dân Việt so với vài nước trong khu vực cách xa từ năm chục đến chín chục năm, thì chúng ta không nên nghĩ, đó chỉ là vài chục năm nghĩa đen, mà đó là thời gian của thế kỷ 20, nếu chúng ta tụt hậu trong quãng thời gian đó, thời gian một thế kỷ bằng cả lịch sử, thì có thể chúng ta lùi lại xa xa lắm. Ở đây tôi không muốn tra cứu những số liệu chính xác mà chỉ muốn gợi mở cho suy tư. Vậy thì chúng ta đã đi được bao xa? Hơn thế chúng ta đã khởi hành chưa ? Và khởi hành bằng phương tiện nào? Tôi xin đưa ra một bằng chứng cụ thể: trước công nguyên hơn ba trăm năm, người Hy Lạp đã bàn đến những vấn đề như công lý, cộng hòa, hay nguyên lão nghị viện… giờ thử hỏi có mấy người Việt có cả trí thức lưu tâm thường xuyên về vấn đề này. Có rất nhiều người lại còn an nhiên tự tại nói rằng: dân tộc ta chẳng thua kém dân tộc nào cả! dân tộc ta là tốt lắm rồi! thông minh rồi tiến bộ nữa.

Hoàng đế Napoleon có nói rằng: “Quá khoan dung với tội lỗi là đồng tình với tội lỗi”. Ở đời chúng ta gặp khá nhiều người dễ tính, họ không bao giờ muốn lên án ai cả, ai có tội lỗi gì , người ta đều khoát tay xuê xoa bỏ qua. Chúng ta không nên nghĩ rằng đây là người quá bao dung. Nhìn kỹ lại, đa phần đây là típ người mắc nhiều khuyết tật , vì thế họ muốn xuê xoa bỏ qua cho người để chính mình cũng nhận được sự xuê xoa đó. Một hiền nhân Trung Hoa có nói: “Người quân tử chỉ muốn nâng người khác lên cho bằng mình, trong khi kẻ tiểu nhân chỉ muốn kéo tất cả người khác xuống để họ bằng mình”. Vậy đấy, người khôn thì chỉ muốn nâng cao người khác lên. Trái lại người thấp kém thi chỉ mong ai cũng thấp kém như mình, để mình còn tiện lợi khi sống. Người Việt có câu “Đục nước béo cò”, có rất nhiều người khi được sa vào trĩnh gạo, thì chỉ muốn nước đục để hưởng lợi, họ sợ sự gạn đục khơi trong sẽ làm mất đi nơi thủ lợi của mình.

Không ai thích nhà mình nghèo hèn cả, nhưng như người đời nói, con không chọn được cha mẹ, cũng như con người không thể chọn được quê hương xứ sở cho mình. Vì thế với những ai có lương tri, thấy nước ta còn nghèo đói, lạc hậu, thì muốn cải thiện, nâng cao, bồi bổ, phát triển đất nước lên. Chẳng phải khẩu hiệu của nhà nước ta là “Xây dựng xã hội giầu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” ư?

Vậy bước đi đầu tiên của người Việt là gì? Tại sao chúng ta vẫn còn nhỏ bé? Bởi vì chúng ta sống bằng một tâm lý manh mún cục bộ, một thứ lệ làng bao phủ khi xây dựng quốc gia lập hiến “phép vua thua lệ làng” . Người Trung Quốc có câu: “Có lý đi khắp thiên hạ, không có lý không vượt qua được một bước chân” . Đa số người Việt khi bước vào nghệ thuật hay khoa học, thì thường nói một câu “tôi thích” , thích thế nọ , thích thế kia. Ngay cả khi phán đoán, người Việt cũng thường nói “tôi thích”, nghĩa là người ta chẳng đưa ra bất cứ một khả năng hay sử dụng lý trí nào. Đây là cách mà người phương Tây bảo: người ta không bao giờ nên bàn về ý thích “gout”, giống như người thích ăn thịt bò, người thích ăn thịt gà thì không thể bàn với nhau về việc ăn cái gì ngon hơn.

Đã không sống bằng lý trí, thì làm sao có thể sống có lý để vận hành mọi việc? Có thể nói: Đời sống thiếu tính công lý chung là đặc trưng cố hữu tiêu biểu nhất của người Việt, làm cho xã hội manh mún rời rạc và yếu đuối. Và đặc trưng này được cải thiện rất ít qua nhiều thế kỷ. Tại sao, như trên đã bàn, không có lý, chúng ta không thể đi quá một bước chân, giống việc chúng ta đi giầy trái vậy, không thể nào bước nổi. Và khi có lý, giống triết gia Hegel nói: mọi cái có lý, thì đều phải tiến đến cái lý phổ quát. Nếu lý trí không tiến đến và không tôn trọng cái phổ quát thì chỉ là cục bộ, cá nhân, ích kỷ, thậm chí lố bịch.

Cụ thể trong đời sống, chúng ta gặp không ít những kẻ có học hẳn hoi lại chầy bửa hết cỡ, từ văn hóa đến văn minh, cho đến các vĩ nhân, các thành tựu, đều hạ một câu “ông đếch cần”. Đã thế lại còn văng cả cơ quan của chị em ra nơi đông người, mọi người sợ quá liền im lặng, thế là kẻ kia đắc chí cho rằng mình đã nhanh chóng chiến thắng bằng tâm lý đầu gấu. Và đã thắng một lần, anh chàng càng thích biện pháp đánh nhanh thắng nhanh đó, đem sử dụng thường xuyên. Nhiều người thấy thế không coi đó là bài học dở nên tránh, mà lại cho là cách hữu hiệu để giải quyết áp đảo người khác, nên học làm theo.

Chúng ta vẫn biết, không có tranh luận thì không thể phát triển ngôn ngữ và trí khôn. Nhưng trong rất nhiều cuộc hội nghị chuyên đề, hầu như hội nghị nào cũng trở thành hội nghị phụ lão, các ông già thay nhau cầm giấy lên đọc. Đến người trẻ ở tuổi trên năm mươi thì hết thời gian. Hội nghị xong mà người ta chẳng thu hái được gì ngoài mấy bài phát biểu của các cụ già, đã đọc mấy chục năm chẳng có gì ngoài “biết rồi, khổ lắm , nói mãi”.

Hội nghị là cuộc gặp gỡ đỉnh cao, nhưng vẫn được chúng ta tiến hành theo lối hội hè đình đám ở làng xã. Và vẫn đem theo cái truyền thống “được ăn, được nói, được gói đem về”. Đến để được ăn, nhận phong bì đã đành. Nhưng nói, dù không có gì để nói, ta vẫn lên nói để nhận phần danh dự chứng tỏ mình ở đẳng cấp được nói. Còn gói đem về, tất nhiên gói to hay bé thì phải tương xứng với đẳng cấp. Vì thế mà hội nghị nảy sinh rất nhiều mặc cảm trái chiều: ông thích lên nói mà không có gì ư, ở dưới tôi không nghe. Tôi vẫn đến dự hội nghị cho có miếng có phần nhưng tôi chơi láng tráng ở bên ngoài cho sướng, lại còn gọi những kẻ giống tôi ra một chỗ tụ bạ rượu chè …

Một con người thiếu sự tiến bộ của lý trí thì khó mà trưởng thành? Một xã hội không có công lý làm nền tảng thì làm sao xây dựng lập hiến và pháp luật ? Một quốc gia thiếu vắng những công dân khao khát công lý và lập hiến thì có thể hùng mạnh không? Liệu đó có phải nguyên nhân chí tử về tầm vóc còn ở trong ao của người Việt?


Nhà văn Paul Nguyễn Hoàng Đức (Trích tác phẩm "Người Việt tự ngắm mình")

Văn minh tân học sách




Đầu thế kỷ XX, ở nước ta xuất hiện một tác phẩm chữ Hán của tác giả vô danh nhan đề "Văn Minh Tân Học Sách" (文明新學策). Cuốn này ra đời trước khi xuất hiện phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (trước năm 1905), sau này dùng làm tài liệu giáo khoa của trường Đông Kinh Nghĩa Thục, năm 1907. Văn Minh Tân Học Sách là một áng văn nghị luận, bàn về văn minh ta, văn minh Tây, nêu lên những nguyên nhân làm cho nước ta chậm tiến, ngưng trệ kéo dài, đồng thời đưa ra những biện pháp văn hóa và kinh tế nhằm đưa nước ta tiến kịp phương Tây. Văn Minh Tân Học Sách nhấn mạnh: "Văn minh là chủ nghĩa mở mang trí khôn cho dân" và "chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, mở rộng dân quyền, cải thiện dân sinh". Những mặt văn minh Tây khác Ta cần phải học tập bao gồm:

- Nhân dân châu Âu được tư do tư tưởng, tự do viết sách bày tỏ ý kiến của mình, nên mọi phát kiến đều "ngày một mới, tháng một lạ". Ở ta thì sợ phạm húy, sợ vượt bề trên... toàn đăng huyền thoại, truyền thuyết, chích quái, lòe loẹt... mà chẳng mở mang dân trí. Ôi, nếu không biết đến sách báo mới thì thôi, chứ đã biết đến mà lại bưng bịt che lấp đi, khiến cho không nghe, không thấy chuyện gì, để tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thế, thiệt nên lấy làm đau đớn!".

- Chế độ giáo dục châu Âu nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản, thiết thực... còn ở ta toàn học sách Tàu, nói lại lời cổ nhân, thơ phú, văn biền ngẫu... không chịu giảng đến cái học phú cường cơ xảo của nước ngoài.

- Chế độ chính trị châu Âu là lập hiến, cộng hòa, bàn việc gì cũng khai hội, ai nấy đều góp ý, sớm sửa đi, chiều sửa lại, cốt làm sao cho đúng chân lý, hợp tình hình. Còn ở ta, hành chính thì cứng nhắc, nhân sự thì im lìm, cứ làm theo lệ cũ, không chịu xem xét kiến thức, luật ban hành ra dân không hề được tham khảo, đọc trước. bàn luận trước sau.

- Người Âu coi nước và dân có quan hệ mật thiết, còn ở ta chỉ có trên áp chế dưới, dân phải phục tùng. Người Âu thích mạo hiểm, xem thường nguy nan, còn người nước ta thì chỉ thích yên một chỗ, không hề biết đến nước nào khác.

Sau này Văn Minh Tân Học sách được học giả Đặng Thai Mai dịch sang chữ quốc ngữ, in trong cuốn :"Văn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20". Cuốn sách vần như một hồi chuông cảnh tỉnh cho xã hội Việt nam vẫn còn bị những tư tưởng, tập quá cổ hủ ấy chi phối, trói buộc.

Nguồn: Bùi Quang Minh FB

Nguyễn Trần Bạt: Cái TÔI và cái CHÚNG TA

Một trong những nội dung quan trọng của cái Tôi là cái Chúng ta. Chúng ta là một trạng thái phát triển của cái Tôi, một trạng thái cá biệt của cái Tôi. Chúng ta và Tôi không phải là hai không gian độc lập khác nhau. Cái Tôi là trên hết, là nguồn gốc của mọi thứ còn lại, trong đó có cái Chúng ta. Nhiều người vẫn luôn cho rằng cái Chúng ta bao trùm lên cái Tôi nhưng không phải thế, cái Tôi chứa tất cả mọi thứ. Khi nào cái Chúng ta ở bên ngoài cái Tôi, bao lên cái Tôi thì đó là trái tự nhiên.

Nếu đặt cái Chúng ta lên trên cái Tôi sẽ làm phá vỡ định nghĩa quan trọng nhất về con người. Tự do sinh ra con người, con người là chủ thể của sự đàm phán và tạo ra các khế ước. Cái Chúng ta tồn tại được là nhờ những thoả thuận mà không có những cái Tôi thì không thể có thoả thuận. Tóm lại, cái Tôi có trước, cái Tôi chứa đựng mọi thứ, cái Tôi là điểm bắt đầu của mọi quá trình xã hội. Nếu cái Tôi là cái bánh thì cái Chúng ta là yếu tố tạo ra nhân của cái bánh. Cái Chúng ta là một trong những nội dung quan trọng nhất, thể hiện tầm vóc của cái Tôi, nhưng nó không thể thay thế cái Tôi được. Nếu không có cái Chúng ta trong cái Tôi thì anh là một người xấu, nhưng nếu không có cái Tôi thì anh không thành con người.

Nghiên cứu về nội dung Chúng ta sẽ giúp làm rõ không gian nghĩa vụ và trách nhiệm trong cái Tôi. Cái Tôi biến thành cái Chúng ta thông qua không gian trách nhiệm, không gian nghĩa vụ. Không gian nghĩa vụ và trách nhiệm tạo ra phần Chúng ta trong cái Tôi, tức tạo ra tâm lý đại diện. Do đó, cái Chúng ta chính là cơ sở của lý thuyết đại diện. Nếu một người tự nhận là đại diện mà không ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình thì người đó đại diện cho ai và hy sinh cái gì? Kẻ muốn làm đại diện thì phải biết ta đại diện cho ai, ta phải mất cái gì để thực hiện quyền đại diện, ta phải có những năng lực nào để hoàn tất nghĩa vụ đại diện. Tuy nhiên, nếu dừng ở mức độ hoàn tất nghĩa vụ thì mới chỉ đủ cho sự tồn tại của xã hội chứ chưa đủ cho sự phát triển. Có những nghĩa vụ bắt buộc và có cả những nghĩa vụ không phải là bắt buộc mà là sứ mệnh. Ví dụ, không phải ai cũng buộc phải có trách nhiệm hy sinh thân mình vì Tổ quốc nhưng có những người làm như thế. Như vậy, con người vẫn luôn có những hành vi vượt ra ngoài nghĩa vụ và trách nhiệm. Cần phải nghiên cứu cả hiện tượng này vì đó là cấu trúc Siêu Chúng ta. Cái Siêu Chúng ta là trạng thái phát triển cao của cái Tôi. Không gian Siêu Chúng ta là nơi con người tiến hành những hành động bên ngoài nghĩa vụ và trách nhiệm. Đó là những hành vi có ý nghĩa phục vụ sự phát triển của nhân loại. Nếu chúng ta không lý giải được các hiện tượng như vậy thì không tìm ra được lối thoát để phát triển nhân loại. Nhân loại tồn tại bằng ý thức trách nhiệm và tinh thần nghĩa vụ nhưng nhân loại phát triển bằng tinh thần siêu nghĩa vụ, siêu trách nhiệm, tinh thần sứ mệnh. Ý thức nghĩa vụ và tinh thần trách nhiệm là những phẩm chất cần và đủ để từng cái tôi tham gia vào tiến trình phát triển, và thứ lãnh đạo chương trình phát triển ấy chính là cái Siêu Chúng ta.

Có những cái Tôi có thể biến thành cái Siêu chúng ta, nhưng cũng có những cá thể chỉ có thể phát triển thành cái Chúng ta, thậm chí có những cá thể không phát triển thành cái Chúng ta được. Cái Chúng ta tạo ra trạng thái thông thường, đó là sự tụ họp hay sự phản ánh quan hệ của những cá thể thông thường. Còn cái Siêu Chúng ta là sự tụ họp hay phản ánh của những mối quan hệ không thông thường. Cá thể không thông thường ấy cũng là kết quả của cả hai quy luật: quy luật tự nhiên và quy luật tự do. Anh có những điều kiện tự do đến mức anh trở thành người thủ lĩnh, nhưng anh có những ràng buộc tự nhiên để có điều kiện thực hiện các ý nghĩ siêu Chúng ta. Những ai ý thức được về cái Chúng ta thì trở thành người đại diện còn ý thức được về sứ mệnh, về cái Siêu Chúng ta thì trở thành nhà lãnh đạo, trở thành yếu tố lãnh đạo.

Những xã hội không phát triển là xã hội mà ai cũng muốn làm to nhưng không đủ năng lực và trí tuệ để làm bất kỳ cái gì vừa vừa, tức là họ không có cái Chúng ta, họ không nghĩ đến nghĩa vụ và sứ mệnh của người đại diện. Đó là sự chiếm đoạt của những con thú lớn chứ không phải là sự thực thi nhiệm vụ của người ý thức được về nghĩa vụ và sứ mệnh. Tôi không phê phán cái Tôi mà chỉ phê phán cái Tôi không có nhân. Chúng ta vẫn thường nghe thấy những khẩu hiệu như "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Nghe thì rất có lý nhưng nếu ngẫm kỹ thì rất vô trách nhiệm. Đúng ra là mỗi cá nhân hãy lo cho mình trước rồi sẽ thấy cái chúng ta ở trong mình. Một con người mà không biết yêu mình thì sẽ không yêu người khác. Ví dụ, tôi yêu công ty của tôi, tôi yêu những thành viên đã tạo ra công ty đó. Để công ty của tôi làm ăn được tôi phải yêu cái xã hội đó. Nếu anh yêu anh một cách có trách nhiệm thì anh sẽ có Chúng ta trong anh. Nếu anh không yêu anh thật thì anh sẽ hành động theo nhu cầu nhằm thoả mãn anh, tức thoả mãn cái chết tinh thần của anh.

Nguyễn Trần Bạt: Tự do và các quyền con người

    Có nhiều cách tiếp cận các quyền của con người. Trong các học thuyết pháp lý hiện hành ở các nước phát triển, các quyền con người được phân định rõ ràng và được đảm bảo thực thi trên thực tế. Trong khi ở các nước kém phát triển, các quyền con người dường như chưa được phân định và lý giải rành mạch. Rất nhiều khái niệm bị lẫn lộn, thậm chí một số quyền được nhấn mạnh, một số quyền bị coi nhẹ, một số quyền không được đáp ứng hay không được đảm bảo.

    Có thể thấy, từ trước đến nay, các khái niệm về quyền được hiểu một cách hết sức kỹ thuật, và do đó nó trở thành đối tượng nghiên cứu trong các ngành hẹp của khoa học xã hội. Ví dụ, luật học tập trung nghiên cứu cấu trúc các quyền, xã hội học nghiên cứu các quyền con người trong mối quan hệ giữa con người và xã hội… Tuy nhiên, trên thực tế, những nghiên cứu như vậy chỉ có thể kiểm nghiệm và đưa vào áp dụng ở các nước phát triển, nơi có truyền thống về dân chủ, bởi vì ở đó những khái niệm chung nhất, khái quát nhất của cấu trúc các quyền được nhận thức một cách phổ biến. Trong khi lịch sử hình thành và phát triển của các quốc gia châu Á cho thấy chưa bao giờ cấu trúc các quyền được nghiên cứu một cách phổ quát ở khu vực này. Nó không trở thành đối tượng nhận thức và không được tận dụng như là công cụ để giám sát những hoạt động vi phạm các quyền con người. Thậm chí, ở các quốc gia phi dân chủ, xu hướng chính trị hoá các vấn đề con người dẫn đến việc nhấn mạnh các yếu tố cộng đồng, nhà nước, tức là nhấn mạnh chủ quyền, sau đó đến quyền công dân, rồi mới đến nhân quyền. Khi nói đến nhân quyền người ta giải thích rằng nó đã được đề cập trong hai khái niệm kia, và hai khái niệm đó phải có trước nhân quyền.

    Trong các quan điểm đấu tranh với hiện tượng vi phạm nhân quyền ở các quốc gia phi dân chủ, các nhà luật học đã định nghĩa rõ những quyền nào là quyền tự nhiên của con người và những quyền nào phụ thuộc vào mức độ phát triển. Những quyền tự nhiên của con người có nghĩa là ở tất cả các nơi, không phụ thuộc trình độ phát triển, tất cả mọi người đều có những quyền tương ứng. Còn những quyền phụ thuộc vào trình độ phát triển thì được chi tiết hoá, cụ thể hoá, ví dụ như những quyền về kinh tế hay một số quyền về văn hoá… Mặc dù vậy, trên phạm vi toàn cầu vẫn chưa thực sự có sự phân định rành mạch về các quyền con người.

    Theo quan điểm của tôi, liên quan đến con người có 3 cấp độ quyền, như người ta đã thừa nhận, đó là nhân quyền, dân quyền và chủ quyền. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhận thức được một cách rõ ràng trật tự hay vị trí của các quyền này trong cuộc sống của mình.

    Thứ nhất là nhân quyền, đó là quyền của con người, quyền ấy có giá trị phổ quát toàn cầu, ở đâu có con người thì ở đấy có nhân quyền. Tại sao cần phải nhấn mạnh ý nghĩa phổ quát của nhân quyền? Vì khi nói tới nhân quyền, nhiều nước thường đưa vào đó nội dung văn hoá, tức là họ cho rằng nhân quyền ở nước này khác nhân quyền ở nước kia vì nhân quyền là một quyền đặc thù có tính chất địa lý hay có tính chất văn hoá. Rõ ràng đưa yếu tố văn hoá vào để giải thích các vấn đề thuộc về con người là một cách để ngụy biện, để che đậy một thực tế là khái niệm quyền con người đã bị chính trị hoá. Tôi phản đối cách giải thích và cách hiểu này. Đã là nhân quyền thì quyền ấy phải được hiểu theo những định nghĩa thống nhất toàn cầu. Khi nói đến nhân quyền là nói đến các quyền cá nhân, quyền tự do của mỗi một con người.

    Thực tế, có sự khác nhau giữa trạng thái nhân quyền ở quốc gia này và quốc gia kia, nhưng đó không phải là đặc thù văn hoá mà là kết quả của trình độ phát triển. Các điều kiện để tôn trọng quyền con người rất khác nhau ở các quốc gia có mức độ phát triển khác nhau. Điều đó có nghĩa, những điều kiện chính trị khác nhau, những điều kiện kinh tế khác nhau, những điều kiện phát triển khác nhau sẽ tạo ra sự khác biệt giữa trạng thái nhân quyền ở các quốc gia. Và như thế không có nghĩa là người ta có quyền thừa nhận sự khác nhau về quyền con người. Phải chấm dứt trạng thái cho rằng quyền con người là một khái niệm mang đặc điểm văn hoá.

    Nhân quyền là các quyền bẩm sinh, quyền hiển nhiên, đấy là quyền của tạo hoá. Quyền của tạo hoá là quyền phổ biến, nó đúng và nó là đòi hỏi cho bất kỳ vùng địa lý nào, bất kỳ thể chế hay quốc gia nào. Bản Tuyên Ngôn Ðộc lập năm 1776 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, có lẽ là văn bản đầu tiên công bố khái niệm quyền con người một cách chính thức. Bản tuyên ngôn đã khẳng định quyền con người là vốn có và không thể xâm phạm, nó xuất hiện, tồn tại cùng xã hội loài người, không phải do con người võ đoán hoặc do ý chí áp đặt mà do “tạo hóa” sinh ra. Cần phải lên án và xoá bỏ tất cả mọi âm mưu làm biến dạng các quyền tự nhiên của con người.

    Quyền thứ hai là dân quyền hay quyền công dân, các quyền này quy định hành vi của người dân. Nếu không phân biệt nhân quyền và dân quyền thì rõ ràng chúng ta không biết bảo vệ dân quyền. Mỗi một quốc gia là sự kết hợp có chất lượng lịch sử của các mối tương quan giữa con người, giữa các cá thể với nhau. Điều đó có nghĩa, các quốc gia có sau con người và vì thế dân quyền có sau nhân quyền. Hơn nữa, dân quyền phải được định nghĩa dựa vào trạng thái phát triển chính trị của các quốc gia, hay quyền cơ bản của công dân lệ thuộc chủ yếu vào cấu trúc chính trị của quốc gia. Do đó, dân quyền là sản phẩm mang chất lượng quốc gia còn nhân quyền là sản phẩm tự nhiên của con người.
    Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia lạc hậu có sự không rành mạch giữa nhân quyền và dân quyền, tức là quyền cơ bản của con người với quyền cơ bản của công dân. Trong hiến pháp của một số nước, nhân quyền được quy kết vào quyền công dân: "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật"… Đó là sự thay thế nhân quyền bằng dân quyền, tức là biến một quyền hiển nhiên của con người thành quyền cho con người. Sự nhập nhằng giữa nhân quyền và dân quyền thường tồn tại ở những nhà nước phi dân chủ, còn ở những nhà nước dân chủ thì sự khác biệt ấy là rõ ràng, ở đó nhân quyền và dân quyền là hoàn toàn khác nhau.

    Nhân quyền khi trộn lẫn vào dân quyền thì luôn luôn phải đi qua cái vỏ hình thức của dân quyền. Một nhà nước mà không thực sự là của nhân dân thì nhà nước đó là cấp trên của nhân dân, nhà nước đó xác lập các quyền con người. Khi đó, các quyền đương nhiên, vốn có của con người trở thành các quyền có tính chất ban phát. Nhân quyền phải được luật pháp các nước thừa nhận, tức là nó được thể hiện dưới vỏ quyền công dân, phải nằm trong các bộ luật dưới hình thức các quyền công dân. Thế nhưng trong điều kiện các nhà nước phi dân chủ là nhà nước không được tạo ra bởi nhân dân, không được kiểm soát bởi nhân dân, thì đương nhiên, các quyền con người thông qua dân quyền trở thành quyền được bàn bạc bởi nhà nước. Ở những nơi đó, cả nhà chính trị và người dân không hiểu được giá trị nhân quyền, nên mới có thực tế là bản thân nhân dân cũng tầm thường hóa nhân quyền, cho rằng không cần đến nhân quyền mà chỉ cần dân quyền là đủ. Điều này cũng lý giải tại sao cải cách của những nước đó thất bại, là bởi thông qua cải cách, người ta chỉ tìm cách giải quyết những bài toán nới rộng không gian về dân quyền, tức là nới rộng quan hệ giữa con người và nhà nước mà bỏ qua vấn đề mấu chốt là nhân quyền. Người ta không nhận ra rằng nhân quyền mới là trung tâm của mọi vấn đề.

    Quyền thứ ba là chủ quyền. Chủ quyền chính là quyền quốc gia hay quyền sở hữu đất nước, mà người đại diện cho quốc gia là nhà nước. Lâu nay, nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia chậm phát triển hay nhấn mạnh vấn đề chủ quyền. Ở những nước này, chủ quyền chỉ được hiểu như là quyền của những người đại diện quốc gia để đối thoại với quốc gia khác mà người ta không biết rằng, chủ quyền chính là quyền của con người làm chủ đất nước, làm chủ quốc gia và tập trung tạo ra chính phủ, tạo ra nhà nước của mình. Đây chính là mấu chốt của mọi vấn đề liên quan đến quyền con người, nói cách khác, chủ quyền là nơi tập hợp tất cả những vấn đề phức tạp về phương diện chính trị của cấu trúc các quyền. Vì thế, nếu không làm rõ khái niệm nhân quyền thì nhân dân không hiểu đúng về chủ quyền, càng không biết đòi hỏi cơ hội để nói về vấn đề chủ quyền.

    Trên thực tế, người định nghĩa chủ quyền chính là các chính phủ. Đất đai là sở hữu toàn dân là một cách giải thích chủ quyền, biên giới là khái niệm mang tính chất chủ quyền. Sự tranh chấp về chủ quyền chủ yếu thông qua sự đàm phán của các quốc gia, của các chính phủ. Các chính phủ thường cường điệu mặt đối ngoại của chủ quyền mà quên mất nội dung bên trong, nội dung đối nội của nó. Nội dung đối nội của chủ quyền là quyền sở hữu đất nước, quyền làm chủ đất nước của mỗi một người dân. Và chỉ khi đất nước có ngoại xâm, hay là chỉ trong những trạng thái có chiến tranh xâm lược thì chủ quyền mới được giải thích như quyền đối ngoại. Còn trong điều kiện hoà bình, trong điều kiện các cộng đồng dân tộc thích hoà bình và không có chiến tranh, nội dung cơ bản của chủ quyền là các quyền đối nội, tức là quyền đối với nhau của các thành viên cấu trúc ra xã hội và cùng chia nhau quyền làm chủ quốc gia mình.

    Tuy nhiên, chủ quyền là quyền chính trị, nó được cấu trúc, được hình thành và phát triển bởi chất lượng của hệ thống chính trị. Lịch sử đã chứng minh rằng dân chủ là thể chế hợp lý nhất mà ở đó người dân có toàn quyền đối với đất nước của mình, chủ quyền là công cụ để bảo vệ nhân quyền và dân quyền. Vấn đề cần phải nghiên cứu là, ai là người đại diện cho chủ quyền trong các phát biểu quốc tế, trong các thảo luận quốc tế? Cơ sở pháp lý nào của các chính phủ cho phép họ có quyền nói về chủ quyền? Như vậy, các chính phủ phải là người đại diện chân chính và hợp pháp cho nguyện vọng của người dân và chỉ những người được lựa chọn bởi người dân mới có đầy đủ quyền của người đại diện. Quyền làm chủ của người dân trong chủ quyền là tạo ra chính phủ theo ý muốn và các chính phủ bắt buộc phải đối thoại quốc tế dựa vào đòi hỏi của người dân thông qua việc tạo ra các sinh hoạt quốc hội.

    Một cách tổng quát, có thể kết luận, chủ quyền là một khái niệm gồm hai yếu tố, đó là quyền tạo ra chính phủ của người dân, và quyền làm chủ của người dân, tức là quyền tạo ra các trạng thái chính sách, các trạng thái pháp luật. Nói cách khác, chủ quyền của người dân được xác lập tập trung ở các quyền dân chủ đối với hệ thống chính trị. Đây là một kết luận có tính chất lý luận căn bản về tổ chức nhà nước trong một nền chính trị dân chủ.

    Chúng ta phải nhận biết các cấp độ quyền con người để thấy được cần phải tôn trọng và bảo vệ con người với đầy đủ các quyền của họ. Tôn trọng và bảo vệ các quyền con người là dấu hiệu của xã hội có những con người tự do hay xã hội dân chủ. Emmanuel Kant (1724 - 1804), người đã từng có đóng góp lớn vào việc nghiên cứu sự vận hành của trái đất, sự tồn tại của Ðại Thiên hà vũ trụ nằm ngoài Thiên hà, cũng chính là nhà bác học rất thích nhắc đi nhắc lại câu ngạn ngữ: "Hãy thực hiện công lý đi, cho dù thế giới có tiêu vong". Có thể hiểu câu ngạn ngữ này là, dù thế giới có tiêu vong đi chăng nữa thì chúng ta vẫn phải tôn trọng công lý, vì sự tôn trọng công lý là dấu hiệu thể hiện chúng ta là con người, mà tôn trọng công lý chính là tôn trọng con người, tôn trọng các quyền con người. Qua câu nói đó, chúng ta thấy được tầm vóc suy nghĩ, sự lạnh lùng, sự tỉnh táo, sự thú vị và bản lĩnh của một nhà hiền triết vĩ đại. Những con người như thế giúp chúng ta nhận thức về bản thân, về nhu cầu phải khám phá, phải đòi hỏi để từ đó trả lời câu hỏi chúng ta là ai, nếu chúng ta là con người thì phải sống đúng nghĩa là người với đầy đủ các quyền con người.

    Nguyên lý về quyền con người là nguyên lý mà người ta không thể nhân danh bất kỳ lý do nào để phủ nhận nó được, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của một dân tộc trong quá trình ganh đua toàn cầu. Chân lý tất yếu của quyền con người là sự tự giác của các không gian. I. Gandhi trước khi làm thủ tướng Ấn Độ viết một luận văn tiến sỹ là Không gian vật chất và tinh thần cần thiết cho một cá nhân để phát triển. Quyền là không gian sáng tạo của con người, không gian tuyệt đối phải được đảm bảo nếu con người muốn phát triển, hay muốn trở thành nhà lãnh đạo chân chính. Do đó, nhiệm vụ của nhà chính trị là biến trí lực của người dân thành lực lượng của đời sống xã hội. Nhà chính trị, nhà lãnh đạo có không gian quyền lực riêng, đó là không gian phối hợp các năng lực của đời sống xã hội mà nhà chính trị quản lý.

    Nguyễn Trần Bạt (Cội nguồn cảm hứng)

    Facebook Digg Stumbleupon Favorites More